Browsing Tag

Phan Thu Vân

Văn học Nhật Bản Văn học phương Đông

DUYÊN DO SỰ HÌNH THÀNH NƯỚC TĂNG GIÀ LA

DUYÊN DO SỰ HÌNH THÀNH NƯỚC TĂNG GIÀ LA

 Inoue Yasushi

(Phan Thu Vân dịch từ bản tiếng Trung)

         Trước đây rất lâu, phía nam Ấn Độ có một vương quốc nhỏ, công chúa con quốc vương nước ấy được gả cho nước láng giềng, thế là vào giờ hoàng đạo của một ngày tốt lành, một đội ngũ hơn ba mươi thị vệ đưa tân nương ra khỏi hoàng cung. Vì quốc gia nhỏ, nên đoàn người ngựa đưa dâu đến chiều tối ngày thứ hai đã tới một thôn trang dưới chân ngọn núi cao nằm ở biên giới hai nước. Dự tính ngày thứ ba và ngày thứ tư đều sẽ cắm trại qua đêm trong rừng núi, ngày thứ năm có thể tới được nước láng giềng. Nghe nói ngọn núi này thường có cường đạo và yêu quái xuất hiện quấy rối người qua lại, cho nên quốc vương lần này đã đặc biệt chọn lấy đoàn thị vệ ai nấy đều trẻ tuổi, thân thể cường tráng.

         Đoàn người ngựa trú ngụ một đêm trong thôn trang dưới chân núi, trước khi trời sáng thì chuẩn bị vào núi. Đoàn người đi theo kế hoạch trù tính từ trước, một ngày một đêm bình an qua đi. Ngày tiếp theo, ban ngày cũng bình an vô sự, nhưng tới tối, khi họ vượt núi và cắm trại qua đêm tại một vùng đất bằng nhỏ hẹp sau lưng núi, tai nạn cuối cùng cũng đã giáng xuống.

         Đêm khuya, mọi người bị một tiếng gầm thét kỳ quái làm giật mình tỉnh giấc. Các thị vệ trẻ tuổi bật dậy, lắng tai nghe ngóng cảnh giác. Tiếng gầm thét lại truyền tới, xuyên qua hẻm núi, vượt qua đỉnh núi, khiến người ta lạnh tóc gáy. Các thị vệ thầm nghĩ, có lẽ là hổ, thế là mỗi người đều nín thở tập trung tinh thần. Khi tiếng gầm thét vọng đến lần thứ ba, dường như gần hơn một chút, các thị vệ trẻ tuổi đều không ngăn được đôi chân họ trở nên mềm nhũn. Bất luận cường đạo hay yêu quái, họ đều không sợ, nhưng địa phận này cơ hồ chưa từng có hổ xuất hiện, cho nên không ai biết phải đối phó với hổ thế nào. Trước mắt những người thanh niên này dường như bắt đầu hiện ra hình ảnh con mãnh thú lần theo mùi người, từng bước tiến gần.

         Lần thứ tư, tiếng gầm thét phát ra từ phía gần nơi cắm trại. Một thị vệ trong số họ thực sự không nhẫn nại thêm được nữa, bèn chui ra khỏi lều, thế là những người khác cũng chạy theo anh ta. Bên ngoài là một đêm trăng sáng, ánh trăng trắng xanh trải trên mặt đất, sáng như ban ngày, song những dãy núi cao thấp nối tiếp nhau lại là một mảng đen đặc quánh. Bấy giờ, tiếng gầm gào liên miên không dứt, mỗi lúc một gần lều trại hơn, nhưng lại không thể phán đoán được âm thanh truyền đến từ đâu. Các thị vệ có cảm giác con hổ dường như bất kỳ lúc nào cũng có thể xông ngay đến. Trên núi phía sau lều trại, những lùm cây rậm rạp bị gió thổi xào xạc, các thị vệ vội vàng nhảy vào trong bóng râm dưới chân núi trước mặt, tránh ánh trăng chiếu vào người, rồi lao thẳng xuống dưới núi.

         Sau khi các thị vệ chạy trốn hết, tiếng gầm gừ lại dội tới từng đợt, còn hung tợn hơn trước. Không biết đã đến lần gầm thét thứ bao nhiêu, con mãnh thú cuối cùng cũng theo tiếng gầm mà xuất hiện ở góc khoảng đất bằng, hóa ra là một con hổ cực lớn. Bấy giờ ở đó chỉ còn lại chiếc kiệu của tân nương.

         Cả mình con hổ tắm trong ánh trăng, nó thong thả vờn quanh khu lều trại. Đột nhiên, chiếc rèm che của một chiếc lều được vén lên, bóng dáng người con gái xuất hiện, vừa đúng lúc nàng đứng vào nơi mà vừa nãy con hổ bước qua. Con hổ nhảy lùi về sau theo bản năng, rùn thấp người xuống, chuẩn bị tư thế sẵn sàng. Chỉ thấy dưới ánh trăng trắng bệch, người con gái giống như bị thôi miên, hướng về phía con hổ dò dẫm bước vài bước, rồi nhanh chóng ngã lăn ra như một khúc củi khô. Nàng đã sợ mất hồn mất vía.

         Thoáng chốc mười mấy năm trôi qua. Tân nương ngày nào đã cùng con hổ sống chung nơi thâm sơn cùng cốc và sinh ra một trai một gái. Mỗi ngày con hổ đều vào rừng sâu săn bắt hươu rừng, hái quả dại về nuôi con. Người đàn bà cũng từng đau khổ và nuối tiếc vì cảnh ngộ lạ lùng mà mình gặp phải, nhưng cuối cùng vẫn thuyết phục mình rằng đây là nhân duyên từ kiếp trước, trời định rằng bà phải sống với danh phận vợ loài cầm thú suốt đời này. Hai đứa con cả trai lẫn gái đều có dáng vẻ bề ngoài giống người bình thường, nhưng bên trong lại đầy thú tính, tính cách vô cùng bạo liệt. Đặc biệt là người anh, không chỉ có thân thể to lớn, mà sức mạnh cũng chẳng thua gì mãnh thú. Thế nhưng đến một năm kia, vào một đêm nguyệt thực, hai anh em đột nhiên có tính người, biết nói tiếng người. Người đàn bà vui mừng đến nỗi tưởng như đang nằm mơ, nhưng niềm vui chẳng tày gang.

         Hai anh em bắt đầu truy vấn mẹ, vì sao mình rõ ràng là người, mà lại có cha là hổ. Người mẹ không muốn cho con biết thân thế của chúng, nhưng hai anh em cương quyết không buông. Thế là người mẹ bất đắc dĩ phải nói về sự việc ly kỳ mà mười mấy năm trước mình đã gặp phải. Con trai nghe xong nói: “Hổ và người vốn khác loài, chúng ta lẽ nào không nên nhanh chóng trốn khỏi con hổ này, đi đến sống với loài người sao?” Em gái cũng tỏ ý đồng tình. Người mẹ cho rằng con mình muốn chạy trốn cũng không sao, song bản thân thì không thể. Bà nói: “Tuy mẹ cũng từng có ý muốn trốn chạy khỏi chồng hổ, nhưng cuối cùng hiểu ra rằng dù có rời bỏ được cũng chẳng ích gì, cho nên mới từ bỏ ý định này. Huống chi mẹ là đàn bà, không thể nắm chắc liệu có chạy thoát được không. Con hổ có sức mạnh ngày chạy ngàn dặm, mắt nhìn xuyên được ngàn dặm. May mà hai con không thua kém cha, nếu có thể chạy trốn thì chắc là thoát được. Hãy tìm thời cơ rời khỏi đây, đến nơi có người sinh sống, sống cuộc sống của loài người. Đó cũng là điều mà người làm mẹ như mẹ đây mong muốn.”

         Nửa năm sau, có lần con hổ vượt núi đi xa săn mồi, hai anh em nói với mẹ đây chính là cơ hội tốt để chạy trốn. Tuy vậy, người mẹ vẫn không muốn đi. Thế là, anh con trai cõng luôn người mẹ đang phản đối lên lưng, đưa em rời khỏi hang hổ. Họ chạy men theo con đường xuống chân núi gần nhất đã được thăm dò từ trước, ngày hôm sau đã tới được nơi thôn làng có người sinh sống.

         Khi bóng thôn làng dần dần lọt vào tầm mắt, người mẹ cuối cùng cũng đã từ bỏ ý muốn quay lại với chồng hổ, vì quay lại cũng không làm được gì nữa. Người mẹ nói với hai con: “Vậy hãy về quê của mẹ. Nhưng các con phải nhớ kỹ dù thế nào chăng nữa cũng không được tiết lộ việc chồng của mẹ và cha của các con là hổ. Người đời nếu biết việc này, chúng ta sẽ bị kỳ thị đến chết, không thể sống tiếp được, cho nên dù thế nào chăng nữa cũng nhất định phải giữ bí mật.”

         Chiều tối ngày hôm sau, người mẹ đưa hai con quay về đất nước nơi mình sinh ra, nhưng hoàng thất ngày xưa đã không còn nữa, các thành viên trong gia tộc đều chẳng còn ai sống sót, quốc gia đã bị quốc gia khác chiếm lĩnh. Biết được tin này, ba mẹ con đứng ngẩn ra giữa đường, không biết phải đi đâu về đâu. Người trong thành thấy ba mẹ con trần trụi nửa người, ăn mặc kỳ dị bèn xúm nhau lại xem, đồng thời hỏi họ từ quốc gia nào tới. Người mẹ nói với mọi người: “Chúng tôi vốn là người xứ này, về sau bị ác nhân lừa gạt, lưu lạc tha hương nhiều năm, nay cuối cùng mẹ con tôi cũng được trở về cố quốc.” Mọi người nghe xong không ai không tỏ vẻ xót thương, đem quần áo và thức ăn cho họ. Ngày tiếp theo, mọi người lại giúp ba mẹ con dựng một căn nhà nhỏ bên ngoài thành để họ tạm thời có nơi trú ngụ. Ba mẹ con mỗi người đều đi làm công cho nhà người khác, tạm coi là đủ ăn qua ngày.

        

         Cứ như thế được một tháng, quốc gia này bắt đầu thường xuyên bị hổ quấy nhiễu. Con hổ vì quá thương nhớ vợ con mà lửa giận ngút trời, xông ra khỏi rừng sâu núi thẳm, thường xuyên lởn vởn trong các thôn làng, gầm gừ kêu gào, hết lần này đến lần khác tấn công người dân và giết các gia súc. Mọi người mới hôm nay thấy hổ trong thôn, ngày mai đã gặp nó xuyên qua hẻm núi; cho rằng nó chạy vào thâm sơn cùng cốc, lại thấy nó xuất hiện trên đường và giữa ruộng gần thôn làng. Người bị hổ tấn công vô số kể, mọi người đều sợ hổ mà run rẩy không yên, thậm chí không thể ngủ ngon giấc. Những lữ khách phải qua núi lại càng sợ hãi, nếu chỉ đi thành nhóm nhỏ thì quá nguy hiểm, người ta không thể không tụ tập thành từng đoàn mấy mươi người, khua chiêng gõ trống, chuẩn bị sẵn cung tên giáo mác.

         Quốc vương biết được sự việc, sợ hại đến an nguy của quốc gia, bèn đích thân bắt tay vào việc trị hổ. Quốc vương triệu tập thợ săn trong toàn quốc, phái đến vùng núi nằm gần biên giới quốc gia nơi con hổ ẩn náu. Thế nhưng, con hổ này xuất quỷ nhập thần, cách đối phó của quốc vương chỉ khiến cho những người thợ săn hy sinh vô ích, mà hổ thì vẫn không sao giết được. Quốc vương sau khi nhận ra các thợ săn không thể đảm nhận nhiệm vụ này thì đích thân dẫn quân bao vây ngọn núi. Binh sĩ lên đến hàng vạn, bị phân thành vô số đội nhỏ, mỗi ngày đều chui vào rừng sâu, leo lên núi cao, xuyên qua sơn cốc. Nhưng tiếng gầm kinh thiên động địa của con hổ ngày nào cũng vang lên trong các hẻm núi. Cứ tiếp tục như thế chỉ khiến cho người và gia súc mất mạng vô ích. Rất nhiều binh sĩ chỉ vừa nghe được tiếng gầm của hổ hai chân đã run lẩy bẩy, thậm chí co rúm lại không dám tiến lên phía trước, vừa kêu khóc vừa chạy xuống núi.

         Bấy giờ lại có vài thợ săn đến muốn thử chinh phục mãnh thú, có những người từ quốc gia khác tới. Binh sĩ và thợ săn hợp lực tiến vào khe núi. Thế nhưng, ban ngày không thấy bóng dáng con hổ đâu, ban đêm nó lại đến tập kích khu lều bạt, mỗi đêm đều có người thương vong.

         Thế là, quốc vương yết bảng trong nước, tìm dũng sĩ có thể diệt trừ hổ dữ. Ai có thể tiêu diệt hổ, giải nạn cho nước, tất được trọng thưởng. Tuy vậy, chẳng một ai dám đến gỡ bảng, đảm trách nhiệm vụ khó khăn này.

         Tin quốc vương yết bảng cũng đã truyền tới khu dân nghèo mà ba mẹ con nhà kia sinh sống. Người anh trai nói với mẹ: “Cứ nghèo mãi thế này thực không phải cách, mùa đông đã đến gần, chúng ta không có lương thực, cũng không có quần áo ấm. Con sẽ xung phong đi giết hổ.” Nghe những lời này, người mẹ biến sắc, vô cùng đau khổ: “Con ơi, sao con có thể nói ra những lời như vậy? Hổ tuy là con vật, nhưng lại là cha của các con. Không nên vì cuộc sống của mình khổ cực mà có ý nghĩ đáng sợ là phải mưu hại cha mình, làm ra cái việc đại nghịch bất đạo như vậy.” Nhưng bấy giờ người em gái cũng nói giúp anh mình, hai anh em cùng một suy nghĩ: “Hổ là loài khác, chẳng có cái gì là đạo lý thuận nghịch ở đây cả. Huống chi chúng ta đã từ bỏ cha, nay lại nói về đạo cương thường nghĩa cha con thì có ích gì? Chúng con chỉ có thể làm theo điều mình nghĩ. Trong nhà đến gạo ngày mai ăn cũng đã không còn nữa.” Người mẹ biết mình không thể thay đổi được con, quỳ sụp ngay xuống nền nhà, lặng lẽ khóc.

        

         Chàng trai trẻ giắt con dao nhỏ vào người, bước ra khỏi nhà, hướng về phía ngọn núi lớn nơi mình từng sinh ra và lớn lên, chuẩn bị tự tiến cử mình trước mặt quốc vương. Lúc sắp tới ngọn núi nơi con hổ trú ngụ, chỉ thấy trong các thôn làng đều có điểm đóng quân. Anh đến một điểm đóng quân, báo rằng mình là dũng sĩ đến muốn xin tham gia trừ hổ, sau đó được đưa từ trạm quân này sang trạm quân khác. Dù đến chỗ nào, anh cũng  đều được các binh sĩ khuyên can rằng anh chỉ là thằng ngốc không biết hổ đáng sợ thế nào. Còn có người nói anh quá lỗ mãng, khuyên anh nên mau chóng trở về quê. Nhưng người trai trẻ chỉ coi những lời này như gió thoảng qua tai. 

         Không biết đã qua bao nhiêu trạm gác, cuối cùng người thanh niên cũng được đưa đến trước lều của quốc vương dựng dưới chân núi, bái kiến quốc vương. Quốc vương hỏi chàng thanh niên duy nhất dám đến nhận nhiệm vụ cam go: “Ngươi định dùng sách lược nào để đối phó với mãnh thú?” Chàng trai đáp rằng chỉ cần lúc con hổ xuất hiện, xông tới trước mặt đâm chết nó. Các binh sĩ có mặt tại đó không ai nhịn được cười, chỉ riêng quốc vương không cười mà nói với người trai trẻ: “Ngươi hãy làm như vậy.”

         Sau đó, chàng thanh niên ở tại một nơi đồn trú dưới chân núi, suốt mấy ngày không có việc gì để làm. Cho dù quốc vương phái hàng ngàn hàng vạn binh mã đóng khắp các hang hốc, bao vây ngọn núi, song không hiểu vì sao con hổ suốt mấy ngày trời không thấy xuất hiện.

         Một đêm nọ, người trai trẻ bị tiếng la hét và tiếng trống quân vang vọng trong núi làm thức giấc. Một binh sĩ tới nói cho anh biết con hổ đã xuất hiện trong rừng.

         Chàng trai nắm lấy con dao nhỏ giắt vào người, lập tức vọt ra khỏi lều. Ánh trăng sáng đến mức tưởng như ban ngày. Rời nơi đồn trú chưa xa, đã có thể nhìn thấy bóng dáng các binh sĩ rải rác khắp nơi, người bên khe suối, người ở lưng đồi, người ven góc núi, đến trong những bụi cây cũng có người đang mai phục. Binh sĩ đã bao vây toàn bộ khu rừng nguyên sinh âm u um tùm nơi con hổ đang ẩn náu. Phục binh có người chuẩn bị rút dao, có người giương cung chuẩn bị bắn tên, có người đang cầu nguyện, cũng có người đến giờ phút này còn chuẩn bị chạy trốn. Chàng trai lặng lẽ xuyên qua khu vực binh sĩ mai phục.

         Cuối cùng, anh vượt qua mức cảnh giới, đi vào nơi hoang dã, xuyên qua những bụi cỏ dại cao lút đầu người, vào khu rừng của hổ. Khi ra khỏi vùng cỏ mọc đầy, tiếng la hét và tiếng trống trận huyên náo vừa nãy còn nghe rõ giờ đột nhiên ngưng bặt. Anh từ từ tiến gần đến khu rừng, rồi dừng bước. Vốn dĩ tưởng rằng con hổ náu mình trong rừng sâu, nhưng không phải, một thân thể lừng lững mạnh mẽ đang nằm trên một phiến đá lớn trên một vùng đất khá bằng phẳng ngay cửa rừng. Anh có thể chắc chắn con hổ ấy là cha mình.

         Con hổ đang tắm trong ánh trăng, bất động như một pho tượng, chỉ có đôi mắt sáng rực. Chàng trai nhìn chăm chú về phía con hổ một lúc, trong tim hoàn toàn không có cảm giác xúc động như khi con gặp được cha, mà hoàn toàn coi đó là con mãnh thú cần phải tiêu diệt. Con hổ chuyển hướng nhìn chàng trai, đôi mắt mở lớn, nhưng vẫn hoàn toàn bất động, không biết có nhận ra người thanh niên này là ai hay không. Cuối cùng, con hổ từ từ nhổm dậy, vươn hai chân trước, dùng sức cong người lên, gầm một tiếng lớn, những cành cây trong rừng lay động theo gió. Con hổ đi vòng quanh tảng đá, đuôi rủ xuống, chuẩn bị hướng về phía người thanh niên to gan đang dám bước gần về phía nó khiêu chiến. Nó cong người, hạ thấp đầu, sẵn sàng trong tư thế tấn công.

         Người thanh niên cũng nhìn thẳng vào đôi mắt hổ với tư thế sẵn sàng. Nhưng một giây sau đó, con hổ bỗng dưng thả lỏng người, như thể quên mất phải tấn công. Nó thu chân trước, rồi ngồi xuống với một vẻ rất trẻ con. Người thanh niên ý thức được rằng đối phương đã hoàn toàn nhận ra anh là ai.

          Người thanh niên lại bước thêm mấy bước. Con hổ vẫn bất động. Anh nhìn thấy rõ trong trái tim con mãnh thú lúc này chỉ còn lại sự dịu dàng và nỗi nhớ nhung. Anh trèo lên tảng đá, con hổ chậm rãi quay đầu về phía anh. Anh tới bên con hổ, cúi người xuống. Thế là, con hổ nằm lăn ra, lim dim mắt, nhìn anh với ánh mắt hiền từ không thể biểu đạt thành lời. Trong một thoáng, người thanh niên cảm thấy động lòng trước thái độ của cha hổ, nhưng lập tức phủi ngay cảm xúc ấy ra khỏi đầu. Anh thò tay nắm lấy con dao nhỏ trong người, rồi rút ra đâm mạnh vào lồng ngực hổ. Lập tức máu phọt ra như suối, trên phiến nham thạch tung tóe những bọt máu đen. Con hổ quẫy đạp mạnh, nhưng dường như rất nhanh lại quên đi sự phẫn nộ, vẫn hiền từ nhìn chăm chú vào chàng thanh niên. Anh dùng hết sức lực rút con dao nhỏ trên bụng hổ rồi quyết liệt rạch toang vùng da bụng. Lúc này, trên gương mặt hổ thoáng một nét đau đớn, cái miệng mở to như muốn hớp hết ánh trăng. Nó rên lên mấy tiếng trầm đục, thanh âm ấy lúc cao lúc thấp, liên tục trong một quãng, rồi tắt thở.

         Ngày hôm sau, người thanh niên được đưa đến trước mặt quốc vương. Quốc vương hỏi anh là người nước nào, vì sao có thể hoàn thành việc không tưởng tượng nổi như thế. Thanh niên đáp: “Tôi là người nước này, chỉ vì thời thơ ấu lớn lên trong rừng núi, quen thuộc với thói quen và tính nết của loài mãnh thú.” Quốc vương không hài lòng lắm với câu trả lời, cảm thấy có nguyên nhân đặc biệt nào khác, nên lệnh cho anh ta không được giữ trong lòng, phải thành thật trình bày. Vua hứa chỉ cần anh nói thật, không chỉ được trọng thưởng mà còn được làm quan. Song chàng thanh niên vẫn lặng thinh. Thế là quốc vương nói: “Nếu ngươi dù thế nào chăng nữa cũng không muốn nói thật thì ta chỉ còn cách trục xuất ngươi sang nước khác, vì tại quốc gia này không ai được làm trái mệnh lệnh của nhà vua.” Chàng thanh niên vẫn không chịu khai. Quốc vương cũng không dễ dàng từ bỏ, hết ngày này sang ngày khác gọi anh ta đến, vừa dọa nạt, vừa dụ dỗ. Sau nhiều ngày, anh ta cuối cùng không chịu nổi nữa, bèn nói cho quốc vương biết thân thế thực sự của mình, kể lại việc mình chạy trốn khỏi cha hổ, về lại cố quốc, rồi vì nghèo khổ mà xung phong đi giết hổ.

         Nghe anh ta kể xong, quốc vương gay gắt: “Đại nghịch bất đạo! Mưu hại cha ruột của mình, người như thế sẽ còn đối xử với người không phải cha mẹ mình ra sao? Thật là thú tính khó dạy bảo. Tuy ngươi có công lớn vì dân trừ hại, nhưng việc giết chết cha mình quả thật tội không thể tha. Ta sẽ trọng thưởng công lao của ngươi, nhưng vẫn phải trừng phạt tội giết cha, đày ngươi sang nước khác. Như thế mới không trái với phép nước. Ta là quốc vương, nói một là một, hai là hai.”

         Người thanh niên bị đưa về nhà chờ quốc vương xử lý. Không lâu sau, quốc vương lệnh cho đóng hai chiếc thuyền lớn, trên thuyền lương thực và quần áo chất cao như núi. Mọi việc chuẩn bị xong xuôi, hai anh em bị gọi đến, mỗi người bị đưa lên một con thuyền. Ngày hai chiếc thuyền lớn chở hai anh em họ rời bến, dân chúng tụ tập dọc bên bờ xem rất đông.

         Quốc vương đã ban thưởng và trừng phạt hai anh em họ như vậy, còn người mẹ vẫn được ở lại trong nước. Quốc vương làm nhà cho bà ở, trợ cấp đầy đủ cho bà đến trọn đời, coi như ban thưởng vì bà đã giữ tròn bổn phận làm vợ.

         Hai chiếc thuyền phiêu bạt theo những con sóng xanh thẫm của phương nam. Chiếc thuyền của người anh sau mấy mươi ngày lênh đênh trên biển đã đến bên bờ một hòn đảo nhỏ. Người anh thấy trên đảo cây cối xanh tốt, nhiều hoa thơm quả ngọt, bèn quyết định lưu lại nơi đây. Sau đó vài năm, một chiếc thuyền gặp nạn dạt vào hòn đảo, trên thuyền có một gia đình thương nhân còn thoi thóp thở. Người thanh niên giết chủ thuyền, rồi cho con cái của gia đình này lưu lại trên đảo. Sau đó, người thanh niên cùng các con của thương nhân sinh con đẻ cái hết đời này đến đời khác. Đời sau tiếp tục sinh sôi nảy nở không dứt. Về sau lại có thuyền dạt vào đảo, cư dân trên đảo càng đông đúc thêm lên. Cứ như thế suốt vài trăm năm, cư dân trên đảo bắt đầu phân quân thần trên dưới, sau đó kiến thiết đô thành, xây nên rất nhiều thành trì và thôn xóm.

         Câu chuyện người thanh niên giết hổ đươc lưu truyền đời này sang đời khác như một truyền thuyết về tổ tiên trên đảo. Theo thời gian, không biết từ lúc nào hổ đã biến thành sư tử. Tổ tiên đã từng giết sư tử, đời sau bèn lấy sư tử làm quốc hiệu, gọi là Sư Tử quốc.

         Người em gái cũng tai qua nạn khỏi, chiếc thuyền lớn cuối cùng dạt vào phía tây nước Ba Tư, sau đó bị quỷ thần mê hoặc, sinh ra một đàn con gái. Đây là tổ tiên của Tây đại nữ quốc.

         Câu chuyện trên được ghi lại trong Đại Đường Tây vực ký của Huyền Trang Tam Tạng. Huyền Trang không đích thân đi qua Sư Tử quốc, có lẽ ông ghi lại truyền thuyết nghe được từ dân bản địa. “Người nước Sư Tử tướng mạo đen đúa xấu xí, to lớn, tính tình mạnh mẽ hoang dã, là giống còn sót lại của loài mãnh thú, cho nên người của họ dũng mãnh khỏe khoắn.”

         Đại Đường Tây vực ký ghi lại như vậy. Nhân tiện cũng nói luôn, nửa đầu thế kỷ thứ bảy khi Huyền Trang Tam Tạng đi Ấn Độ, cái tên Sư Tử quốc bị bỏ đi, thay bằng tên nước Tăng Già La, cũng chính là đảo Tích Lan (Sri Lanka) ngày nay. Còn Tây đại nữ quốc mà người em gái là tổ tiên thì ngày nay là đảo nào, đã không còn ai biết.

Văn học Nhật Bản Văn học phương Đông

HỒNG THỦY (Truyện của Inoue Yasushi; Phan Thu Vân dịch từ bản tiếng Trung)

HỒNG THỦY[1]

(Truyện của Inoue Yasushi; Phan Thu Vân dịch từ bản tiếng Trung)

Những năm cuối đời Hán Hiến Đế (tại vị từ năm 189 đến năm 220 Công nguyên), Tác Lệ dẫn một ngàn binh Đôn Hoàng ra khỏi Ngọc Môn quan với nhiệm vụ đi tới bờ sông Khố Mỗ của sa mạc Taklamakan để xây dựng căn cứ đóng quân mới. Cách biệt ba mươi năm, quân Hán lại lần nữa vượt qua biên ải, ra đến gần Tây vực.

Từ sau lần đầu tiên Hán Vũ Đế chính thức dùng vũ lực để đối phó với Tây vực, đến nay đã đằng đẵng hơn ba trăm năm. Trong thời gian này, Hán và Hung Nô vẫn đấu tranh không ngừng trên chiến trường Tây vực. Ngọc Môn quan và Dương quan lúc đóng lúc mở, uy thế nhà Hán từng có lúc vượt qua khỏi dãy núi Côn Lôn, còn Hung Nô cũng từng băng qua Ngọc Môn quan để tiến vào xâm lấn đến tận lưu vực sông Hoàng Hà.

Từ Tây Hán đến Đông Hán, các đời vua đều cảm thấy vấn đề Hung Nô là một thách thức lớn lao, không thể kê cao gối ngủ chẳng thèm bận tâm chuyện gì đang diễn ra. Muốn thu lại được Hà Tây tất phải đánh bại Hung Nô, mà muốn đánh Hung Nô tất phải nắm được Tây vực. Tuy vậy, đường đến Tây vực xa xôi hiểm trở, thêm vào đó người Hồ nay thế này mai thế khác rất khó lường, mà kinh phí cho việc nuôi quân lại quá lớn, vì vậy hết đời này đến đời khác, thế lực thống trị đều đành buông tay từ bỏ Tây vực sau một thời gian ngắn. Đây dường như là luân hồi không ngừng của định mệnh.

Tác Lệ tiến quân vào Tây vực, chẳng qua cũng là một lần luân hồi như vậy trong chặng đường lịch sử dài vô tận.

Ba mươi năm trước Hán từ bỏ Tây vực, nhưng những năm gần đây sự quấy rối của Hung Nô càng lúc càng trở nên quá quắt. Địa phận Hà Tây một năm nhiều lần bị vó ngựa sắt Hung Nô giẫm nát. Vì vậy, để một lần nữa quét sạch căn cứ địa của Hung Nô, Hiến Đế buộc phải phái binh vào Tây vực. Thế là nhiệm vụ xây dựng doanh trại quân sự chuẩn bị cho một lượng lớn quân Hán tiến vào được đặt lên vai Tác Lệ. Trong sách sử tuy có ghi lại rằng “Đôn Hoàng Tác Lệ, tự Nhan Nghi, hữu tài lược.” (Tác Lệ vùng Đôn Hoàng, tên tự là Nhan Nghi, là người có tài thao lược), nhưng trước khi đến đóng tại Tây vực, hoàn toàn chẳng ai biết được điều gì rõ ràng về chàng cả.

Từ xưa đến nay, binh sĩ được phái vào Tây vực đều là tù phạm hoặc thành phần bất hảo. Thời Vũ Đế, Trương Khiên lần đầu đi sứ Tây vực dẫn theo tất thảy là đám cường bạo man di; binh sĩ của Nhị Sư tướng quân Lý Quảng Lợi vào Đại Uyển xin ngựa tốt cũng toàn loại tội đồ bán mạng. Cho đến sau này, những người lập được chiến công hiển hách tại Tây vực như Ban Siêu, Ban Dũng… cũng không ngoại lệ, đều chiêu mộ kẻ tội đồ, phường lêu lổng trong thiên hạ để tổ chức thành đội quân của mình.

Đội quân quy mô lớn vào Tây vực mà còn như thế, thì không khó tưởng tượng một ngàn quân đi cắm đất lập doanh trại của Tác Lệ là đồ vô danh tiểu tốt đến cỡ nào. Vị võ tướng  ngoài bốn mươi tuổi, sinh ra ở vùng ven đã đặc biệt chọn ra những phần tử liều lĩnh nhất trong đội quân đóng tại biên cương Đôn Hoàng làm tùy tùng. Tiêu chuẩn duy nhất mà vị tướng yêu cầu ở mỗi binh sĩ là bờ lưng chắc khỏe để kéo được cánh cung căng cứng.

Tác Lệ và mọi người đều cho rằng một ngàn binh sĩ này một khi đã ra khỏi Ngọc Môn quan thì đừng nghĩ đến chuyện quay về đất nhà Hán nữa. Hôm ấy, cánh quân đi đầu của Tác Lệ thúc cho lạc đà tiến lên phía trước. Lúc đội quân cuối cùng rời khỏi tường thành Ngọc Môn quan khoảng hai trăm mét, bỗng dưng tất cả đều dừng lại. Tác Lệ không ra bất kỳ mệnh lệnh nào, chỉ muốn cho binh sĩ một cơ hội vĩnh biệt cố quốc. Đội quân tập hợp từ khi trời mờ sáng, nhưng thời gian chuẩn bị dài hơn nhiều so với dự tính, nên lúc này mặt trời đã lên rất cao, khiến người ta dễ dàng liên tưởng đến cái nóng khốc liệt của buổi trưa. Giữa ánh nắng rực rỡ, tường thành Ngọc Môn quan bày ra trọn vẹn cái hình dáng xám xịt, đầy vẻ u ám nặng nề.

Tác Lệ ngước nhìn lên vọng lâu chót vót của Ngọc Môn quan. Lúc rời mắt khỏi nơi ấy, nét mặt chàng kiên định trở lại, ánh mắt chàng khôi phục sự sắc bén thường ngày. Chàng truyền lệnh tiến bước.

Cả đời Tác Lệ trôi qua trong cuộc chiến trường kỳ chống Hung Nô, nhiều lần bị điều chuyển đến vùng biên giới, nửa thời gian của đời người đã rót vào cuộc chiến với dị tộc. Giờ đây, dù phải nhận lệnh tới nơi đâu, chàng cũng đều có thể giữ thái độ bình thản không lay động. Nhưng lần tiến binh Tây vực này khiến chàng ít nhiều mang chút cảm khái khác với mọi lần. Chàng hiểu rất sâu sắc việc xây dựng một căn cứ địa bé nhỏ giữa trung tâm thế lực lớn mạnh của kẻ địch có nghĩa thế nào. Đó chính là thời gian từ nay về sau sẽ không ngừng bị bào mòn trong những cuộc chiến không ngừng nghỉ với Hung Nô. Đó chính là mình sẽ thịt nát xương tan vì những chính sách thất thường của các nước Tây vực không sao lường trước. Hơn nữa để có thể sống sót, phải canh tác, mà cho dù may mắn trồng trọt chăn nuôi thành công được bên bờ sông Khố Mỗ thì muốn kiên trì dài hạn được trong sa mạc, dường như cũng là điều không thể. Triều đình nếu tích cực chi viện thì còn cầm cự được, bằng không, vận mệnh của các binh sĩ sẽ giống như đất vừa khai hoang, cuối cùng cũng bị bỏ rơi trong hoang mạc. Không thể quá trông đợi vào sự chi viện của triều đình. Nhà Hán ngày một suy bại, lại quá bận ổn định đối nội nên lúc nào chính sách ngoại vực cũng có thể thay đổi. Việc sáng ban lệnh ra chiều đổi ý đã thành thói quen của nhà cầm quyền những năm trở lại đây.

Trưa hôm đó, đội quân của Tác Lệ bước vào lòng sa mạc mênh mông vô tận. Từ ngày thứ ba trở đi, sa mạc biến thành những đồi cát thoai thoải trải dài trước mắt, vượt hết đồi cát này lại tiếp một đồi cát khác. Từ ngày thứ tư, quân đội dàn thành thế trận tiến lên phía trước. Tối hôm đó, họ tìm được một nơi có nhiều cây xanh để cắm trại. Trong đêm, không biết từ đâu có tin báo rằng xuất hiện mười mấy nam nữ ăn mặc kỳ lạ đến bán nước. Đó là người tộc Á Hạ.

Tác Lệ gọi một cô gái trẻ trong đám người ở lại lều của mình qua đêm. Người con gái không phản kháng. Thân thể nàng sáng lấp lánh như bôi một lớp dầu, da nàng lạnh như da cá. Nàng là con lai giữa người Hán và người Á Hạ, biết một chút tiếng Hán.

Nàng bảo cho Tác Lệ biết vùng quanh đây từng được gọi là Long Đô, là đô thành của Khương Lai. Cái tên bộ tộc Khương Lai này Tác Lệ lần đầu được nghe. Từ lời kể của người con gái, tuy không thể phán đoán được là thời đại nào, nhưng có thể hình dung tòa thành vô cùng lớn, lúc mặt trời mọc xuất phát từ cổng Tây thì sau khi mặt trời lặn mới đến được cổng Đông. Tòa thành được xây dựng trên mặt đồi phẳng gần hồ, một con sông lớn chảy dọc theo thành đổ vào hồ. Đứng trên nơi cao trong thành phóng tầm mắt nhìn bờ hồ phía tây, dòng sông giống như một con rồng uốn khúc về đó nằm ngơi nghỉ. Dưới chân thành, khoảng đất rộng lớn phủ một tầng muối rất cứng và dày. Những lữ khách qua đây phải trải lên mặt đất một tấm thảm len mới có thể giúp cho súc vật đi theo an giấc. Nơi đó bốn mùa trong năm không kể ngày đêm lúc nào cũng giăng đầy sương mờ, cho nên có lúc không thấy được mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Nơi đó không chỉ người Khương Lai cư trú, mà còn thêm rất nhiều yêu ma. Một đêm kia, trong hồ xuất hiện điều bất thường, rồi cả tòa thành lớn chìm sâu vào trong cát.

Ánh trăng chiếu qua vải bạt vào bên trong lều, Tác Lệ nhìn bóng hình người con gái đang kể chuyện giữa ánh trăng, lần đầu tiên cảm thấy mình bị nàng mê hoặc.

Ngày hôm sau, chàng cho người con gái ở cùng quân đội. Nhằm che mắt những binh sĩ tính tình lỗ mãng, chàng nghe theo lời khuyên của tùy tùng, để nàng cải dạng nam trang, đồng thời cho nàng cưỡi lạc đà đi theo gần mình.

Chỉ cần hai ngày, tất cả binh sĩ đều đã biết trong quân có đàn bà, song không ai đến gần nàng, vì họ đều sợ Tác Lệ.

Từ ngày thứ bảy trở đi, đội quân đã tiến vào vùng hoang vu mênh mông với địa chất sa thạch, chỉ có xương người và xương thú làm mốc chỉ đường, họ cứ thế đi mãi. Từ ngày này, liên tiếp trong ba hôm, hôm nào cũng thấy một thành quách không người. Tất cả thành quách đều bị chôn vùi một nửa trong cát. Các vọng lâu, tháp, tất cả kiến trúc đều ngả về phía tây. Vốn đây từng là thành ấp của người Hồ, cùng với sự biến đổi của thời gian, theo từng thời kỳ, từng nhiều lần trở thành nơi đóng quân của quân Hán và quân Hung Nô. Nhưng giờ đây, nơi này hoang vu không chút sinh khí, rõ ràng đã trở thành một đống đổ nát bị bỏ rơi trong sa mạc.

Đội quân vừa đi vừa ngắm nhìn những thành quách sắp bị cát vàng vùi lấp, đến ngày thứ mười thì tới một nơi cách đích đến ở bên sông Khố Mỗ nửa ngày đường. Hôm trước trời bắt đầu đổ mưa, đến hôm sau đã biến thành bão. Người, ngựa và lạc đà đều ướt như chuột lột. Mọi người dựng lều lập trại nghỉ chân trong mưa. Nước mưa thấm qua các tầng vải, ướt tận vào bên trong. Thân thể các binh sĩ như bị bao bọc bởi hàn khí của mùa đông.

Đêm đó, điều khiến người ta không ngờ là mười mấy binh sĩ nước Thiện Thiện đại diện cho Thiện Thiện đem lương thực tới tỏ lòng tiếp đón. Sau đó đến nửa đêm lại thêm ba thương nhân Quy Từ dùng lạc đà chở lương thực tới, nhưng là để bán. Nghe các thương nhân Quy Từ nói, bên bờ sông Khố Mỗ mà Tác Lệ chuẩn bị lập doanh trại có một thôn trang, khoảng hai ba ngày trước đại quân của Hung Nô đã đến đó tập kết.

Tác Lệ nghe vậy, dù đã nửa đêm, lập tức hạ lệnh cho quân đội tiến lên phía trước. Chàng muốn không bỏ lỡ thời cơ tập kích quân đội Hung Nô, một trận quét sạch bọn chúng. Quân đội xuất phát trong đêm tối, hành quân giữa trời mưa xối xả, mờ sáng thì tới được bên bờ sông Khố Mỗ, nhìn sang bên kia sông là nơi thôn tập kết của Hung Nô.

Chàng đứng bên bờ sông, trong ánh sáng le lói của sớm tinh mơ nhìn thấy nước sông đục ngầu đang cuồn cuộn chảy. Không cách nào qua sông được ngay. Nếu bây giờ có thể qua sông, thì việc tập kích quân Hung Nô, đánh đuổi chúng đi, sẽ thật là dễ dàng. Điều có vẻ rất đơn giản này trước mắt lại bị sông Khố Mỗ đang cuồn cuộn gầm thét gây trở ngại.

Tác Lệ vô kế khả thi, chỉ đứng lặng nhìn ra. Lau sậy bên bờ hồ mọc rất tươi tốt, song  chẳng kiếm được một cây nào đủ lớn để có thể trú mưa. Chàng đành để đội quân đóng lại ven sông, mặc mưa tuôn bão thổi. Cứ như thế, nửa canh giờ qua đi. Một thuộc hạ đến trước mặt chàng khi ấy vẫn đang nhìn dòng sông lớn đục ngầu một cách không chớp mắt, tâu rằng: “Từ xưa đến nay có truyền thuyết để làm nguôi cơn giận của thần sông, phải tế sống một người con gái. Hiện giờ, ngoài cách đó ra chẳng còn cách nào khác.”

Người này họ Trương, hơn mười năm nay đồng cam cộng khổ với chàng chốn sa trường. Chàng rất tin tưởng anh ta.

Nghe lời nói ấy, Tác Lệ lặng yên không đáp. Họ Trương tiến lên một bước, nói: “Thêm một ngày nữa mới qua sông, thế lực Hung Nô sẽ càng tăng thêm, như thế đối với chúng ta rất bất lợi.”

Tác Lệ vẫn lặng yên, một lúc sau mới đọc mấy câu: “Vương tôn kiến tiết, hà đê bất ích. Vương bá tinh thành, hô đà bất lưu. Thủy đức thần minh, cổ kim nhất dã.” (Ý nói: Bậc vương tôn mà có tiết độ thì đê không tràn. Bậc vương bá mà có lòng thành thì nước sông không chảy. Nước có thần minh, xưa nay đều thế.)

Chàng lập tức cho người lập đàn tế bên sông, rồi tới đó cầu khấn. Dù thế nào chăng nữa, chàng cũng không muốn đem người con gái kia ném xuống sông. Chàng định dùng phương thức lập đàn khấn thay cho nghi thức hiến tế để cầu cho sức nước sông Khố Mỗ giảm bớt. Nếu trước kia câu chuyện người đức độ trấn phục được dòng chảy của nước là thực, thì chàng cũng có khả năng làm được.

Sau một canh giờ cầu khấn, dòng nước đục ngầu có vẻ như vẫn y nguyên. Sức nước chẳng những không giảm, mà càng hung tợn. Chàng lại cầu khấn thêm một canh giờ nữa, nước bắt đầu tràn lên tận bờ. Chẳng biết từ khi nào, dòng chảy đục ngầu ấy đã tràn tới dưới chân binh sĩ, ngựa và lạc đà. Dầu vậy, chàng vẫn không rời đàn tế.

Người họ Trương đến bên chàng, một lần nữa đề nghị: “Cứ cầu khấn rồi chờ đợi ý thần như thế này, chẳng bằng ném ngay cô gái kia xuống sông. Thế chẳng phải nhanh hơn sao?”

Nhìn thấy Tác Lệ lộ vẻ chẳng thèm để ý, người đó lại nói: “Đã thế, phải lập tức đưa quân lên vùng cao, nếu không, người, ngựa và lạc đà đều sẽ bị nước cuốn đi hết.”

Lúc này Tác Lệ đột nhiên rút đao ra khỏi vỏ, miệng cắn ngang sống đao, ngửa mặt lên trời. Chàng trợn trừng mắt, những hạt mưa rơi tới tấp trên gương mặt. Binh sĩ đều nín thở tập trung nhìn vào vị chủ soái trước mắt. Thần thái chàng có một thứ âm khí làm người ta chùn bước. Chính lúc đó, đàn tế trước mặt chàng lật nghiêng, trong chớp mắt chìm vào dòng chảy cuồn cuộn đục ngầu, còn lại Tác Lệ với vẻ mặt dị thường vẫn đang giẫm lên dòng nước, đứng yên bất động.

Một lúc sau, chàng quay người lại, bỏ thanh đao đang ngậm trên miệng xuống, quay về phía binh sĩ thét lớn: “Lòng thành của ta không thể thông thiên chính là vì ác ma ở dưới sông này. Dù vậy, chỉ có thể dùng vũ lực để đánh bại nó, đợi nước rút rồi sẽ qua sông!”

Tiếng thét của Tác Lệ vọng đến tai binh sĩ nghe như sấm dậy.

Lúc đó mưa ngừng rơi, nhưng thế nước lại mỗi lúc một hung hãn hơn. Tác Lệ cho quân lùi về sau trăm mét, dàn quân ở phần đất cao, bố trí thế trận đâu vào đấy.

Các cung thủ nhất tề phóng tên vào lòng sông. Vô số mũi tên nhọn liên tiếp không ngừng rơi vào giữa dòng chảy đục ngầu, trong chớp mắt bị những lớp sóng vàng nuốt chửng. Sau khi đã phóng vài trăm mũi tên, quân đánh bộ cùng hét lớn một tiếng, đồng loạt bao vây bờ sông. Trong tiếng trống trận dồn dập, binh sĩ nhảy vào dòng sông đang dâng cao giận dữ, nước ngập đến hơn đầu gối, múa đao và thương đâm chém xuống mặt nước. Dòng sông sủi bọt tứ bề. Giữa cao trào cuộc chiến với dòng sông, vài binh sĩ đứng không vững, bị nước xiết cuốn đi.

Cuộc chiến cứ diễn ra liên tục cho đến chiều tà. Vì phải bày binh bố trận trên cao, đội ngũ bắt đầu rút dần từng tốp một. Dù trong mắt Tác Lệ đang chỉ huy chiến đấu, hay trong mắt những binh sĩ đang liều chết xông vào dòng nước lớn, không biết từ lúc nào, những dòng chảy vũ bão của dòng sông đã hóa thành một con yêu quái khổng lồ. Yêu ma uốn lượn thân mình, điên cuồng vật lộn, ào ạt đánh tới, có lúc rút về, rồi lại tấn công.

Đến tối, các binh sĩ đã sức cùng lực kiệt, ngã vật ra trên nền đất cao đang mấp mé nước, ngủ thiếp đi.

Ngày hôm sau, tuy mưa tạnh trời quang, nhưng sức nước không hề có xu hướng giảm đi, mà còn sâu và hiểm hơn hôm qua, với những dòng chảy cuồn cuộn xoáy hình phễu. Cuộc chiến chống sông Khố Mỗ đã bắt đầu từ lúc bình minh. Giống như hôm trước, các binh sĩ bắn tên, ném đá vào sông, khua đao múa giáo đâm xuống các dòng chảy. Đến trưa, khí trời bỗng chốc từ lạnh lẽo như giữa mùa đông chuyển sang nóng cháy như đang mùa hạ, những thanh đại đao và giáo dài mà các binh sĩ cầm trong tay trở nên sáng lấp loáng một cách khác thường dưới ánh nắng mặt trời. “Kẻ địch” không hề tỏ ra yếu thế. Cứ mỗi hiệp, sóng trào lại nuốt trôi vài binh sĩ.

Màn đêm lại dần buông xuống. Ba nước Thiện Thiện, Yên Kỳ, Quy Từ mỗi nước dẫn một ngàn binh sĩ vừa kịp tới. Bao năm nay họ bị Hung Nô ức hiếp khổ sở, đang mong mỏi nhà Hán đưa binh vào Tây vực, vừa nghe tin Tác Lệ xuất binh Tây vực, liền vội vã đến ngay, tuyên thệ quy thuận nhà Hán. Thế là Tác Lệ lệnh cho các binh sĩ người Hồ với tiếng nói và phong tục không giống nhau này liên tục ngày đêm tham gia vào cuộc chiến trước mắt. Đội quân bốn ngàn người dàn thành ba hàng ngang trên sa mạc trải đầy ánh trăng xanh. Trống trận vừa vang lên, các binh sĩ liền cao giọng thét to để tuyên chiến, và đâm thẳng tới dòng nước đang chảy xiết. Một đội quân rút về, đội khác lập tức tiến lên thay. Nhưng thế nước vẫn không suy giảm, vẫn cuồn cuộn thành những hố đen sâu thẳm dưới ánh trăng và vun vút lao về phía trước.

Cuối cùng, Tác Lệ quyết tâm tiến hành đợt tấn công quyết tử. Chàng lệnh cho tất cả ngựa của quân đội tập trung vào với nhau, những binh sĩ cường tráng nhất cưỡi lên trên, chuẩn bị để cả người lẫn ngựa cùng xông thẳng vào dòng sông đang ầm ào chảy xiết. Tác Lệ đích thân dẫn đầu hơn ba trăm kỵ binh. Lệnh vừa ban xuống, chiến mã đồng thời đạp lên cát vàng lấy đà lao thẳng xuống nước. Vị tướng không quan tâm đến điều gì khác, múa ngọn giáo dài, đồng thời cảm thấy thân thể mình và ngựa giống như một mũi tên vừa bắn khỏi cây cung, lao đi vun vút. Không biết bao lâu sau, Tác Lệ và ngựa đều bị vứt lại lên triền cát. Chàng ôm cổ ngựa lên bờ. Mấy mươi con ngựa đã đứng chờ ở đó, những tấm thân ướt rượt lấp lánh sáng dưới trăng. Có những con ngựa không người cưỡi, cũng có những kỵ binh không còn ngựa. Chiến mã cùng binh sĩ nối nhau bò từ dưới sông lên bờ không dứt.

Chỉ huy cho binh sĩ đứng thành hàng ngũ để kiểm tra quân số. Người và ngựa đều tổn thất quá nửa. Họ bị cuốn xa đến tận dưới hạ lưu. Để quay trở lại chiến địa, họ phải lội bộ gần canh giờ trên vùng đất đang bị nước nhấn chìm.

Quay về điểm tập kết, Tác Lệ lại hạ lệnh cho binh sĩ còn sót lại tiếp tục tấn công. Lần này chàng vẫn muốn xông lên dẫn đầu, nhưng chiến mã không nghe lệnh, chùn chân không muốn bước lên phía trước. Chẳng phải chỉ ngựa của Tác Lệ, mà tất cả chiến mã đều như thế. Tác Lệ tuốt đao thay roi để thúc ngựa, các binh sĩ cũng đồng loạt làm theo. Rút kinh nghiệm từ lần trước, lần này Tác Lệ và binh sĩ đều bỏ giáo, cầm đao. Cuối cùng, kỵ binh cũng tập hợp được thành một đoàn, dũng mãnh xông ra bờ sông.

Tác Lệ đến bên bờ sông, bất giác nắm chặt dây cương, giơ cao đại đao, ra lệnh khẩn cấp cho binh sĩ phía sau dừng bước. Dù vậy, vẫn có vài binh sĩ không kịp ghìm cương ngựa, bổ nhào vào lòng sông. Tác Lệ kinh ngạc đến lặng người. Chàng dường như không thể tin được vào mắt mình, nước sông vừa rồi vẫn còn dâng đầy tràn, không biết từ lúc nào đã rút đi một nửa. Dòng chảy vẫn cuồn cuộn, nhưng bên bờ đã lộ ra khoảng cách cao hơn mặt nước vài gang tay.

Tác Lệ gọi họ Trương. Anh ta đáp lời chạy tới, và cũng đứng ngây người ra ở đó, nhìn đăm đắm vào mặt sông. Toàn quân đâu đâu cũng dậy tiếng reo hò mừng chiến thắng trong trận đánh với dòng sông Khố Mỗ.

Nửa canh giờ sau, toàn quân phân làm vài nhánh lần lượt vượt qua dòng Khố Mỗ đã rút xuống. Sau đó, quân Hán, quân Thiện Thiện, quân Yên Kỳ và quân Quy Từ tụ tập làm một, không lỡ thời cơ để tập kích doanh trại Hung Nô cách sông khoảng năm sáu dặm.

Cuộc chiến mãi mờ sáng hôm sau mới hoàn toàn kết thúc, mà cánh quân truy đuổi tàn quân của địch mãi đến ba ngày sau mới quay trở về được hết. Tác Lệ từng trịnh trọng tuyên bố, chỉ cần một quân địch còn sống, cũng sẽ đuổi giết đến cùng không ngừng nghỉ.

*

Trong vòng một năm sau, Tác Lệ đoạt được thôn trang nhỏ bên bờ sông Khố Mỗ từ tay Hung Nô, tiến hành lập đồn điền vũ trang quy mô nhỏ. Trước tiên xây doanh trại tạm thời, sau đó dẫn nước từ sông Khố Mỗ vào khoảng đất rộng gần thôn để tưới tiêu đồng ruộng, khai khẩn đất đai. Binh sĩ các nước Quy Từ, Thiện Thiện… cũng không ngừng được phái tới hiệp trợ. Tác Lệ vừa đánh đã dẹp tan đại quân Hung Nô, danh tiếng truyền khắp Tây vực. Trận đánh uy dũng chinh phục sông Khố Mỗ khiến cho hơn ba mươi nước Tây vực xung quanh sa mạc Taklamakan đều cảm thấy vô cùng nể sợ.

Vì có Tác Lệ lập đồn điền bên bờ sông Khố Mỗ, sau đó một thời gian dài Hung Nô không dám xuất hiện tại nơi này. Quân Hán còn lập hai vọng lâu giữa phần đất đồn điền với Ngọc Môn quan để làm trạm trung chuyển. Các đoàn thương buôn từ Hán vào Tây vực ngày một nhiều. Đoàn buôn lớn nhỏ từ Tây vực cũng thường xuyên qua đây để đi vào đất Hán.

Giống như trước đây, tin tức rỉ tai nhau về việc thiết lập Tây vực Đô hộ đều từ miệng các thương nhân từ các đoàn buôn truyền ra. Đây chưa chắc đã là lời đồn thổi. Tại các nước Tây vực, tiếng kêu gọi thiết lập chế độ đô hộ vốn dĩ đã rất mạnh mẽ. Trên thực tế, các sứ thần Tây vực muốn dâng tấu thỉnh cầu triều đình nhà Hán thiết lập chế độ đô hộ quản lý Tây vực đều đã qua thôn trang nơi Tác Lệ đồn trú để đi về phía Đông.

Năm thứ hai, Tác Lệ bắt đầu xây sửa doanh trại và tường thành với quy mô lớn. Doanh trại được làm từ gỗ và gạch ngói, tường được trét thêm một lớp bùn, nóc nhà lợp cỏ gai. Bốn doanh trại lớn có sức chứa năm trăm binh sĩ được dựng lên, hai tòa vọng lâu ở cạnh doanh trại cũng được xây dựng. Tường thành không chỉ vây kín doanh trại, thao trường luyện binh mà còn vây hết cả thôn trang. Trong thành có chợ, chùa, còn có khu mộ địa chung. Các nước Tây vực cung cấp cho công trình cả sức người lẫn sức của. Giữa nơi thi công thường nổi lên âm thanh pha lẫn vào nhau của các loại ngôn ngữ địa phương như tiếng Hán, tiếng Hung Nô, tiếng Vu Điền, tiếng Lật Đặc v.v… Đứng trên tường thành phóng mắt nhìn ra, chỉ thấy bên dưới đất canh tác trải dài bốn phía, kênh đào chằng chịt nối nhau trên đất, bên cạnh các kênh đào còn trồng một ít cây bạch dương không cao lắm, như để chỉ dẫn đường chảy cho dòng nước.

Một nửa thuộc hạ của Tác Lệ chăm lo việc xây dựng và tu sửa thành trì, một nửa khác mỗi ngày đều cùng dân trong thôn ra ngoài thành canh tác. Năm thứ hai, trong lần thu hoạch đầu tiên, gạo và tiểu mạch mỗi thứ đã được năm mươi vạn thạch[2]. Sản lượng này hầu như mỗi năm đều tăng lên đáng kể.

Các binh sĩ quên mất chuyện đánh nhau, chuyên tâm lo việc đồng áng và xây dựng. Tác Lệ luôn sống chung với người con gái Á Hạ. Cô gái này trầm tư ít nói, không gây chú ý, nhưng chàng rất yêu nàng. Nàng không biết mình đã đem đến niềm an ủi lớn lao đến thế nào cho đời sống nơi đất Hồ của chàng. Trong doanh trại, chỉ mỗi nơi ở của Tác Lệ có sắc màu rực rỡ. Nền đất nện được phủ thêm chiếu cỏ lau, bên trên lại trải một lớp thảm nhung tươi tắn. Trên mặt đất bày bình nước, các giá trong phòng bày đĩa thủy tinh của phương Tây và các dụng cụ khác. Người con gái tuy không trang điểm, nhưng dùng những phục sức đẹp đẽ để tô điểm cho mình, nàng đeo nhẫn bằng đồng xanh mỏng, dây chuyền ngọc bích và hoa tai bằng bạch ngọc.

Vào đầu mùa thu hoạch tiểu mạch, tức vừa tròn một năm ngày Tác Lệ vào đóng tại Tây vực, triều đình thông qua Trưởng sử Tây vực trú tại Đôn Hoàng để ban thưởng cho chàng, đồng thời truyền lệnh cho chàng quay trở lại đất Hán. Tác Lệ tâu rằng công việc canh tác đồn điền mới vừa bắt đầu, nên hy vọng tạm thời vẫn lưu lại Tây vực. Qua sứ giả, chàng biết việc chàng giao chiến với sông Khố Mỗ đã được xưng tụng khắp nơi tại quê nhà. Sứ giả nói, tướng quân Lý Quảng Lợi đi sứ Đại Uyển được phong làm Nhị Sư tướng quân; nếu Tác Lệ về nước, chắc cũng sẽ nhận vinh dự giống như vậy; tin tức này đã được lưu truyền rộng rãi khắp kinh thành. Nửa đời Tác Lệ chẳng có duyên gì với công danh hiển hách, chàng đã tin tưởng một cách chắc chắn rằng đây chính là định mệnh của mình, nên đối với những vinh quang chưa bao giờ nghĩ đến, chàng có cảm giác sợ hơn là mừng.

Tác Lệ tuy chẳng tiết lộ nửa lời, song tin tức đã lan truyền nhanh chóng khắp toàn quân. Binh sĩ đều chìm trong khát vọng muốn trở về nhà, dù đi đến đâu, ai ai cũng chỉ nói một chủ đề này.

Người con gái Á Hạ cũng nghe tin, bèn tìm hỏi Tác Lệ. Chàng nói với nàng rằng trước mắt chàng hoàn toàn không có ý định quay về Hán. Người con gái vốn xưa nay không bao giờ biểu lộ cảm xúc trên nét mặt, nhưng khi nàng nghe Tác Lệ không hề có ý quay lại Hán thì niềm vui sướng trong lòng khiến đôi mắt của nàng đầy sức sống, nàng cũng trở nên hoạt bát hơn. Đôi mắt nàng lấp lánh, nói cười vui vẻ, cả ngày đeo hết trang sức này đến trang sức khác để làm đẹp. Những điều này khiến chàng cảm thấy vô cùng xúc động.

Tác Lệ triệu tập toàn thể binh sĩ, làm rõ những lời đồn đại trong quân, tuyên bố từ nay về sau vẫn phải chiến đấu trường kỳ với Hung Nô, dù là bất kỳ ai, nếu như còn nhắc đến chuyện trở về đất Hán, sẽ tuyệt không khoan dung, tội đáng chém đầu.

Lời của vị chỉ huy quả thật ứng nghiệm. Mấy ngày sau, binh sĩ liên tục trong vài hôm  phải bỏ công cụ cày cấy xuống để nắm lại đao và cung đã rất lâu không đụng tới, chiến đấu cùng kỵ binh Hung Nô hung hãn đến tập kích. Từ đó về sau, Hung Nô nhiều lần tấn công, các sĩ binh lúc thì cầm lưỡi cày canh tác, lúc lại đổi sang cung và đao để tác chiến, bận rộn đến mức không còn nghĩ được việc gì khác. Lời đồn trở về đất Hán cũng giống như nước sông Khố Mỗ lúc thủy triều xuống, rất nhanh đã trôi dạt và biến mất về phương nào.

Mùa hè năm thứ ba, tiểu mạch và thóc lúa đã thu hoạch được mỗi thứ một trăm vạn thạch. Lúc này chính vào thời điểm công trình xây dựng thành ấp cũng đã gần như hoàn thành, Tác Lệ quyết định cử hành một tiệc mừng công lớn kéo dài ba ngày trên mảnh đất mà chàng đã khổ tâm vun xới suốt ba năm. Ngày tiệc mừng được tổ chức, điều khiến người ta không dám tin là rốt cuộc không hiểu từ đâu mà có nhiều người Hồ đến như thế. Những người này mặc trang phục yêu thích của họ, tụ tập trong thành xem nghi thức lớn sẽ diễn ra.

Suốt ba ngày, mỗi tối Tác Lệ đều cùng người con gái Á Hạ đứng trên vọng lâu, nhìn thành ấp náo nhiệt khắp nơi rực rỡ ánh lửa. Lúc này, người con gái hỏi chàng: “Tổ chức một nghi thức trọng đại thế này, chẳng lẽ vì quân đội không lâu nữa sẽ rời khỏi nơi đây?” Chàng cười phủ nhận. Người con gái nhìn chăm chú vào đôi mắt chàng, lặng lẽ lắc đầu. Tác Lệ trách hỏi sao nàng không tin mình, nàng đáp: “Không phải em không muốn tin chàng, mà ngay cả chàng cũng không biết được vận mệnh mình sẽ ra sao, thì em sao có thể tin được?”

Nỗi lo của người con gái không phải là vô căn cứ. Cái vận mệnh mà đến Tác Lệ cũng không thể biết được và không thể tin được ấy, nửa năm sau đã rơi xuống.

Cuối thu, việc đồng áng vừa kết thúc, Tác Lệ bèn dẫn nửa số quân ra khỏi thành giao chiến cùng quân Hung Nô đang ngấm ngầm nổi dậy ở vùng tây bắc. Lúc ra khỏi thành, chàng nghĩ nhiều lắm không quá mười ngày có thể quay trở lại. Kết quả, trận chiến bị kéo dài ngoài dự kiến. Do một cánh quân Quy Từ câu kết với Hung Nô, lại thêm mưa đá rơi xuống sớm hơn năm ngoái gây trở ngại, chiến sự không thuận lợi, đội quân của chàng không thể lập tức rút lui, thành ra rơi vào thế hiểm nghèo.

Cuộc chiến bắt đầu lúc cuối thu, hai bên bất phân thắng bại. Khi quân của Tác Lệ cuối cùng cũng đuổi được quân Hung Nô về phương bắc, thì đã là đầu năm sau. Tác Lệ cùng binh sĩ đều gầy gò tiều tụy hẳn, so với lúc xuất phát khác nhau một trời một vực. Trong một ngày tuyết lớn, đội quân cuối cùng cũng về lại được thành. Đội quân cưỡi lạc đà dẫn đầu giương cao ngọn giáo dài treo thủ cấp của tướng Hung Nô như giương một lá cờ. Chiếc thủ cấp, lưng lạc đà và vai của các binh sĩ đều phủ đầy tuyết.

Tác Lệ về lại nơi ở quen thuộc sau bao ngày xa cách. Khi chàng nhìn thấy người con gái Á Hạ đang đứng trước cửa chờ đón mình, chàng cảm nhận được ngay nét mặt nàng có gì đó không giống trước. Người con gái dẫn chàng vào phòng khách. Trong phòng khách có một vị sứ giả nhà Hán. Để đợi Tác Lệ quay trở lại thành, vị sứ giả đã lưu lại một tháng. Sứ giả mang tới cho chàng mệnh lệnh quay về Hán, bên trên có đóng đại ấn của triều đình. Tại cố quốc, vinh hoa phú quý đang chờ đợi Tác Lệ cùng đội quân của chàng.

*

Lúc toán quân mới đến nơi đồn trú để thay thế Tác Lệ cùng đội quân của chàng thì  đã là tháng bảy, sanh liễu bắt đầu đâm chồi nảy lộc. Từ sau khi quyết định quay trở về Hán, Tác Lệ luôn bận rộn sắp xếp việc đồng áng và chiến đấu với những nhóm quân Hung Nô rải rác  thỉnh thoảng lại xuất hiện, dường như chẳng còn thời gian đâu để mắt đến người con gái Á Hạ. Song người con gái này dường như rất quan tâm đến vận mệnh của nàng. Liệu nàng có thể cùng Tác Lệ vào đất Hán không? Dù rằng vào được đất Hán rồi, liệu có thể cùng chàng tiếp tục cuộc sống như trước đây? Tất cả những vấn đề ấy vượt quá sức suy nghĩ của nàng, cái đầu nhỏ bé của nàng không thể giải quyết được. Mỗi khi nàng đề cập đến việc này, Tác Lệ đều đáp: “Tất nhiên, đưa em cùng đi.” Chàng quả thật dự định đưa nàng cùng quay về, chỉ là mỗi khi trong tâm trí chàng hiện ra những con đường Lương Châu và Tửu Tuyền đã lâu không đặt chân tới, thì không biết vì sao, chàng luôn cảm thấy người con gái man di này chẳng hài hòa gì với cảnh vật ở đó. Tóc nàng, mắt nàng, làn da và giọng nói của nàng, tất cả đều khiến chàng lo lắng. Tuy vậy, Tác Lệ lập tức gạt ngay suy nghĩ ấy ra khỏi đầu. Chàng vốn không phải là người giỏi suy nghĩ, huống chi đây là việc về sau, bây giờ chàng làm gì còn lòng dạ nào để nghĩ.

Binh lực của đoàn quân thay thế lớn gấp đôi quân của Tác Lệ. Chàng hoàn thành công tác chuyển giao với vị tướng trẻ kế nhiệm, rồi lưu lại trong thành ba ngày, vừa có chút lưu luyến với thành ấp mà chàng chăm chút bấy lâu, vừa để chờ lúc đẹp trời.

Hôm xuất phát, quân mới đến trấn thủ tiễn chân đội quân của Tác Lệ trong sự kính trọng đặc biệt. Vừa ra khỏi cổng thành đã thấy bên ngoài tập trung hơn hai trăm thôn dân đang chờ nói lời tiễn biệt cùng chàng. Binh sĩ hợp thành từng tốp cùng lạc đà và ngựa, kéo dài theo những con đường đi giữa đồng ruộng mênh mông do chính họ đắp nên, tiến lên phía trước.

Khoảng trời xanh nhạt cao cao, gió thổi lay động những cây bạch dương và sanh liễu, khiến người ta cảm thấy vô cùng sảng khoái.

Con đường từ ngoài thành vươn thẳng tít tạo nên một đường thẳng cắt ngang sông Khố Mỗ. Đến bên bờ sông Khố Mỗ, Tác Lệ phát hiện ra dòng sông lại đang dâng nước lên hệt như mấy năm trước khi đoàn quân muốn băng qua sông để đánh Hung Nô. Mặt sông rộng hơn đến mấy lần, nước ào ào chảy xiết.

Tác Lệ vắt óc nghĩ cách qua sông, trong lòng rất không muốn vì sông Khố Mỗ dâng nước mà lại phải quay về. Chúng thuộc hạ cũng đều cho rằng: quân Tác Lệ từng nhờ khuất phục được sông Khố Mỗ mà uy chấn thiên hạ, nay tuyệt nhiên càng không thể lùi bước.

“Ngoài việc nhất định phải cố gắng qua sông lần nữa, chúng ta không có lựa chọn nào khác.” Một thuộc hạ nói.

Tác Lệ quyết định cho quân tạm thời đóng lại qua đêm. Ban ngày rõ ràng trời rất trong xanh, nhưng đến nửa đêm bắt đầu đổ mưa, hơn nữa mưa mỗi lúc một dữ dội.

Đến mờ sáng, họ Trương lại vào lều của Tác Lệ, bày tỏ ý kiến: “Nước sông không ngừng dâng lên do mưa, còn băn khoăn do dự thì khó tránh khỏi việc rơi vào tình thế khó khăn, mấy ngày thậm chí đến mấy mươi ngày cũng sẽ không thể qua sông. Nếu nhất định cố gắng qua sông, phải tiến hành càng sớm càng tốt.”

Tác Lệ bảo họ Trương lại lều, một mình chàng bước ra bên ngoài. Trời vừa chuyển sắc trắng, chàng đội mưa đứng bên bờ sông quan sát. Lượng nước trong dòng chảy của sông rõ ràng đã tăng thêm rất nhiều so với hôm qua. Chàng đứng lặng rất lâu, một ý nghĩ bám chặt lấy tim chàng. Lần đầu tiên trong đời chàng cảm nhận một nỗi thống khổ khủng khiếp dày vò.

Chàng quay vào trong lều, nói với họ Trương đang căng thẳng chờ đợi: “Hiến tế nữ nhân.”

Giọng Tác Lệ rất thấp, nhưng rất rõ ràng. Họ Trương nghe được lời này, giật mình kinh ngạc, chỉ biết đứng đờ ra nhìn chàng. Nói đến phụ nữ, trong quân ngoài người con gái Á Hạ ra thì chẳng còn ai khác. Một lúc sau, họ Trương mới từ từ mở miệng, bày tỏ rằng anh ta rất cảm kích trước quyết định của chỉ huy, vốn dĩ chính anh ta cũng vì chuyện này nên mới tới đây, nhưng cảm thấy sợ nên không dám mở lời. Nói xong, họ Trương nhanh chóng bước ra khỏi lều.

Không lâu sau, tiếng gào thét bi thảm vọng tới bên tai Tác Lệ. Đó là tiếng người con gái Á Hạ ở lều bên cạnh bị lôi đi. Thanh âm này giống như tiếng kêu của loài chim rừng xé toạc màn đêm mà chàng nhiều lần nghe thấy lúc đóng quân giữa rừng núi trong cuộc chiến gian khổ với Hung Nô suốt từ mùa thu năm ngoái đến đầu năm nay.

Khi trời sáng, Tác Lệ cho quân tập trung bên bờ sông. Không biết từ lúc nào, mưa đã tạnh. Có lẽ chính là nhờ hiến tế một người con gái, sức nước của dòng sông đục ngầu dường như đã giảm đi.

“Bắt buộc phải nhân lúc này qua sông.” Người họ Trương nói như muốn giục Tác Lệ hạ quyết tâm.

Quân sĩ men theo bờ sông thuận dòng xuống phía hạ du vài trăm mét, chọn một chỗ thế nước có vẻ yếu nhất làm nơi qua sông. Đội quân phân làm vài nhánh, nhánh phía trước thử bước xuống nước, nhưng lạc đà, ngựa và người rất nhanh chóng bị nước đánh xuống phía hạ du. Mấy bọc hành lý buộc rất chặt trên yên ngựa cũng bị đánh bật ra, trôi trên mặt nước. Dù vậy, đội quân đầu tiên coi như cũng đã bình an đến được bờ bên kia. Họ Trương nhìn tình hình, tặc lưỡi: “Chẳng tốn một binh một tốt nào cũng có thể qua sông, chắc chính là nhờ đã hiến tế phụ nữ cho thần sông!” Tác Lệ lặng im không nói, nhưng nhất định chàng cũng đang nghĩ như vậy.

Đội quân tiếp tục sang sông. Tác Lệ kẹp trong cánh quân cuối cùng, thúc ngựa tiến vào giữa lòng sông. Thế nước so với lúc cánh quân đầu tiên qua sông có vẻ còn yếu hơn. Lúc đã bình an sang được bờ bên kia, trong lòng chàng một lần nữa xuất hiện cảm giác thương xót và cảm kích đối với người con gái Á Hạ đã hy sinh. Đồng thời, chàng cũng nảy ra cảm giác chưa từng có, nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng.

Đội quân tiếp tục tiến bước. Tác Lệ và họ Trương dẫn đầu. Đội quân vượt lên chưa được bao xa, họ Trương đột nhiên kéo cương ngựa kêu lên: “Nhìn bên kia!”

Tác Lệ nghe tiếng bèn dừng ngựa nhìn sang. Nơi đường chân trời phía xa xa, một khối gì đó như dung nham màu vàng đang từ từ nở rộng dần ra, lăn thẳng về phía họ. Tác Lệ không thể lập tức phán đoán được đó là gì. Cái khối này đang rất từ tốn nhưng vô cùng chắc chắn, băng qua toàn bộ sa mạc.

“Đó là cái gì?!” Tác Lệ thét lớn.

Họ Trương và binh lính xung quanh cũng không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Họ liên tục kêu lên với nhau: “Đó là cái gì? Đó là cái gì?”

Bỗng một người hét to: “Là nước, là hồng thủy!”

Bấy giờ mới thấy, cái thứ cuồn cuộn đang dần băng qua sa mạc kia quả thật là nước. Chắc chắn là hồng thủy, chỉ có thể là hồng thủy. Thứ hồng thủy vàng đục dường như đang vươn ra vô số cẳng chân khổng lồ khiến người ta kinh sợ, nhanh chóng lao tới bao vây lấy họ.

“Làm sao đây?” Họ Trương bên cạnh hỏi. Tác Lệ nhất thời cũng không nghĩ ra cách nào.

“Xuống dưới hạ du trước!” Tác Lệ hét.

Nhưng cho dù hướng nào chăng nữa, cũng không thoát khỏi bàn tay ma quái của “kẻ địch”. Để không bị hồng thủy nuốt chửng, cách duy nhất là phải xuống được hạ du của sông Khố Mỗ. Lạc đà, người và ngựa phút chốc trở nên hỗn loạn, tranh nhau chạy về phía hạ du. Họ vượt qua mấy đồi cát, chuyển hướng về phía đông nam. Nhưng không lâu sau, họ bị chặn mất đường, đành dừng lại. Vùng hạ lưu sông Khố Mỗ cũng dâng lên, biến thành một đầm nước mênh mông.

Đội quân lập tức đổi hướng về phía đông bắc. Nhưng chẳng bao lâu, lại bị nước chặn đường. Chính trong lúc không biết đã là lần đổi hướng thứ mấy, Tác Lệ nhìn thấy dòng nước vàng cuồn cuộn trông như một tấm thảm dày đang mở tung ra, chỉ còn cách họ có ba đồi cát, đang dần ập đến.

“Lên chỗ cao kia!”

Vốn chẳng cần đến lệnh của chỉ huy, đám người, ngựa và lạc đà như ong vỡ tổ đã tranh nhau phóng lên phần đồi cát cao. Trên gương mặt các binh sĩ lộ ra một vẻ quyết liệt giành mạng sống mà ngay cả trên chiến trường cũng khó lòng thấy được.

Tác Lệ nhắm một đồi cát để tiến tới. Người cùng súc vật quấn lấy nhau thành từng búi, giống như bị nam châm hút. Tác Lệ đứng trên đỉnh đồi cát, một lần nữa hướng về phía xa. Dòng chảy đục ngầu đang dìm dần bình địa và các ngọn đồi. Sa mạc mênh mông trong chớp mắt biến thành một biển bùn kéo dài vô tận không biết đâu là bờ. Bấy giờ, người ngựa líu ríu tụ vào nhau trên một ngọn đồi cao, dòng nước đã vọt đến đồi cát thứ ba trước mặt họ.

Trong chốc lát, Tác Lệ phát hiện ra một việc còn đáng sợ hơn. Từ đồi cát nhìn ra xa về phía tây bắc, nơi đó biển bùn không giống như chỗ khác, đang bắt đầu nổi sóng. Nơi đầu những ngọn sóng vàng đang cuộn lên, chàng nhìn thấy lộ ra một phần tường thành và vọng lâu. Dù xa như thế, nhỏ như thế, nhưng Tác Lệ không thể nhầm được, đó chính là thành ấp do chính tay chàng xây dựng và sinh sống cho đến tận ngày hôm qua. Có lẽ những ngôi nhà cùng đồng ruộng ở đó cũng đã toàn bộ bị nhấn chìm trong biển bùn.

Lúc này, Tác Lệ nghĩ không lâu nữa mình cũng sẽ bị dòng chảy đục ngầu kia nuốt chửng. Một sát na, trong đầu chàng vụt hiện lên cái đêm lần đầu chàng gặp người con gái Á Hạ, câu chuyện nàng kể về Long Đô. Ý niệm này chỉ chớp mắt là biến đi, để lại chàng với hiện thực khủng khiếp trước mắt. Tuy thời gian cấp bách, nhưng Tác Lệ vẫn giữ được chút bình tĩnh. Chàng cảm thấy trong người mình cháy lên một ngọn lửa giận dữ mãnh liệt, quyết tâm tấn công hồng thủy. Ngoài việc giao chiến cùng hồng thủy, quyết một trận thư hùng, thì giờ đây cũng chẳng còn cách nào khác.

Chàng lập tức hạ lệnh. Các binh sĩ liền phục tùng. Họ đều hiểu, cứ đứng im bất động thế này ở đây cũng chẳng có ý nghĩa gì cả.

Trống trận nổi lên dồn dập, bắn ra những âm thanh vang dội của chiến tranh. Đội quân phân thành hai nhánh, họ Trương và Tác Lệ mỗi người dẫn đầu một cánh quân. Cánh quân của họ Trương lao xuống đồi cát trước và bắt đầu tấn công. Lạc đà, ngựa cùng binh sĩ đều xông thẳng tới. Họ phi lên đồi cát, rồi lại phóng xuống. Tuy vậy, trong mắt Tác Lệ, cuộc tấn công có vẻ như hoàn toàn không có chút sức lực nào.

Khoảng cách giữa đội quân và dòng chảy đục ngầu kia mỗi lúc một gần. Trong khoảnh khắc mà hai luồng sức mạnh này gặp nhau ở dưới đồi cát, Tác Lệ nhìn thấy đội quân của họ Trương tựa hồ đột nhiên bị xóa sạch, tất cả chỉ diễn ra trong khoảng thời gian chưa hết một lần chớp mắt.

Cùng lúc đó, Tác Lệ hạ lệnh cho tàn quân tấn công. Đối diện với kẻ địch lớn mạnh lần đầu tiên chạm trán trong đời, toàn bộ thù hận và sức mạnh chống trả trong người chàng như kết lại thành một khối. Chàng vọt lên ngựa, khua ngọn giáo, xông lên dẫn đầu đội quân. Tiếng nước ầm ầm vang dội khắp trời đất.

Trong chốc lát, Tác Lệ nhìn thấy ngọn sóng lớn đục ngầu đang nuốt chửng một gò cát, được thể ào ào lướt sang phía này. Vô số ác hồn đang lăn lộn ập tới như phát điên. Tác Lệ nắm chặt cây giáo trong tay phải, vung lên qua đầu, cả người lẫn ngựa cao gần một trượng xông thẳng vào dòng chảy. Không thấy Tác Lệ đâu nữa. Rồi tất cả binh sĩ, ngựa và lạc đà phía sau Tác Lệ đều biến mất chẳng còn dấu vết. Tất cả chỉ trong chớp mắt.

Sa mạc đã hóa thành một biển bùn mênh mông, bầu trời u ám sập xuống, mặt trời đỏ như một vầng máu bắn lên in vào một góc trời, giống như ánh sáng của nhật thực, tĩnh lặng một cách kỳ lạ. Trong không gian vẫn vẳng tiếng ầm ào của nước lũ. Dòng nước ấy không ngơi nghỉ phút nào. Nó còn phải tiếp tục đi nuốt gọn những gì còn lại.

[1]   (日)井上靖 著,赵峻 译. (2013). 楼兰.北京十月文艺出版.

(Nhật), Inoue Yasushi, Triệu Tuấn dịch. (2013). Lâu Lan. Nxb Văn nghệ tháng 10 Bắc Kinh.

[2]   (1) Đơn vị dung lượng thời xưa: 10 đấu hay 100 thưng là một thạch. (2) Đơn vị trọng lượng thời xưa: 120 cân là một thạch. Cũng đọc là “đạn”.

Văn học Nhật Bản Văn học phương Đông

LÂU LAN (Truyện của Inoue Yasushi; Phan Thu Vân dịch từ bản tiếng Trung)

LÂU LAN

Inoue Yasushi

(Phan Thu Vân dịch từ bản tiếng Trung)[1]

 

1.

Thời xa xưa, có một nước nhỏ ở Tây vực gọi là Lâu Lan. Cái tên Lâu Lan xuất hiện trên sách sử phương Đông cổ đại vào khoảng những năm một trăm ba mươi đến một trăm hai mươi trước công nguyên, nhưng cái tên của nó biến mất khỏi sách sử khoảng năm thứ bảy mươi bảy trước công nguyên. Nghĩa là, trong lịch sử, sự tồn tại của quốc gia Lâu Lan này tính ra chỉ năm mươi năm, mà khoảng cách đến nay cũng đã hai ngàn năm rồi.

Người giới thiệu Lâu Lan đến với thế nhân là nhà thám hiểm Trương Khiên. Vào thời Hán Vũ Đế, ông đi sứ Tây vực, sau được phong làm Bác Vọng Hầu. Ngày nay phần lớn khu vực Tây vực nằm trong khu tự trị Duy Ngô Nhĩ, Tân Cương, Trung Quốc, lúc bấy giờ là vùng sa mạc hoang vu phía bắc Trung Quốc. Cái nơi được gọi là Hồ địa – đất mà người Hồ tập trung sinh sống, thuộc vùng đất ngoại tộc, nơi trở thành hành lang giao lưu văn hóa Đông Tây, hình thành con đường tơ lụa, ấy là chuyện rất lâu về sau này.

Thời Hán Vũ Đế, còn chưa có ai dám bước vào vùng hoang mạc ấy. Mọi người không biết sa mạc rộng đến đâu, cũng không biết nơi đó có dân tộc nào đang sinh sống, hay có quốc gia nào.

Hán Vũ Đế phái Trương Khiên đi sứ Tây vực hoàn toàn không phải vì sự hiếu kỳ đối với một vùng đất chưa ai biết tới, mà vì vượt qua vùng hoang mạc xa lạ kia sẽ đến được một quốc gia lớn tên là Đại Nguyệt Chi. Hán Vũ Đế muốn liên minh với quốc gia này để chinh phạt Hung Nô – thế lực vẫn luôn ỷ vào sức mạnh của mình đến nỗi dám uy hiếp triều đình nhà Hán. Nhà Hán từ thời Hán Cao Tổ đến Hán Vũ Đế, trong suốt hơn năm mươi năm đã không ngừng hạ mình gả công chúa cho Hung Nô, tặng không biết bao nhiêu lễ vật của cải, lại cho phép thông thương, nhưng Hung Nô chưa từng nguôi dã tâm xâm lược.

Thời ấy, các đời thiên tử Hán triều đều bó tay trước sự xâm lấn cướp bóc của Hung Nô. Hung Nô là dân tộc du mục, hoành hành khắp từ Siberia đến khu vực Trung Á, tính tình ngang tàng hung bạo, hết lần này đến lần khác tìm cớ tràn xuống phía nam xâm phạm biên cương nhà Hán. Những năm mất mùa đói kém, không năm nào là không phải đối phó với Hung Nô. Có thể nói, nhà Hán bấy giờ vì chiến đấu với Hung Nô mà tổn thất không biết bao nhiêu binh mã, sức cùng lực kiệt. Hán Vũ Đế lần đầu thảo phạt Hung Nô, có một người Hồ trong đám tù binh nói: “Hung Nô đánh Nguyệt Chi, lấy sọ của vua Nguyệt Chi làm đồ đựng rượu, Nguyệt Chi hận Hung Nô thấu xương, nhưng không ai hợp lực cùng họ để đánh Hung Nô, không biết phải làm sao cho đặng.”

Nghe được lời này, Hán Vũ Đế muốn phái sứ giả tới Đại Nguyệt Chi, thương thảo việc cùng nhau thảo phạt Hung Nô. Vũ Đế chiêu mộ sứ giả tới Đại Nguyệt Chi, Trương Khiên bèn xung phong đứng ra nhận lãnh trách nhiệm. Năm 139 trước Công Nguyên, Trương Khiên dẫn đầu một toán hơn trăm người từng là nô lệ của Hung Nô từ quận Lũng Tây đi vào Hồ địa, lúc quay lại lãnh thổ nhà Hán đã là mười ba năm sau, hơn một trăm người từng cùng ông ra đi chỉ còn một người quay lại được cố hương. Trên đường đi, Trương Khiên bị Hung Nô bắt làm tù binh, sau hơn mười năm mới có cơ hội trốn thoát, vượt qua sa mạc, cuối cùng đến được Đại Nguyệt Chi, hoàn thành sứ mệnh. Song trên đường quay về nước, ông lại bị Hung Nô bắt, rồi ông nhân có nội loạn mà trốn được ra ngoài, cuối cùng về đến cố quốc.

Năm thứ năm Nguyên Sóc (năm 124 trước Công Nguyên), Trương Khiên vào đô thành Trường An, dâng tấu lên Vũ Đế tường trình những việc đã trải qua, kể về tình hình phong thổ, sản vật… của các nước Tây vực trên đường đi sứ.

Lúc bấy giờ Lâu Lan cùng với các quốc gia vùng sa mạc như Thả Mạt, Vu Điền, Sa Chê, Yên Kỳ, Luân Đài, Quy Từ, Sơ Lặc v.v… mới lần đầu tiên xuất hiện trên sách lịch sử Trung Quốc. Tây vực truyện trong sách Hán Thư lần đầu tiên mô tả về Tây vực: Tây vực vốn có ba mươi sáu nước, sau đó phân tách ra, lúc nhiều nhất có đến hơn năm mươi nước, đều nằm phía Tây của Hung Nô, phía Nam của Ô Tôn. Nam Bắc có Thiên sơn, Côn Lôn sơn che chắn, giữa có sông Tháp Lý Mộc (sông Tamir) chảy qua, từ Đông sang Tây khoảng hơn sáu ngàn dặm, từ Nam đến Bắc hơn ngàn dặm, phía Đông giáp Ngọc Môn quan, Dương quan thông với phần đất của nhà Hán, phía Tây tới cao nguyên Pamir.

Tóm lại, xung quanh Tây vực là Thiên sơn, Côn Lôn sơn, cao nguyên Pamir, giữa hình thành sa mạc Taklamakan. Xung quanh sa mạc rải rác vài quốc gia nhỏ, các dân tộc không cùng màu da, tiếng nói, ngôn ngữ… sống đan xen với nhau. Trước thời Vũ Đế, Tây vực và Trung Nguyên cũng có liên hệ, nhưng đều là người dân tự đi lại với nhau, còn sự giao lưu giữa các quốc gia thì bắt đầu từ thời Vũ Đế.

Vừa ra khỏi Ngọc Môn quan, Dương quan là đến sa mạc mênh mông. Giữa sa mạc có hồ La Bố. Đương thời, người Hán gọi đó là biển Bồ Xương hoặc đầm muối. Bấy giờ hồ La Bố lớn hơn ngày nay gấp mấy lần, gọi nó là “biển” thì thích hợp hơn “hồ”, hàm lượng muối trong nước rất cao, sóng hồ rất mạnh. Hồ La Bố cách Ngọc Môn quan, Dương quan khoảng hơn ba trăm dặm. Dòng sông Tháp Lý Mộc lớn nhất giữa sa mạc Taklamakan đổ vào đây.

Quốc gia nằm bên bờ tây bắc của hồ La Bố, gần với Hán nhất chính là Lâu Lan. Đường từ Hán đến Tây vực qua Lâu Lan chia làm hai ngả: một ngả hướng nam, men theo triền núi phía bắc Côn Lôn sơn đi dần về phía tây; một ngả hướng bắc, men theo triền núi phía nam rặng Thiên sơn đi về phía tây. Từ Lâu Lan về phía nam có các quốc gia như Thả Mạt, Vu Điền, Sa Chê, Sơ Lặc, v.v… Từ Nguyệt Chi về phía bắc đi qua các nước Cô Sư, Yên Kỳ, Luân Đài, Quy Từ… có thể đến Ô Tôn, Đại Uyển, v.v… Cho nên, dù chọn con đường hướng nam hay hướng bắc, Lâu Lan đều là nơi bắt buộc phải qua trên hành trình từ Trung Nguyên đến các quốc gia Tây vực.

Trong Tây vực truyện, sách Hán thư, có đoạn viết về nước Thiện Thiện, chính là Lâu Lan về sau này: “Hộ thiên ngũ bách thất thập, khẩu vạn tứ thiên nhất bách, thắng binh nhị thiên cửu bách thập nhị giáp.” (nghĩa là “Một ngàn năm trăm bảy mươi hộ, một vạn bốn ngàn một trăm người, hai ngàn chín trăm hai mươi binh sĩ.”)

Theo đó có thể tưởng tượng ra phần nào quy mô của Lâu Lan – một nước nhỏ khoảng hơn một vạn bốn ngàn dân ven bờ tây bắc hồ La Bố. Người Lâu Lan thuộc nhánh người Iran của chủng Yalian, da ngăm đen, mắt sâu, mũi cao, đường nét trên gương mặt rất rõ ràng, góc cạnh, sống nhờ vào việc canh tác, du mục và bắt cá, làm muối từ hồ La Bố.

Trước khi Trương Khiên giới thiệu Lâu Lan đến với người đời (Hán), thì dân tộc này đã ở đó khoảng vài trăm năm. Trước khi thiết lập mối bang giao với nhà Hán, Lâu Lan luôn bị Hung Nô uy hiếp, thường xuyên chịu cảnh bị cướp bóc, chỉ có thể thần phục Hung Nô. Bên bờ hồ La Bố tươi đẹp, người Lâu Lan nương tựa vào nhau, nhờ vậy mà dân tộc nhỏ bé với chỉ hơn mười bốn ngàn người này mới có thể sinh tồn. Tuy sức lực mỏng manh của họ không thể phản kháng lại Hung Nô, nhưng chỉ cần cầm lấy binh khí, người Lâu Lan ai cũng dũng mãnh thiện chiến. Kỹ thuật cưỡi ngựa điêu luyện, bản lĩnh vừa cưỡi ngựa vừa bắn cung của họ đủ khiến cho các dân tộc khác phải kiêng dè.

Vũ Đế phái Trương Khiên đến vùng đất xa xôi này để mưu cầu việc liên kết tác chiến chống Hung Nô, nhưng nước nắm vai trò then chốt là Đại Nguyệt Chi lại tỏ thái độ ỡm ờ. Như vậy, Vũ Đế chưa nhận được kết quả mong đợi về sự hợp tác ngoại giao quân sự, nhưng lại thu hoạch lớn lao ngoài dự kiến, đó là nhận thức mới mẻ về các nước Tây vực.

Trong chiến lược đối phó với Hung Nô, các nước Tây vực đều có ý nghĩa và giá trị vô cùng to lớn. Nếu chi phối được Tây vực, có thể tạo thế uy hiếp từ nhiều cánh đối với Hung Nô, cũng có thể mượn binh lực của các nước để đánh Hung Nô. Ngoài ra, các nước nhỏ giữa sa mạc này đều sản xuất đồ kỳ trân dị bảo, như ngọc thạch, hổ phách, vàng, bạc, đồng, muối, hồ tiêu, rượu nho, lại còn có cả ngựa, trâu, voi, khổng tước, hà mã, sư tử, v.v… Sản vật phong phú, ngũ cốc dồi dào. Nếu mở rộng giao dịch buôn bán với họ, ít nhiều có thể bù đắp cho ngân khố trống rỗng sau những cuộc chiến với Hung Nô. Đối với Vũ Đế lúc nào cũng lo lắng về việc thiếu ngựa, thì những con tuấn mã của Đại Uyển lại càng có sức hấp dẫn đặc biệt.

Vũ Đế còn biết thêm tên của vài nước lớn xa xôi hơn cả các nước Tây vực, tuy không rõ Khang Cư, An Tức, Thân Độc (Ấn Độ) rốt cuộc ở vị trí nào, nhưng dường như các nước này đều rộng lớn giàu mạnh. Vũ Đế đặc biệt hứng thú với Thân Độc, một nước nóng như thiêu như đốt cách Đại Hạ hàng ngàn dặm về phía đông nam. Nghe đâu đường đến Thân Độc không bị Hung Nô quấy nhiễu, hơn nữa Thân Độc cũng mong muốn trao đổi buôn bán sản vật với nhà Hán. Đất nước này tạo được một ấn tượng sâu sắc trong lòng Vũ Đế.

Năm 122 trước Công nguyên, Trương Khiên phụng mệnh Vũ Đế đi sứ Tây vực lần thứ hai. Sứ mệnh lần này là đến Thân Độc cầu mối thông giao, nhưng giữa đường bị man tộc tây nam gây trở ngại, đành tay trắng trở về.

Năm tiếp theo, Trương Khiên đi sứ Tây vực lần thứ ba. Lần này, quân nhà Hán đã đánh lui Hung Nô, khống chế được vùng Đôn Hoàng vốn thuộc phạm vi thế lực của Hung Nô trước đây, đảm bảo cho con đường thông với Tây vực được rộng mở. Để không mất thời cơ thiết lập mối quan hệ hữu hảo với các nước Tây vực, Vũ Đế một lần nữa phái Trương Khiên tiến vào đất Hồ. Đó là năm 121 trước Công nguyên.

Người Lâu Lan lần đầu tiên nhìn thấy quân nhà Hán là vào lần thứ ba Trương Khiên đi sứ Tây vực. Ngày hôm đó, giữa những bức tường thành vây quanh nước Lâu Lan ven hồ La Bố, tin người Hán xâm phạm lãnh thổ truyền tới, trong chốc lát khiến trên dưới đều hỗn loạn. Ngoài thành, hàng ngàn con ngựa và lạc đà đều bị đuổi vào thành. Cánh cửa thành bảy cánh bị đóng chặt, tất cả đàn ông đều giáp trụ khí giới sẵn sàng, dàn trận ở những góc hiểm yếu trong thành.

Đứng trên thành lâu, mặt hồ La Bố phẳng lặng tựa một tấm lụa màu xanh lam. Nước hồ chứa nhiều thành phần muối, chỉ một cơn gió nhẹ thổi qua cũng khiến mặt hồ gợn sóng. Ngày hôm đó bình lặng quá, khiến người ta hoang mang không yên. Mặt hồ gần bờ có màu xanh lục trong như ngọc, phía xa xa loang dần ra thành màu lam thẫm. Từ trên bờ tường thành nhìn ra, phía bờ bắc của hồ có rừng cây trải dài vô tận tạo thành những đường uốn lượn mềm mại phía chân trời, với những hàng bạch dương điểm xuyết sanh liễu và các đám cây bụi lúp xúp, giống như một tấm lụa do tạo hóa dệt thành, với những sắc màu xen lẫn vào nhau một cách tự nhiên. Bờ nam của hồ mọc đầy lau sậy, che khuất cả bờ hồ, nếu không đến gần thì không thể nhìn thấy được mấy nhánh sông chảy đổ vào hồ.

Xung quanh thành quách có rất nhiều kênh đào, trên mặt đất phía ngoài rừng ở bờ bắc hồ, các kênh đào dệt thành hình lưới nhện, giăng mắc vào nhau uốn lượn suốt mấy dặm liền, giữa các kênh đào là khoảnh đất canh tác rộng lớn. Kênh do người đào, nhưng đa phần lợi dụng những dòng chảy của sông ngòi kênh rạch đã cạn khô từ xa xưa để dẫn nước sông Tháp Lý Mộc cách thành một dặm vào trong vùng canh tác. Quả thực, Lâu Lan tuy là quốc gia trên sa mạc, nhưng lại thuộc khu vực tam giác phì nhiêu được tạo nên bởi hồ La Bố và sông Tháp Lý Mộc.

Từ sông Tháp Lý Mộc về phương bắc có một con đường. Trên tường thành nhìn ra, phần lớn dòng sông bị khuất sau rừng cây ở hai bờ, chỉ lộ ra một chút màu lam thẫm. Mấy năm trước, sông này đổi dòng chảy ở một khúc nào đó, hai bên dòng sông mới không có rừng cây, gió thổi nắng thiêu, con đường song song với bờ sông cũng lộ ra dưới ánh nắng mặt trời.

Người Lâu Lan đứng trên tường thành nhìn dải đường phía xa xa, nơi những con người bé bằng hạt đậu nối nhau thành một hàng dài từ trong rừng bước ra, rồi sau đó rất lâu mới xuyên lại vào rừng cây. Ba người có nhãn lực tốt nhất phóng mắt quan sát, đếm số lượng người trong hàng ngũ vừa xuất hiện, mỗi người tiếp nhau lớn tiếng thông báo số lượng vừa đếm được. Từ tường thành lần lượt truyền đi thanh âm báo về tình hình quân Hán.

Có một ông già gầy guộc đã bảy mươi tám tuổi biệt hiệu “Lâu Lan thiên lý nhãn”. Ông nhìn rõ đội quân có ba trăm người, sáu trăm con ngựa, với số cừu và bò lên đến hàng vạn. Khi ông thấy một nửa số ngựa thồ các rương hành lý, vẻ mặt căng thẳng của ông dần giãn ra. Ông biết đoàn quân Hán không phải đến đây để gây chiến.

Không khí trong thành phút chốc thay đổi. Dầu vậy, không ai dám khinh suất. Hai ngày sau, trạng thái thời chiến trong thành mới được giải tỏa, mọi người đem tài sản từ trong hầm lên, lại thả lạc đà và ngựa ra phía ngoài thành. Mấy ngày sau đó, người Lâu Lan đều bàn tán suốt, vì sao đại quân nhà Hán vào Tây vực lại không phái sứ giả đến Lâu Lan mà đi thẳng một mạch về phía tây.

Nửa năm sau, người Lâu Lan mới nghe nói, quân Hán từ Lâu Lan đã đi theo con đường phía bắc, đến phía bắc sa mạc Taklamakan, thiết lập quan hệ hữu hảo với các nước thế lực hùng mạnh nhất ở phương bắc như Ô Tôn, sau đó toán quân phân thành nhiều ngả, tới Đại Uyển, Khang Cư, Đại Nguyệt Chi, Đại Hạ, An Tức, Thân Độc, Vu Điền, Phủ Di v.v… Hiển nhiên, quân Hán có ý né tránh Lâu Lan là nước nằm trong phạm vi thế lực của Hung Nô, cũng như né tránh luôn cả Cô Sư, cũng nằm tại cửa vào Tây vực như Lâu Lan, và cũng lệ thuộc Hung Nô.

Sau đó bắt đầu từ năm thứ hai, người Lâu Lan phát hiện các toán quân lớn nhỏ của nhà Hán hầu như mỗi tháng đều đi sang phía tây hoặc tiến về phía đông. Không chỉ quân Hán, còn cả mấy mươi người Ô Tôn dắt vài chục ngựa và lạc đà men theo dòng sông Tháp Lý Mộc để tiến vào đất Hán. Đại Hạ cũng có một nhóm nhỏ dắt ngựa và lạc đà, mỗi ngày hoặc cách ngày đều đi về phía đông. Tuy chẳng liên quan gì đến họ, nhưng người Lâu Lan thấy rất rõ mối quan hệ giữa Hán và các nước Tây vực đang ngày càng trở nên khắng khít.

Có lúc, để ra khỏi thành quan sát những kẻ lữ hành này với khoảng cách gần hơn, người Lâu Lan vượt qua đồng ruộng mênh mông, đến bên bờ sông Tháp Lý Mộc. Đây là việc chưa từng xảy ra từ lúc họ đến cư trú tại nơi này.

Người Lâu Lan nghe việc nhà Hán đánh bại Hung Nô, Hỗn Tà Vương của Hung Nô đã bị hàng phục. Họ tin rằng đây là việc không còn gì để bàn, và cho rằng Hung Nô từ đây sẽ không hung hăng xâm lấn nữa. Nghe những người lữ hành nói, Hán đã lập quận huyện ở căn cứ địa của Hung Nô trước đây như Tửu Tuyền, Đôn Hoàng; Vạn lý trường thành đã được tu sửa đến tận Tửu Tuyền; Ngọc Môn quan, Dương quan về phía tây của Đôn Hoàng đều đã dựng phong hỏa đài và trạm gác; hành lang kết nối giữa nhà Hán và Tây vực đã được tu sửa xong xuôi.

Việc chưa từng có trong lịch sử đã xảy ra: người Lâu Lan trong hai năm liền thoát được nạn cướp bóc của Hung Nô.

Người Lâu Lan lần đầu tiên tiếp đón sứ thần nhà Hán là vào năm thứ ba sau năm đầu tiên nhìn thấy quân Hán. Sứ giả lệnh cho nước Lâu Lan phải phái người tiếp tế lương thực và nước cho người Hán trong sa mạc sau khi qua khỏi Ngọc Môn quan và Dương quan để vào Tây vực. Cô Sư cũng nhận được mệnh lệnh tương tự.

Vì vậy, Lâu Lan gần như ngày nào cũng phải phái nhân lực đi vào sa mạc. Họ gánh trên vai rất nhiều lương thực và nước để nghênh tiếp người Hán, khổ không kể đâu cho hết. Người Lâu Lan bao năm qua đã nếm đủ mùi bị Hung Nô chèn ép bắt nạt, nay đến nhà Hán dựa vào uy lực nước lớn để ra lệnh sai bảo người Lâu Lan, khiến họ khó mà chịu đựng nổi.

Sau đó khoảng một tháng, đêm nọ, người Lâu Lan bị tiếng vó ngựa Hung Nô đã lâu không nghe thấy làm cho tỉnh giấc. Mười mấy kỵ binh Hung Nô xông thẳng vào cổng thành, hung hãn ngang dọc trong hành, báo cho người Lâu Lan biết rằng Hung Nô vẫn đang tồn tại. Trên mũi giáo dài của binh sĩ Hung Nô ngồi trên mình ngựa treo thủ cấp của quân Hán bị họ giết chết. Chiếc đầu còn đang nhỏ máu, ánh lên màu biêng biếc dưới ánh trăng.

Ngày hôm sau, các thanh niên Lâu Lan được phái vào sa mạc như thường lệ đã giết chết ba người Hán, cướp đồ đạc mà họ mang theo, chập tối mới về đến thành. Toàn thành đón họ trở về trong tiếng hoan hô vang dội. Người Lâu Lan cho rằng, dù sao cũng phải thần phục một phía, so với việc thần phục nhà Hán mà họ chẳng hiểu rõ ngọn ngành, chi bằng quy thuận Hung Nô vốn đã có quan hệ mật thiết nhiều năm.

Ngày tiếp theo lại có người Hán bị giết trong sa mạc, sau đó người Lâu Lan không còn vào sa mạc để cung cấp lương thực và nước cho người Hán nữa. Không lâu sau, một cánh quân Hung Nô tới đóng tại hai nước Cô Sư và Lâu Lan. Người Lâu Lan cũng vì vậy mà hết lần này đến lần khác tập kích người Hán.

Đầu mùa đông năm 108 trước Công nguyên, quân Hán lần đầu tiên mở cuộc chiến ác liệt giữa vùng sa mạc với quân đội Hung Nô xâm phạm Ngọc Môn quan và Dương quan. Tướng nhà Hán là Triệu Phá Nô soái lĩnh mấy vạn đại quân tiến vào Tây vực. Quân Hung Nô thua to, chạy về phía bắc. Quân Hán thừa thắng xông lên, chém giết đến tận ven bờ hồ La Bố, chuẩn bị tấn công Cô Sư và Lâu Lan.

Lâu Lan trong chớp mắt bị quân Hán bao vây. Quân Hán tấn công bất thình lình, Lâu Lan hoàn toàn không kịp trở tay. Tướng nhà Hán là Vương Khôi dẫn đầu bảy trăm thân binh tiến vào cổng thành, người Lâu Lan đành xin hàng. Quân Hán xông vào cung điện giữa thành, quốc vương bó tay chịu trói.

Vua Lâu Lan bị giải tới doanh trại của Triệu Phá Nô, bị bắt thề quy thuận triều đình nhà Hán, ngay trong đêm đó phải giao nộp thái tử cho quân Hán để làm con tin.

Sau khi quân Hán thu phục Lâu Lan, bèn tấn công tiếp đến Cô Sư, trấn áp Ô Tôn, Đại Uyển. Mùa xuân năm tiếp theo, quân Hán rút lui.

Quân Hán vừa rời Tây vực, Hung Nô nhân cơ hội lại hung hăng nổi dậy. Vua Lâu Lan cũng giống như lúc quy thuận nhà Hán trước đây, bị buộc phải thề trung thành với Hung Nô, đưa thái tử đi làm con tin.

Sau lần động binh đầu tiên với các nước Tây vực, Vũ Đế bắt đầu chính sách dùng vũ lực để đối phó. Đại Uyển cự tuyệt yêu cầu của Đại Hán lấy ngàn vàng đổi tuấn mã, chém sứ giả. Vũ Đế nổi giận, khởi binh thảo phạt Đại Uyển. Năm thứ hai Thái Sơ (năm 103 trước Công nguyên), Lý Quảng Lợi dẫn sáu ngàn kỵ binh và vài vạn sĩ tốt vào Tây vực đánh Đại Uyển. Do lúc bấy giờ các nước Tây vực từ chối cung cấp lương thực cho quân Hán, nên khi đội quân viễn chinh đến được Đại Uyển, đa phần binh sĩ đã vô cùng mệt mỏi đói khát. Quân Hán thua trận. Lý Quảng Lợi dẫn tàn binh quay lại Ngọc Môn quan. Vũ Đế nghe nói Lý Quảng Lợi chiến bại, vô cùng giận dữ, ra sắc lệnh “trong quân có ai dám vào cửa ải thì chém”, không cho quân bại trận quay về. Lý Quảng Lợi vì vậy mà phải ở lại Đôn Hoàng.

Năm tiếp theo, Lý Quảng Lợi lại dẫn sáu vạn quân ra khỏi Đôn Hoàng, lần này đem theo mười vạn con trâu, ba vạn con ngựa, còn vài vạn lừa và lạc đà; vũ khí lương thực đều trang bị đầy đủ.

Đại quân của Lý Quảng Lợi vừa qua bờ hồ La Bố, Lâu Lan đã nhận lệnh của Hung Nô xuất binh quấy nhiễu phía đằng sau. Quân Hán lập tức phát giác, cánh quân trấn thủ Ngọc Môn quan liền bao vây Lâu Lan. Bấy giờ tuy có kỵ binh Hung Nô chi viện, nhưng Lâu Lan vẫn không thể giải vây. Vua Lâu Lan một lần nữa bị quân Hán bắt làm tù binh.

Quân viễn chinh đánh phạt Đại Uyển báo tin thắng trận, vua Lâu Lan bị dẫn về kinh đô Trường An của nhà Hán. Quân viễn chinh bao vây, thu phục Đại Uyển, lấy đi mấy chục con ngựa tốt và hơn ba ngàn ngựa bậc trung của Đại Uyển.

Vua Lâu Lan khi bị thẩm vấn đã nói: “Lâu Lan là nước nhỏ kẹp giữa hai nước lớn Hán và Hung Nô, đắc tội với bên nào cũng đều khó mà sống nổi, bách tính khốn khổ lầm than. Hán muốn thống trị Lâu Lan thì chỉ có một cách, xin cho phép toàn bộ dân Lâu Lan chuyển vào cư trú trên đất Hán.”

Vũ Đế nghe xong, không nỡ giết, bèn đưa vua Lâu Lan trở về lại Lâu Lan.

Thu phục Đại Uyển xong, Hán cho xây dựng và tu sửa vọng lâu tại những điểm trọng yếu trên sa mạc gần hồ La Bố và Ngọc Môn quan, bảo đảm cho con đường từ Hán đến Tây vực được thông suốt; ngoài ra, còn đặt các đồn vài trăm binh sĩ tại Luân Đài và ven bờ sông Tháp Lý Mộc. Từ đó về sau, Lâu Lan dù muốn dù không, cũng phải chịu sự quản lý của nhà Hán. Năm Chinh Hòa thứ tư (năm 89 trước Công nguyên), Hán đánh Cô Sư, Lâu Lan nhận lệnh nhà Hán xuất binh tham chiến, giao tranh cùng quân Hung Nô chi viện cho Cô Sư, kết quả thương vong không biết bao nhiêu mà kể.

Lâu Lan bị kẹp giữa Hán và Hung Nô, vua Lâu Lan vì thế đêm ngày lo nghĩ không yên, lâu dần thành bệnh mà qua đời, ngôi vị không người thừa kế. Hai con trai của vua, một người làm con tin ở Hung Nô, một người làm con tin cho nhà Hán. Người con trưởng làm con tin trên đất Hán phạm hình luật, bị khép vào tử tội, còn người con thứ đưa đi Hung Nô thì bặt vô âm tín. Người Lâu Lan chẳng có cách nào khác, chọn ra một vị thân vương kế thừa ngôi báu. Tuy nhiên, vua mới vừa kế vị, Hán và Hung Nô lại đòi con tin. Vua mới đành phải đưa con trưởng An Quy đến Hung Nô, con thứ Úy Đồ Kỳ vào Hán.

Hán Vũ Đế vốn rất tích cực trong việc quản lý cai trị Tây vực, song đến khi về già, mệt mỏi vì tình hình ngân khố quẫn bách, lòng người rời rạc, cùng chiến sự liên miên, đã dần mất đi nhiệt tình từng có. Hung Nô lại nghênh ngang ra vào các nước Tây vực, thế lực càng lúc càng lớn mạnh. Các quốc gia từng một thời thần phục nhà Hán dần quay lưng. Lâu Lan cũng thuận thế theo thời mà xa Hán, thân Hung Nô.

Vua mới của Lâu Lan cũng vì việc bị kẹp giữa hai nước lớn mà tâm lực đều hư tổn, kế vị được vài năm cũng lìa đời. Hung Nô đưa người con trưởng An Quy đang làm con tin tại Hung Nô về Lâu Lan kế vị. An Quy lúc ấy hai mươi tám tuổi, sau khi kế vị thì theo chính sách thân Hung Nô phản Hán. Vị vua trẻ biết rõ cha mình và quốc vương trước đó đã khổ sở như thế nào khi phải đứng giữa hai nước lớn, mà bản thân vua lại sống trên đất Hung Nô nhiều năm khiến vua dễ gần với Hung Nô hơn, ở Hung Nô cũng còn rất nhiều bằng hữu.

Chính sách thân Hung Nô phản Hán của vị vua trẻ nước Lâu Lan rất nhanh được thể hiện ra bằng hành động cụ thể. Kế vị không lâu, Hán phái sứ giả khuyên tân vương vào triều bái kiến thiên tử, An Quy từ chối. Không chỉ vậy, là thành viên trong chiến lược liên minh của Hung Nô, An Quy còn gây trở ngại cho giao lưu giữa Hán và các nước Tây vực. Sứ giả nhà Hán đi sứ Tây vực và sứ giả các nước Tây vực đến Hán triều kiến, lúc đi qua địa phận gần hồ La Bố thường hết lần này đến lần khác bị người Lâu Lan tập kích.

Mấy năm sau khi An Quy kế vị, quân đội Hung Nô nghiễm nhiên ra vào thành Lâu Lan. Trong ngoài cổng thành lúc nào cũng có thể thấy hàng bầy ngựa trắng của Hung Nô. Đây cũng là thời điểm Hán Vũ Đế mất, Chiêu Đế kế vị.

Trong các quốc gia Tây vực, ngoài Lâu Lan công khai quy thuận Hung Nô còn có Quy Từ. Quy Từ thuộc đất tranh chấp giữa Hán và Hung Nô, cũng là quốc gia kẹp giữa hai nước lớn như Cô Sư và Lâu Lan. Thời điểm ấy, hai quốc gia nhỏ đối diện nhau qua sa mạc cuối cùng cũng đã từ bỏ chính sách làm hài lòng cả hai nước lớn, quyết tâm quy thuận Hung Nô để giữ nước, yên dân.

Thế nhưng, thái độ này của Lâu Lan và Quy Từ không sớm thì muộn cũng bị nhà Hán trả đũa. Vua An Quy biết điều này, chỉ là cái ngày ấy đến sớm hơn vua dự đoán.

Mùa thu năm 77 trước Công nguyên, Lâu Lan tiếp rước sứ thần Phó Giới Tử của nhà Hán. Đây là lần thứ hai Phó Giới Tử đi sứ Lâu Lan, lần trước là để khiển trách thái độ thân Hung Nô của Lâu Lan. An Quy ngoài mặt nhận tội, nhưng Phó Giới Tử đi rồi, chính sách quốc gia của Lâu Lan vẫn không hề có chút gì thay đổi. Lần này sứ thần vẫn là Phó Giới Tử, An Quy khó tránh cảm giác nặng nề. Quân đội Hung Nô ngày thường vẫn đóng ở gần đó vừa khéo lại mới giải tán. An Quy tuy rất không sẵn lòng, nhưng lại chẳng thể không chiêu đãi sứ thần nhà Hán trong cung điện.

An Quy bày tiệc nơi đại sảnh, Phó Giới Tử mang theo hai tùy tùng đến dự. Hoàng tộc và các trọng thần của Lâu Lan đều ngồi quanh sứ thần nhà Hán.

Tiệc rượu đến quá nửa, Phó Giới Tử bảo có lời muốn thưa riêng cùng vua An Quy. An Quy muốn nghe, bèn ngả người về phía Phó Giới Tử. Hai thanh niên người Hán ngồi phía góc phải của An Quy trong nháy mắt rút dao đâm vào lưng vua. Tất cả người ngồi quanh đều kinh hãi. Phó Giới Tử bật dậy, trợn mắt, hét to lên một tiếng. Chỉ thấy mắt sứ thần trông như Kim Cang hộ pháp, sát khí đằng đằng, giọng như sấm dậy: “Vương phản Hán bị thiên tử diệt, lập Úy Đồ Kỳ đang làm con tin nhiều năm tại Hán làm tân vương, theo quân Hán trở lại Lâu Lan. Các ngươi chớ phản loạn mà mất nước!”

Nhân lúc mọi người xung quanh đang hoảng hốt, Phó Giới Tử nhào tới rút đao chặt đầu An Quy.

2.

Sứ giả thông báo cho Úy Đồ Kỳ đang làm con tin tại Trường An sự việc hoàng huynh của chàng đã chết, lệnh cho chàng lập tức về nước nhận ngôi vua Lâu Lan.

Úy Đồ Kỳ dâng tấu thỉnh cầu lưu lại Trường An vài ngày rồi mới rời đi: “Tôi nay về Lâu Lan, tất lập tức sẽ bị Hung Nô giết chết. Phía nam Lâu Lan có thành Y Tuần đất đai màu mỡ, cây cối tốt tươi, khẩn thỉnh phái quân Hán đồn trú tại nơi đó. Uy thế của quân Hán có thể khiến Lâu Lan thoát khỏi gông cùng kìm kẹp của Hung Nô. Nếu không được như vậy, tôi không đủ lòng tin có thể cai trị Lâu Lan.”

Không lâu sau, triều đình chuẩn tấu, phái một quan Tư mã và bốn mươi binh sĩ đến Y Tuần đồn trú.

Hai tháng sau khi vua Lâu Lan là An Quy bị Phó Giới Tử hành thích, Úy Đồ Kỳ được quân Hán hộ tống rời khỏi Trường An, qua Tửu Tuyền, Ngọc Môn quan, qua sa mạc Bạch Long Đôi[2] “trên không có chim bay, dưới không có thú chạy”, từ xa xa nhìn ra đã thấy được những cánh rừng ven bờ hồ La Bố sau nhiều năm ly biệt.

Được biết Úy Đồ Kỳ quay về, người Lâu Lan tụ tập tại cửa thành, nhìn tân vương một cách lạnh lùng nghi ngại. Lúc Úy Đồ Kỳ đang vào cổng chính của thành, một đứa trẻ chưa đầy mười tuổi hét lên: “Không được bán đứng Hà Long!”

Hà Long là thần được người Lâu Lan sùng bái.

Úy Đồ Kỳ bước thêm vài bước, một bà già vừa giơ nắm đấm lên như muốn đánh tân vương, vừa hét: “Rời khỏi Lâu Lan là sẽ chết!”

Úy Đồ Kỳ không thể lý giải lời của đứa trẻ và bà già. Vương cung do quân Hán canh giữ gắt gao, những thành viên hoàng tộc quen thuộc tuy đều ra nghênh tiếp, nhưng thái độ với tân vương rất lạnh lùng xa cách.

Úy Đồ Kỳ diện kiến tướng Hán được lệnh lưu lại giữ Lâu Lan để phòng nội loạn và Hung Nô. Tướng nhà Hán nói: “Quân Hán sẽ đến Y Tuần rất nhanh thôi, xin tân vương nhanh chóng rời khỏi nơi này, đưa người Lâu Lan dời đến Y Tuần.”

Câu nói này như sét đánh giữa trời quang, khiến Úy Đồ Kỳ sửng sốt.

Nước Lâu Lan ven hồ La Bố không cách nào thoát khỏi sự ức hiếp của Hung Nô. Nếu muốn thoát khỏi vòng kìm kẹp của Hung Nô, quy thuận Hán triều, Lâu Lan tất phải dời về phía Nam, nếu không thì bao nhiêu quân binh Hán được phái đi cũng sẽ chẳng tác dụng gì. Đây là sự sắp đặt của triều đình nhà Hán dành cho Lâu Lan.

Úy Đồ Kỳ yêu cầu quân Hán đóng tại Y Tuần, nhưng chưa từng nghĩ đến việc toàn quốc phải thiên di. Đối với người Lâu Lan, hồ La Bố chính là thần, là tổ tiên, là gốc rễ của sự sống và cái chết. Người Lâu Lan không thể tưởng tượng nổi không có hồ La Bố, không có sông Tháp Lý Mộc rót vào hồ La Bố, không có đầm nước rừng cây ven hồ, không có gió vờn nắng chiếu trong những đám cỏ lau, nước Lâu Lan và người Lâu Lan rồi sẽ ra sao.

Úy Đồ Kỳ ban bố mệnh lệnh đầu tiên sau khi trở thành vua, triệu tập thành viên hoàng tộc từ mười tuổi trở lên và tất cả trọng thần nguyên lão, giải thích rõ với họ sự việc khẩn cấp mà nước Lâu Lan phải đối mặt. Nhưng mọi người đã biết tin từ tướng nhà Hán, và tưởng rằng đây là âm mưu mà Úy Đồ Kỳ cùng người Hán lập ra. Úy Đồ Kỳ giải thích mãi mới giải trừ được những hiểu lầm và thù hận trong lòng mọi người.

Thành viên hoàng tộc, các trọng thần và nguyên lão mỗi ngày đều tranh luận không ngừng. Chẳng ai tán thành việc dời cả quốc gia khỏi ven bờ hồ La Bố, nhưng hiện giờ, đây là mệnh lệnh không cho phép kháng cự. Trước mắt chỉ có hai con đường: hoặc mạo hiểm tính mệnh của quốc gia để phản kháng, hoặc tạm thời khuất phục, chọn địa điểm gần Y Tuần để lập một thành đô tạm thời.

Cuối cùng mọi người quyết định: tạm thời khuất phục Hán, từ bỏ thành ấp Lâu Lan, đi về phía nam kiến lập quốc gia mới, cố gắng làm cho dân giàu nước mạnh dưới sự bảo hộ của nhà Hán, rồi dần tìm cơ hội quay trở lại ven hồ La Bố.

Một tháng cuối cùng, thành Lâu Lan đêm đêm đèn đuốc sáng trưng, bàn tế lễ bày ra khắp nơi, mọi người đều chộn rộn không sao ngủ được, nam phụ lão ấu đi lại khắp trên những nẻo đường thắp đuốc sáng rực rỡ.

Sau đó, Lâu Lan chọn địa điểm mới cho quốc đô, là một khoảng bình nguyên cách thành Y Tuần không xa, ven bờ nam của một hồ nhỏ hơn hồ La Bố rất nhiều. Địa điểm của thành đô mới quyết định việc sau này mọi người không hẹn mà đều gọi nó là “Thiện Thiện”, trong ngôn ngữ của họ nghĩa là “dòng nước mới”. Họ không mảy may có ý giữ tên nơi mới này là “Lâu Lan”. Rời khỏi hồ La Bố thì không còn Lâu Lan, cũng không còn người Lâu Lan nữa.

Đô thành Thiện Thiện và lịch dời nước đã định xong, người Lâu Lan bận rộn suốt hơn hai mươi ngày. Họ chưa từng nghĩ đến, đồng thời cũng không muốn tin rằng vĩnh viễn phải từ bỏ vùng đất dày công tạo dựng suốt bao năm qua. Điều thay đổi có thể chấp nhận được là: giờ đây họ không dựa vào Hung Nô nữa mà chuyển sang sống dưới sự bảo hộ của nhà Hán, giống như bao lần thế cuộc đổi dời trước đây. Họ tin tưởng rằng trước khi Hung Nô hoàn toàn bị Hán đánh đuổi khỏi Tây vực, việc tránh Hung Nô mà di dời về phía nam có thể giúp họ sống yên ổn dưới sự bảo hộ của Hán.

Người Lâu Lan trốn khỏi tầm quan sát của binh lính Hán đang giữ thành, tìm kiếm khắp nơi ven hồ La Bố một chỗ để giấu tài sản. Có người thậm chí còn chạy ra ngoài đến vài dặm. Trong số tài sản có ngọc Vu Điền tìm được vào đêm trăng sáng, có ngọc quý vớt dưới đáy sông lúc dòng Tháp Lý Mộc cạn khô, có ngọc bội, có túi đeo được dệt thủ công, có tơ lụa mềm mại lấp lánh, có giày vải được làm một cách tinh xảo, còn có cả sừng động vật quý hiếm và các đồ mỹ nghệ được làm từ sừng. Người Lâu Lan phải mang những thứ này cất giấu vào chỗ tuyệt đối không ai phát hiện ra, đợi khi quay về đô thành cũ sẽ tìm lại báu vật. Có người còn không ngại những tiếng kêu quái dị của loài chim được gọi là “bò yak của hồ” để tiến vào giữa rừng sâu, có người trèo lên cây cổ thụ đã chết khô bên hồ. Mọi người không kể ngày đêm tìm chỗ cất giấu của báu.

Sau khi tài sản đã được giấu kỹ, người Lâu Lan phân thành từng toán rời khỏi thành, đến ven hồ La Bố, bên các nhánh sông Tháp Lý Mộc, bên những đầm nước mọc đầy cỏ lau, những kênh đào khô cạn nhìn thấy tận đáy trắng xóa và những nơi liên quan đến nước để lập đàn tế, đốt lửa tế lễ trước thần bảo hộ Hà Long của họ.

Chính trong lúc người Lâu Lan sắp từ bỏ thành ấp ven hồ La Bố mà họ đã cư trú từ đời này sang đời khác, dời đến đô thành Thiện Thiện cách đó hơn tám trăm dặm, thì có hai sự việc xảy ra.

Sự việc thứ nhất là cái chết của một vương phi già. Bà góa bụa từ khi còn trẻ, người con trai duy nhất bị đưa đến Hung Nô làm con tin, thực là một phụ nữ bất hạnh. Mấy năm gần đây bà ốm liệt giường, rồi chết trong nhà đúng vào sáng sớm hôm nước Lâu Lan chuẩn bị dời đô. Vì bà là thành viên hoàng tộc, tang lễ phải được tổ chức long trọng, nên việc dời đô của Lâu Lan đành hoãn lại một ngày. Trên đầu vương phi già đội một chiếc mũ dải hồng mà thường ngày bà vẫn đội, người mặc áo liệm, bên trong lót vải đen.

Những người đưa tang lần lượt bước ra khỏi kinh thành đã sắp biến thành phế tích, khiêng quan tài lên núi, bỏ xuống mộ huyệt sâu hun hút, lấp đất phủ đầy, rồi mang vài phiến đá lớn đặt lên trên. Mọi người cứ đứng mãi chẳng muốn rời, vừa tiếc thương cho người quá cố, vừa như để nói lời từ biệt cùng hồ La Bố dưới chân núi.

Sự việc thứ hai là trong đêm mà vương phi già qua đời, vương phi của tiên vương An Quy tự tận tại phòng riêng. Người phát hiện ra nàng đã chết là một thị nữ, chỉ thấy nàng trang điểm vô cùng lộng lẫy, mặc y phục tuyệt đẹp, miệng ngậm cỏ độc, đã tắt hơi trên giường ngủ, gương mặt không hề có nét đau đớn nào.

Người đau đớn nhất trước cái chết của vương phi An Quy là Úy Đồ Kỳ. Chàng đã đem lòng yêu vương phi trẻ trung xinh đẹp của người anh đã mất, thầm tính sẽ lấy nàng làm vợ. Đây không chỉ là suy nghĩ riêng của Úy Đồ Kỳ, mà còn là hy vọng của tất cả vương tộc và toàn thể người dân Lâu Lan. Người Lâu Lan vô cùng yêu quý vị vương phi này của họ. Tất nhiên, Úy Đồ Kỳ chưa từng thổ lộ suy nghĩ của mình ra với bất kỳ ai. Mỗi ngày chàng đều bận rộn với việc dời đô cấp bách ngay trước mắt, cũng như bao việc vụn vặt dồn dập khác. Chàng định sau khi dời đô về Thiện Thiện sẽ thương lượng cùng với mọi người việc lập phi, tranh thủ sự đồng tình của tất cả để xe duyên cùng người chàng thương mến.

Vậy mà vương phi của tiên vương lại đột nhiên tự tận. Người Lâu Lan không ngừng bàn tán, có người bảo vận mệnh bi thảm của tiên vương khiến nàng quá bi thương, có người đoán nàng không muốn rời khỏi mảnh đất đã an táng tiên vương, cũng có người nói nàng tuẫn táng cùng thành Lâu Lan đang sắp bị biến thành phế tích. Không ai thật sự hiểu rõ nguyên nhân cái chết của nàng. Nhưng điều khó tin là mọi người đều bình thản tiếp nhận cái chết của nàng, chẳng chút ngạc nhiên, dường như đó là việc sớm muộn gì cũng phải xảy ra cuối cùng đã xảy ra. Mọi người chỉ cảm thấy kỳ lạ rằng sao mình không phát giác sớm hơn một chút.

Sự việc xảy ra rồi, người ta mới bừng tỉnh ngộ, vương phi không thể sống được ở bất cứ nơi đâu ngoài Lâu Lan. Giống như rời khỏi hồ La Bố là không còn Lâu Lan, rời khỏi hồ La Bố cũng không còn vương phi trẻ đẹp này nữa.

Do cái chết của vương phi già, Úy Đồ Kỳ đã hoãn việc dời đô Lâu Lan lại một ngày, giờ vì cái chết của vương phi tiên vương, lại phải lùi thêm một ngày nữa. Tang lễ được tổ chức long trọng vào ngày thứ ba. Hai thị nữ dùng vải lụa đẹp nhất khâm liệm cho vương phi, đội mũ lên đầu nàng. Úy Đồ Kỳ tự tay đặt vương phi vào quan tài, phủ lên người nàng tấm vải lụa dệt tinh xảo đem về từ nước Hán.

Vương phi của tiên vương được an táng trên sườn núi cách mộ của vương phi già không xa. Huyệt mộ được đào rất sâu, chôn cùng quan tài gỗ còn có mấy thùng đồ dùng thường ngày của vương phi và một con dê làm vật tùy táng. Buổi hoàng hôn, ráng chiều loang lổ vẽ lên nền trời những vệt đỏ hồng, tím thẫm và xanh biếc, điểm trang thêm cho phần mộ của nàng.

Người ta chặt một cây sanh liễu lớn bên hồ La Bố, cắm lên ngôi mộ để làm bia, rồi lại đặt trước mộ một bồn đá lớn đầy hoa tươi. Úy Đồ Kỳ và những người tham dự tang lễ đều tin tưởng một cách chắc chắn rằng trong tương lai không xa, họ sẽ quay lại đây cúng tế.

Ngày dời đô về phía nam, người Lâu Lan tập trung tại quảng trường trước cổng thành, mấy ngàn con ngựa và lạc đà chất đầy hành lý. Khi mặt trời sớm mai vươn lên từ phía bờ hồ La Bố, khiến mặt hồ nhuộm thành một phiến đỏ rực, họ lại lần nữa, mà có thể cũng là lần cuối cùng, cầu nguyện và lễ bái trước Hà Long. Đội quân đầu tiên  bắt đầu xuất phát.

Một đội ngũ người cùng gia súc xen lẫn nhau kéo dài như một con rồng, từ từ trườn khỏi thành ấp. Đội ngũ bắt đầu qua khỏi đầm lầy và tiến lên hướng bắc, tiếp đó theo những dòng chảy đã cạn khô của sông để xuôi về phương nam. Khi đầu rồng tiến vào trong sa mạc, đuôi của nó vẫn còn ở cổng thành.

Khoảng nửa giờ sau khi nhóm cuối cùng rời khỏi thành, có ba người đàn ông tách đoàn quay lại nơi mà họ vừa xuất phát ban sáng. Một người về thành, cưỡi ngựa đến trước cổng nhà mình, vào nhà lấy ra một thanh đao bỏ quên trên giá trong kho, giắt đao vào lưng, rồi cưỡi ngựa đi. Một người khác thúc ngựa xuyên qua thành ấp đến khu rừng ven hồ, khuân phiến đá lấp miệng cửa hang giấu bảo vật, cất thêm một chiếc bình nhỏ của phương tây đem theo vào trong đó, rồi lấp miệng hang, đổ đất lên trên, dùng gỗ đè thêm cho chắc chắn, lại phủ thêm một lớp lá cây, ngụy trang để người ta nhìn vào không thể biết được bên dưới có một hang chứa bảo vật, sau đó lên ngựa. Người cuối cùng quay trở về thành không để làm việc gì cả, chỉ quất ngựa tới lui trên các đường ngang ngõ dọc trong thành, sau khi ra khỏi cổng thành còn ngước lên nhìn những bức tường thành lần nữa mới quay đầu ngựa, vút đi như một cơn gió, đuổi theo đoàn người phía trước.

Chỉ trong hai ngày, Lâu Lan đã biến thành một ngôi thành bỏ không, già cỗi và hoang phế chỉ trong chốc lát. Gió cuồn cuộn bốn bề, những bức tường đắp bằng bùn bắt đầu rệu rã. Khắp nơi đầy cát, cả tòa thành trông như một đống hoang tàn, tối tăm nhợt nhạt.

Chập tối ngày thứ ba, gió lớn đã tạm ngừng thổi, vài trăm lính người Hán xuyên qua sa mạc đến đây đồn trú. Thành ấp không một bóng người chốc lát dậy tiếng ngựa hí người kêu. Ngày hôm đó, nước hồ La Bố đục ngầu, mặt hồ gợn lên những đợt sóng lăn tăn.

3.

Trong suốt tám mươi lăm năm từ khi người Lâu Lan dời đến Thiện Thiện (năm 77 trước Công nguyên) cho đến loạn Vương Mãng đời Hán (năm thứ 8 Công nguyên), địa vị của Hán tại Tây vực đã áp đảo Hung Nô, thiết lập chế độ quản lý Tây vực và đặt ra chức Tây vực Đô hộ, đóng quân khắp nơi, đại thể đã thống trị được các nước Tây vực. Nhằm tranh đoạt Ô Tôn và Xa Sư, Hán và Hung Nô đã đánh nhau kịch liệt, dần dần Hán đuổi được Hung Nô khỏi Tây vực.

Người Lâu Lan dời đến Thiện Thiện, bắt đầu khai khẩn trồng trọt bên bờ hồ nước ngọt không có chút muối nào và xây dựng thành ấp của mình. Từ lúc dời về phương nam, Lâu Lan không còn bị Hung Nô quấy nhiễu. Nếu dựa vào ý nghĩa thoát khỏi xiềng xích của Hung Nô, thì việc dời đô đến Thiện Thiện đối với người Lâu Lan quả là một quyết định hay.

Năm thứ mười từ khi người Lâu Lan rời khỏi Lâu Lan, tức năm Địa Tiết thứ ba dưới thời Tuyên Đế (năm 67 trước Công nguyên), một nhóm chừng trăm người mang theo hơn trăm con lạc đà từ Thiện Thiện tiến đến Lâu Lan. Họ muốn quay lại đào những bảo vật năm nào chôn vùi gần thành Lâu Lan để mang về.

Trong số người này có quá nửa thuộc độ tuổi ngoài ba mươi, từ khi dời đô đến Thiện Thiện, họ không lúc nào nguôi nỗi nhớ Lâu Lan và hồ La Bố. Còn lại là các thiếu niên, có người lúc dời đô là một đứa bé còn chưa biết nhớ, có người dời đô rồi mới được sinh ra. Sau khi họ ra đời, ngày nào cũng nghe thấy trong lời cầu nguyện với Hà Long của những người xung quanh nhắc tới cái tên Lâu Lan và hồ La Bố, song không biết đó là nơi như thế nào. Họ rất khó tưởng tượng ra việc thực sự có nước chứa muối và cát chứa muối, chỉ biết rằng rồi sẽ có một ngày quay về nơi ấy, sống trong tòa thành nguy nga đẹp đẽ. Họ tin tưởng chắc chắn đó là vận mệnh mà thần của dân tộc đã an bài.

Thế nhưng, cuộc hành trình về lại Lâu Lan của nhóm người này kết thúc một cách bi thảm. Họ bị quân Hung Nô tập kích trong sa mạc, tổn thất mười mấy người và nửa số lạc đà. Sau bao gian khổ cuối cùng cũng tới được Lâu Lan, họ phát hiện ra Lâu Lan đã biến thành một căn cứ quân sự, trong thành đâu đâu cũng là binh lính nhà Hán. Để tập kích Hung Nô đang chiếm đóng Xa Sư, từng đoàn quân Hán kéo đến Lâu Lan, rồi lại từng đoàn kéo đi. Người Lâu Lan đừng nói đến việc vào thành, đến lại gần thành cũng không thể được, làm sao có thể tìm kiếm nơi chôn bảo vật của mình.

Đám người Lâu Lan này đứng trên gò cát phóng mắt nhìn nơi đã từng là đô thành Lâu Lan. Trong mắt họ, thành Lâu Lan cùng phong cảnh xung quanh đã hoàn toàn không còn giống như lúc họ còn ở đó. Nhìn dưới chân, gió miết từng hồi trên mặt đất, quyện thành những miệng cát hình phễu xoáy động. Mười năm trước tuyệt nhiên không phải thế này. Đường nét uốn lượn của các dãy đồi núi xung quanh thành ấp cũng đã thay đổi. Chẳng còn gì như xưa nữa. Nước hồ từng trong vắt như pha lê giờ đây đục ngầu, lau sậy ít đi nhiều, có thể thấy được sóng đánh vào bờ.

“Hà Long nổi giận rồi.” – Những người Thiện Thiện bây giờ, cũng là người Lâu Lan mười năm trước, nghĩ thầm. Họ chẳng đào lên được một bảo vật nào, trở về tay không.

Lại mười năm sau, một ông lão quản lý thủy lợi bảy mươi tuổi tự mình cưỡi lạc đà từ Thiện Thiện về Lâu Lan. Ông lão không nói với bất kỳ ai về việc này, khiến người xung quanh hoảng hốt tìm kiếm khắp nơi khi phát hiện ông đột nhiên biến mất. Ông chậm rãi băng qua sa mạc, ngày thứ mười cuối cùng cũng đến được thành Lâu Lan mà ông ngày nhớ đêm trông. Ông xuống lạc đà, bước vào trong thành. Một vùng hoang vu cỏ áy bóng tà.

Ông lão vào từ cửa thành phía đông, đi được khoảng hơn mười trượng thì gặp một thi thể quân Hán, xem ra chết chưa lâu. Thêm đoạn nữa, ông thấy ba thi thể quân Hung Nô lưng còn cắm mũi tên đang nằm dưới đất. Đi tiếp một đoạn nữa, lại phát hiện xác quân Hán. Lúc này, từ xa có tiếng ngựa hí vang vọng lại, ông lão dừng bước.

Ông quay lại cổng thành, cưỡi lên con lạc đà lúc nãy buộc gần đó, lập tức rời khỏi ngôi thành âm khí nặng nề. Lắc lư trên lưng lạc đà cả ngày trời, khi nhận thấy đã đến vùng lau sậy mọc đầy gần bờ nam của hồ La Bố, ông mới xuống khỏi lưng lạc đà. Ông biết mình chẳng thu được gì, những mục tiêu khi trở lại Lâu Lan đều chẳng đạt được. Ông muốn đào bảo vật, muốn cúng bái mộ tổ tiên, muốn nhìn cho thỏa lòng mong nhớ cảnh đẹp của bờ hồ La Bố mà ông từng sinh sống, nhưng những xác người trong thành Lâu Lan khiến ông quên hết tất cả những điều này.

Đoán mình đã cách bờ hồ La Bố không xa, nên ông trèo lên lưng lạc đà đi tiếp. Một giờ sau, ông đến được nơi giống như bên bờ hồ La Bố, bèn tuột xuống. Ông nhìn ra mặt hồ phía xa xa, thấy mấy ngọn tháp màu đỏ lọt vào tầm mắt, trong đó có một ngọn cao chót vót, ngọn tháp nhọn bốn mặt đều ánh đỏ. Đăm đắm hồi lâu, mấy ngọn tháp này sao trông có vẻ gì đó khiến người ta cảm giác không thật, giống như một trang hình cắt giấy được dựng đứng lên trên mặt hồ đang gợn sóng lăn tăn.

Ông lão lập tức lại trèo lên lưng lạc đà, rời khỏi, cho rằng cảnh tượng dị thường mà mình nhìn thấy vừa nãy trong thành Lâu Lan và cả hiện tại trên mặt hồ sở dĩ xuất hiện đều là do Hà Long đã nổi giận.

Sau khi về lại Thiện Thiện, ông không hé môi nửa lời về việc mình đã đi đâu, thấy những gì. Ông nghĩ, để làm nguôi cơn thịnh nộ của Hà Long, người Thiện Thiện tất phải nhanh chóng quay về cố đô Lâu Lan.

Cảnh tượng chết chóc mà ông lão nhìn thấy tại Lâu Lan chính vào thời đại mà thế lực của Tuyên Đế tại Tây vực hùng mạnh nhất. Năm Thần Tước thứ hai thời Tuyên Đế (năm 60 trước Công nguyên), Trịnh Cát nhận nhiệm vụ bảo hộ Tây vực, đóng quân tại thành Ô Lỗi của Quy Từ. Từ đó, đa số các nước Tây vực đều quy thuận Hán triều. Nhà Hán giao thương thường xuyên với Tây vực, các nhà buôn phương Tây hầu như ngày nào cũng phải đi qua Lâu Lan về hướng đông bắc.

Năm thứ 8 Công nguyên, Hán sinh nội loạn, Vương Mãng soán vị, thi hành chính sách coi thường Tây vực. Tây vực lại rơi vào cảnh loạn lạc, Hung Nô thừa cơ tiến vào hoành hành, không ít quốc gia bắt đầu quan hệ với Hung Nô mà quay lưng lại với Tây vực Đô hộ.

Thế nhưng, thái độ của Thiện Thiện từ đầu đến cuối lại thể hiện rất rõ ràng việc quy thuận triều Hán. Từng vì nương tựa Hán mà phải từ bỏ cố đô Lâu Lan, nơi đã cư trú đời này sang đời khác, song Thiện Thiện dù thế nào chăng nữa cũng không thể lại thay đổi thái độ ban đầu. Nếu giờ đây quay sang nép bóng Hung Nô, thì việc dời đô năm nào còn ý nghĩa gì nữa. Tuy những người Thiện Thiện biết về thời đại Lâu Lan đã chẳng còn được bao nhiêu người, nhưng trong lòng tất cả mọi người Thiện Thiện đều nhận định rằng việc từ bỏ Lâu Lan tự nó đã mang ý nghĩa cắt đứt hoàn toàn quan hệ với Hung Nô. Dù chuyện gì xảy ra, Thiện Thiện cũng phải dựa vào sức mạnh của nhà Hán, rồi sẽ có một ngày quay trở lại được cố đô Lâu Lan. Trong lòng người Thiện Thiện giờ đây, “Lâu Lan” chính là từ đồng nghĩa với “trở về đất cũ”.

Sau khi loạn Vương Mãng đã được dẹp yên, Quang Vũ Đế kế vị, nhưng thế lực nhà Hán không còn được như xưa nữa, thật khó mà cai trị một Tây vực hỗn loạn. Sự cướp đoạt hà hiếp của Hung Nô ngày một dữ dội hơn.

Năm 38 Công nguyên, vua Thiện Thiện đời thứ ba thương nghị với quốc vương Sa Chê lúc bấy giờ đang ngày càng lớn mạnh về việc phái sứ giả đến Hán tiến cống tài vật, thỉnh cầu Hán tích cực xuất binh vào Tây vực, khôi phục chức Tây vực Đô hộ vì loạn lạc mà đã phế bỏ. Bấy giờ, không chỉ hai nước này, mà các nước Tây vực khác đều không thể chịu đựng nổi sự bạo liệt ngang ngược của Hung Nô nữa, hy vọng được quy thuận Hán.

Năm 41 Công nguyên, quốc vương Sa Chê đơn độc phái sứ giả vào Hán, một lần nữa thỉnh cầu việc khôi phục chế độ Tây vực Đô hộ. Quang Vũ Đế không muốn đối đầu với Hung Nô, không chấp thuận lời thỉnh cầu của Sa Chê, nhưng lại mang ấn Tây vực Đô hộ ban cho Hiền vương của Sa Chê. Khi ấy Thái thú Đôn Hoàng là Bùi Tuân dâng tấu, cho rằng không thể mang ấn Đô hộ giao cho người Hồ, dẫn đến việc Hán thu hồi ấn. Vua Sa Chê vì thế mà trong lòng hận nhà Hán. Ông biết Hán không có lòng quản lý Tây vực, nên rắp tâm thống nhất các nước Tây vực. Hiền vương đầy dã tâm muốn vươn lên làm minh chủ, bèn bắt đầu từng bước xâm lược các quốc gia khác.

Các nước Tây vực mệt mỏi với sự xâm lược của Sa Chê, liên hợp dâng thư xin nhà Hán thảo phạt Sa Chê. Vua Thiện Thiện và mười tám nước Quy Từ, Sa Chê tiền quốc, Yên Kỳ v.v… cùng nhau bàn bạc, phái sứ giả đi sứ nhà Hán. Mỗi nước đều dâng tặng người hầu và các loại kỳ trân dị bảo, trình bày rõ tình hình Tây vực, thúc giục Quang Vũ Đế có thái độ tích cực hơn đối với Tây vực. Mười tám sứ giả các nước Tây vực thay phiên nhau khẩn cầu Hán thống trị Tây vực, nhưng Quang Vũ Đế vẫn giữ thái độ ỡm ờ, do dự không dứt khoát. Ngài ban thưởng cho sứ giả các nước Tây vực, nhưng không để người hầu mà họ tặng ở lại trong cung điện nhà Hán.

Sa Chê xâm lược Thiện Thiện, người Thiện Thiện ứng chiến. Đó là lần đầu tiên sau khi dời đô, họ phải cầm vũ khí bảo vệ thành ấp của mình. Thế nhưng, Thiện Thiện không phải đối thủ của Sa Chê. Thiện Thiện từng ba lần phái sứ giả đến Hán báo tình hình khẩn cấp để xin cứu giúp, song Quang Vũ Đế vẫn chẳng thèm bận tâm. Thiện Thiện đành xin cứu viện từ nơi khác, cuối cùng quyết tâm cùng với Xa Sư nhập vào đội ngũ của Hung Nô. Người Thiện Thiện quá giận dữ trước thái độ của nhà Hán nên đã lựa chọn nghiêng hẳn về phía Hung Nô. Lúc này đã là một trăm hai mươi năm sau khi cha ông họ từ bỏ Lâu Lan.

4.

Sau thời Quang Vũ Đế, Minh Đế nối ngôi. Minh Đế cũng bận rộn chăm lo nội chính, không hơi sức đâu mà nghĩ đến sự vụ của các ngoại tộc. Giống như thời Quang Vũ Đế, các cửa ngõ thông với Tây vực như Ngọc Môn quan, Dương quan đều đóng kín. Thời gian này, Hung Nô ngang nhiên hoành hành tại các nước Tây vực, không chỉ Thiện Thiện, mà các nước Tây vực khác đều quy thuận Hung Nô, cắn răng chịu áp bức.

Nhà Hán suốt một thời gian dài không ngó ngàng gì đến Tây vực, mãi cho đến những năm cuối đời Minh Đế, vì Hung Nô xâm phạm hành lang Hà Tây[3], mới bắt đầu xem xét lại vấn đề Tây vực. Hán muốn giữ được hành lang Hà Tây, tất phải thông Tây vực; muốn thông Tây vực, tất phải trục xuất thế lực Hung Nô.

Năm Vĩnh Bình thứ mười sáu (năm 73 Công nguyên), nhà Hán quyết tâm thảo phạt Hung Nô. Hai viên đại tướng Đậu Cố, Cảnh Bỉnh xuất binh từ Tửu Tuyền, tiến về phương bắc vào sa mạc đánh đuổi Hung Nô, chiếm lĩnh căn cứ địa Y Ngô Lô của địch. Cuộc chiến kết thúc, Đậu Cố lập tức phái sứ giả Ban Siêu đi sứ Tây vực, mở quan hệ ngoại giao với các nước. Ban Siêu dẫn đầu đoàn tùy tùng ba mươi sáu người ra khỏi Ngọc Môn quan, vượt qua sa mạc, mười sáu ngày sau đến được nước Thiện Thiện.

Từ sau loạn Vương Mãng, nước Thiện Thiện hơn sáu mươi năm rồi mới lại được tiếp đón sứ thần nhà Hán. Người Thiện Thiện chưa từng nhìn thấy nhiều người Hán như thế. Quốc vương Thiện Thiện là Quảng mở tiệc linh đình khoản đãi Ban Siêu, lưu ông lại mấy ngày. Nhưng lúc bấy giờ quân Hung Nô đã đến một nơi cách Thiện Thiện ba mươi dặm. Quảng sợ làm Hung Nô nổi giận, bất đắc dĩ phải thay đổi thái độ đối với sứ thần nhà Hán. Sự thay đổi đột ngột trong thái độ của người Thiện Thiện khiến Ban Siêu biết rằng Hung Nô đang ở gần đó. Ông xin vua Thiện Thiện thăm dò xem Hung Nô đóng nơi nào, ngay trong đêm ấy thình lình tập kích doanh trại Hung Nô, chém đầu sứ giả Hung Nô.

Vua Thiện Thiện khiếp đảm trước uy dũng của Ban Siêu, tỏ ý muốn quy thuận nhà Hán. Sau đó, Ban Siêu viếng thăm khắp lượt các nước Tây vực. Nhờ nỗ lực của ông, quan hệ ngoại giao bị cắt đứt suốt hơn năm mươi năm giữa nhà Hán và các nước Tây vực được phục hồi. Các nước Tây vực như Thiện Thiện, Vu Điền, Sơ Lặc, Xa Sư tiền quốc, Xa Sư hậu quốc v.v… đã nếm đủ mùi cay đắng từ sự bạo ngược của Hung Nô đều vui vẻ quy thuận Hán. Sau đó, Hán khôi phục chức Tây vực Đô hộ, chính thức bắt tay vào quản lý Tây vực.

Nhưng đến năm thứ ba, tức năm Vĩnh Bình thứ mười tám, Hung Nô mang hai vạn đại quân tiến vào với ý đồ đoạt lại Tây vực. Cuộc chiến định mệnh trường kỳ giữa Hán và Hung Nô được mở ra, Ban Siêu vì thế mà hao tổn sức lực tâm huyết của cả đời người.

Vua Quảng của Thiện Thiện nhân lúc đại quân Hung Nô đi về phía nam quyết một trận sống mái với quân nhà Hán đã soái lĩnh hai ngàn binh sĩ tấn công cố đô Lâu Lan. Lúc bấy giờ, Ban Siêu cầm đầu ba vạn đại quân đóng tại Sơ Lặc, lấy đây làm cứ điểm để thống trị Tây vực. Biết được tin này, một ý nghĩ vụt qua trong đầu vua Thiện Thiện vốn đang đầy nhiệt huyết, đó chính là đoạt lại Lâu Lan bị chiếm giữ nhiều năm từ tay Hung Nô. Mối thù của người Thiện Thiện đối với Hung Nô mãnh liệt hơn những quốc gia Tây vực khác. Hung Nô vừa tới, họ đã đóng chặt cửa, trốn xuống hầm, mặc quân địch muốn cướp bóc thế nào cũng được. Mỗi năm Thiện Thiện đều bị cướp bóc vài lần như vậy, không chỉ vẫn phải cống nộp rất nhiều tài vật cho Hung Nô, mà còn phải nuốt hận vào lòng, không ngừng nhịn nhục.

Đối với người Thiện Thiện giờ đây, Lâu Lan đã không còn là “đất cũ để trở về”  – mảnh đất cha ông họ ngày nhớ đêm trông nữa, mà là nơi phục thù. Sớm muộn họ cũng phải quyết một trận tử chiến với Hung Nô. Hai ngàn binh sĩ Thiện Thiện được trang bị giáp trụ khí giới sẵn sàng cưỡi trên lưng ngựa và lạc đà, hướng về phía bờ hồ La Bố mà họ chưa từng đặt chân tới bao giờ, bắt đầu xuất phát.

Ba ngày đầu, đoàn quân gặp gió bão, hành quân vô cùng khó khăn gian khổ, nhưng không một ai bỏ cuộc. Khi còn cách Lâu Lan ba mươi dặm, người Thiện Thiện để lạc đà lại, tất cả lên ngựa, ngay trong đêm ập tới trước thành Lâu Lan. Họ vốn muốn vượt tường thành để bất thình lình tập kích nơi đóng quân của Hung Nô, chẳng thể ngờ trận kịch chiến diễn ra ngay ngoài thành. Hóa ra quân Hung Nô đã phát giác việc người Thiện Thiện muốn tập kích ban đêm, nên đợi họ tới gần tường thành mới nhất tề phóng tên độc. Trong phút chốc, tên bay như mưa trên dưới tường thành, binh sĩ Thiện Thiện trúng tên ngã xuống hàng loạt, thương vong vô số kể. Quân Hung Nô thấy vậy, bao vây đánh từ hai phía. Vua Thiện Thiện biết mình đã mất thời cơ, đành hạ lệnh rút quân.

Binh sĩ Thiện Thiện tan tác, nhân đêm tối chạy rút về hướng Thiện Thiện, lớp bị Hung Nô truy sát, lớp bị lạc đường trong sa mạc, cuối cùng còn không đầy ba trăm người về lại được Thiện Thiện. Chính trong lúc mọi người nghĩ rằng quốc vương đã tử trận thì thấy vua trở về, mình đầy thương tích.

Lần tập kích Lâu Lan này kết thúc thảm bại, người Thiện Thiện hiểu rằng họ chỉ có thể nương nhờ vào Hán. Minh Đế cảm thấy khó nắm bắt thái độ nay lúc này mai lúc khác của người Hồ, vì thế Ban Siêu phải lưu lại Tây vực, sống trọn đời giữa những cuộc chiến với các dân ngoại tộc. Trong tình hình Tây vực rối ren như thế, chỉ có Thiện Thiện trước sau chưa từng rời bỏ nhà Hán, hay nói khác đi là không thể rời bỏ nhà Hán.

Năm Vĩnh Nguyên thứ mười bốn (năm 102 Công nguyên), Ban Siêu sau nửa đời trên lưng ngựa chốn sa trường Tây vực đã cáo lão hồi hương, quay về Lạc Dương. Nhiệm Thượng tiếp nhận chức Tây vực Đô hộ, nhưng không có năng lực cai trị, khiến cho các nước Tây vực lại tiếp tục xa rời nhà Hán, Hung Nô ngày càng ngang ngược. Năm Vĩnh Sơ thứ nhất đời An Đế (năm 107 Công nguyên), Hán cuối cùng cũng lấy ba lý do là đường vào Tây vực xa xôi hiểm trở, các dân tộc Hồ biến hóa khôn lường, và phí tổn binh lực quá lớn để từ bỏ Tây vực, chiêu hồi quan lại và binh sĩ đồn trú tại Tây vực, một lần nữa đóng cửa Ngọc Môn quan và Dương quan. Hung Nô phương Bắc lập tức thế chân nhà Hán, trở thành kẻ thống trị Tây vực. Lâu Lan lại một lần nữa trở thành doanh trại của Hung Nô.

An Đế năm Nguyên Sơ thứ sáu (năm 119 Công nguyên), Bắc Hung Nô chinh phục các nước phía nam Tây vực, liên hợp lại hết lần này đến lần khác xâm phạm địa phận Hà Tây của nhà Hán. Thái thú Đôn Hoàng lúc đó là Tào Tông sợ Hung Nô sẽ dồn lực xâm lăng, bèn dâng tấu kiến nghị phải lôi kéo mua chuộc các nước Tây vực. An Đế bèn phái quan Trưởng sử Tác Ban làm tướng, dẫn hơn ngàn binh sĩ đên Y Ngô Lô, xoa dịu các nước Tây vực. Lúc bấy giờ, nước quy thuận Hán trước tiên chính là  nước chịu sự cướp đoạt ức hiếp của Hung Nô nhiều nhất: Xa Sư tiền quốc và Thiện Thiện.

Để trả đũa, năm tiếp theo, Hung Nô chỉ huy binh sĩ của Xa Sư hậu quốc đến tập kích, công phá Xa Sư tiền quốc, giết Trưởng sử Tác Ban. Vua Thiện Thiện từng đem quân tới chi viện cho Tác Ban, nhưng bị Hung Nô đánh bại.

Vua Thiện Thiện xin Tào Tông cứu viện. Tào Tông dâng tấu thỉnh cầu triều đình xuất năm ngàn binh thảo phạt Hung Nô, song không được chấp thuận. Sau đó, triều đình triệu kiến Ban Dũng là con của Ban Siêu, người có công lao hiển hách trong việc trị lý Tây vực, để hỏi ý kiến về vấn đề này. Ban Dũng kiến nghị khôi phục ba trăm doanh trại vốn có tại Đôn Hoàng, đồng thời cho Trưởng sử Tây vực dẫn năm trăm binh sĩ đóng tại Lâu Lan, nhưng kiến nghị này cũng không được thực hiện.

Năm 124 Công nguyên, Ban Dũng nhận lệnh của An Đế nhậm chức Trưởng sử Tây vực, soái lĩnh năm trăm binh sĩ đến đóng tại Tây vực. Lúc này, Thiện Thiện cũng là nước đầu tiên quy thuận nhà Hán.

Với sự nỗ lực của Ban Dũng, thế lực nhà Hán từng vài lần được khuếch trương đến các nước Tây vực, song mỗi lần đều không được bao lâu. Thế lực của Hán vừa lơi lỏng một chút, Hung Nô đã lập tức thừa cơ nhảy vào. Nước Thiện Thiện bị kẹp giữa Hán và Hung Nô, thường bị Hung Nô ức hiếp. Chỉ cần quân Hán vừa vào Tây vực, thì Thiện Thiện luôn là nước đầu tiên quy thuận, nhưng rất nhanh sau đó sẽ bị Hán từ bỏ. Đây dường như đã trở thành số mệnh an bài cho Thiện Thiện, chẳng thể nào thay đổi được.

Thời Hán Vũ Đế, vùng xung quanh sông Tháp Lý Mộc có hơn ba mươi quốc gia nhỏ, bị kẹp giữa Hán và Hung Nô, lúc thân Hán, lúc thân Hung Nô, lại còn tranh đấu lẫn nhau. Đến hết thời Tam Quốc năm 280 Công nguyên, các nước nhỏ này dần sáp nhập lại thành vài nước lớn.

Thiện Thiện thôn tính các nước Thả Mạt, Tiểu Uyển, Tinh Sắc,…; Vu Điền nhập lại cùng Nhung Lư, Phù Di, Cừ Lặc, Bỉ Sơn v.v… Ngoài ra, Yên Kỳ, Quy Từ, Sơ Lặc, Xa Sư hậu quốc cũng từng bước ghép lại với các nước nhỏ lân cận. So với thời Hán Vũ Đế, lãnh thổ của sáu quốc gia này đã mở rộng rất nhiều.

Tuy nhiên, dù lãnh thổ được mở mang, các quốc gia này vẫn buộc phải quy thuận Tiên Ti cùng các ngoại tộc khác là thế lực thống trị phương bắc nổi lên thay thế Hung Nô giống như lúc trước quy thuận Hung Nô, lại còn phải tỏ ra biết điều với thế lực thống trị Trung Nguyên luôn đối chọi với Tiên Ti.

Năm Thái Ninh thứ hai đời Minh Đế nhà Đông Tấn (năm 324 Công nguyên), Tiên Lương vương uy chấn một cõi Đôn Hoàng là Trương Tuấn lệnh cho thuộc tướng Dương Nghi vượt qua sa mạc đi chinh phạt Thiện Thiện và Quy Từ. Hai nước hàng phục Trương Tuấn, vua Thiện Thiện là Nguyên Mạnh tặng mỹ nữ cho Trương Tuấn.

Năm Thái Bình thứ bảy đời Hiếu Vũ Đế nhà Đông Tấn (năm 382 Công nguyên), vua Xa Sư tiền quốc và vua Thiện Thiện gặp mặt Tiên Tần vương Phù Kiên. Hai vị quốc vương Tây vực mặc triều phục vua ban, đến Tây đường bái kiến Phù Kiên, bị cung điện hoa lệ và lễ nghi trang nghiêm làm cho choáng ngợp, bèn thỉnh cầu về sau năm nào cũng triều cống. Phù Kiên lấy lý do đường xá Tây vực xa xôi để cự tuyệt, sau lại quyết định ban cho chế độ ba năm triều cống một lần, chín năm triều bái một lần. Hai nước này còn nhận lệnh của Phù Kiên, dẫn đường cho Trưởng sử Tây vực Lữ Quang soái lĩnh bảy vạn năm ngàn binh đi đánh các quốc gia Tây vực khác.

Nhưng không lâu sau, Tiền Tần bại về tay Đông Tấn, mọi thứ đều sụp đổ. Tây vực cũng chịu ảnh hưởng lớn, trở nên vô cùng hỗn loạn.

Lúc ấy, một viên tướng trẻ nước Thiện Thiện quyết tâm đánh chiếm Lâu Lan vốn đã bị kẻ thống trị Trung Nguyên chiếm cứ trong một thời gian dài. Lâu Lan là thành ấp của tổ tiên, lý ra phải thuộc về Thiện Thiện. Chàng quyết định nhân thế cuộc hỗn loạn, đoạt lại Lâu Lan từ tay tướng lĩnh đã vong quốc của Tiền Tần.

Vị tướng trẻ nhận lệnh mang năm trăm thân binh tiến về Đôn Hoàng, nhưng giữa đường lại đổi hướng sang Lâu Lan. Trừ người chỉ huy, năm trăm bộ hạ không ai biết Lâu Lan có quan hệ với mình như thế nào.

Đoàn quân đi liên tục cả ngày lẫn đêm trong sa mạc, đến cách Lâu Lan còn hơn nửa ngày đường nữa, tối đó mới dừng lại nghỉ ngơi, chỉnh đốn quân ngũ. Sáng sớm  hôm sau trước khi tiến binh vào Lâu Lan, vị tướng cho thuộc hạ biết nhiệm vụ của họ là đoạt lại Lâu Lan từ tay quân giữ thành giờ đã trở nên yếu thế, đồng thời giải thích quan hệ mật thiết giữa Lâu Lan và Thiện Thiện. Binh sĩ Thiện Thiện thường ngày rất tôn kính nhân phẩm và khâm phục uy dũng của người chỉ huy, nên không ai phản kháng. Họ cảm thấy phấn chấn vì mình có cơ hội tự tay giành lại thành ấp của tổ tiên, đồng thời tin chắc rằng nguyện vọng này sẽ trở thành hiện thực dưới sự dẫn dắt của vị tướng tài ba.

Ngày hôm đó, khi đội quân xuất phát, gió rất lớn, lúc tới gần tường thành cổ, gió càng dữ dội. Dưới hiệu lệnh của tướng quân trẻ tuổi, binh sĩ Thiện Thiện tiến từng bước một cách khó khăn giữa cát bụi ngập trời dậy đất, người ngựa cùng xuyên qua cuồng phong để tiến về phía trước, cuối cùng cũng nhìn thấy được vọng lâu và tường thành màu khói hùng vĩ ẩn hiện giữa màn cát bụi.

Vị tướng trẻ dẫn đầu đoàn quân, chém chết ba lính canh gác trước cổng thành. Toàn quân thừa thế xông thẳng vào thành, mở cuộc chém giết. Họ không biết có bao nhiêu lính giữ thành, nhưng quân địch đông hơn rất nhiều so với dự tính. Quân tiến vào chia thành mấy ngả, mỗi ngả đều giữ cho không được phân tán. Hai bên triển khai những trận đánh ác liệt trên pháo đài, đài bắn tên và các con đường trong thành ấp.

Màn đêm rơi xuống, những binh sĩ đang chiến đấu ác liệt phát hiện ra trời tối quá sớm. Gió ngừng thổi. Một phần ba binh sĩ Thiện Thiện đã ngã xuống, còn số binh sĩ thương vong trong thành gấp đôi quân binh Thiện Thiện.

Đến khi mờ sáng, cuộc chiến cuối cùng đã phân thắng bại. Tàn dư của đội quân giữ thành nhân lúc trời còn tối đã tháo chạy. Khi trời sáng hẳn, trong thành không còn bóng địch. Binh sĩ Thiện Thiện đi tuần tra trong tòa thành đầy thi thể, giống như những kẻ xâm phạm kia đã đánh chiếm nhà cửa đất đai của họ, đồng thời cũng là để rảo khắp các nhà, tìm tài sản.

Vị tướng trẻ tuổi cùng thuộc hạ bước lên vọng lâu, mảnh đất mà tổ tiên họ đã sống cách đây sáu trăm năm mở ra trước mắt, một vùng hoang vu lạnh lẽo. Ngoài thành là biển cát trải dài vô tận, vô số đồi cát nhỏ nối tiếp nhau, giống như những ngọn sóng bạc đầu nhấp nhô trên biển. Gió dịu hơn ngày hôm trước, nhưng vẫn cuốn theo cát trắng từ đồi cát bay thẳng lên không trung, tựa một tấm vải mỏng phất phơ theo gió hướng từ bắc về nam.

Vị tướng trẻ tuổi thầm nghĩ, không có sông hồ, tổ tiên mình sao có thể sống ở đây được! Khi nhìn thấy hướng đông bắc phía xa xa có một rừng cây, chàng thầm nghĩ, biết đâu phía ấy có một hồ nhỏ.

Thuộc hạ của chàng mang thi thể trong thành ném vào sa mạc, một người quay lại bẩm báo rằng trong rừng cây phát hiện một hồ nhỏ và dài như lưỡi dao, nước hồ xuất hiện dòng chảy, giống như đang đổ vào hồ lớn. Vị tướng gọi các binh sĩ cùng đi xem sao, chàng chắc mẩm quân địch sẽ không gọi thêm quân cứu viện đến tập kích, nên rất thong thả. Mặt hồ nhỏ, dài, nước trong vắt nhìn thấy đáy. Dòng nước như từ  rừng sâu chảy về, không sâu lắm, từ từ vươn ra phía trước. Mặt hồ càng lúc càng rộng, có thể thấy chim chóc tụ tập thành đàn.

Binh lính Thiện Thiện quay trở lại thành, bày những ly rượu vừa tìm được ra để uống mừng thắng lợi. Mặt trời nhanh chóng ngả về tây, người Thiện Thiện chưa từng thấy cảnh mặt trời lặn đẹp đến như thế, ráng chiều rực rỡ đầy những sắc màu.

Một binh sĩ nói thấy mặt trời lặn thế này là điềm không tốt, chủ trương lập tức thu binh. Vị tướng trẻ cũng có cảm giác không bình thường, nhưng vẫn nán lại một đêm trong thành.

Sáng sớm hôm sau, binh sĩ Thiện Thiện nghe thấy âm thanh kỳ quái chưa bao giờ nghe, cuộn trong tiếng gió gào, nhưng hiển nhiên không phải là tiếng gió.

Vị tướng trẻ lệnh cho một binh sĩ lên vọng lâu xem thử. Đúng lúc ấy, một mũi tên bay tới, cắm vào tường, rồi rơi xuống lớp đá trên mặt đất. Là một mũi tên rất dài. Tiếp đó, vô số mũi tên từ xa không rõ hướng nào phóng đến tòa thành, bị gió thổi bạt đi, rơi đầy trên mặt đất.

Binh sĩ trên vọng lâu báo cáo, cát bụi che lấp cả mặt trời, trời đất mù mịt, không thấy gì cả. Vị tướng đích thân lên xem. Bên ngoài thành quả nhiên đúng như thế.

Lúc này, trời đất như bỗng có màn đêm ập xuống, gió gào thét liên hồi, trong gió truyền đến một thứ thanh âm, đó chính là tiếng sóng giận dữ của hồ La Bố. Ban ngày nếu họ tiếp tục tiến tới thêm chút nữa thì chắc đã có thể thấy hồ La Bố.

Vị tướng bước xuống vọng lâu. Mặt đất đầy tên, tiếng kêu gào kỳ quái mỗi lúc một gần. Chàng gọi quân lính tụ tập lại với nhau, xông thẳng về phía cổng thành, vì nếu số lượng quân địch quá đông đảo, thì việc khai chiến trong thành sẽ rất bất lợi. Quân Thiện Thiện ồ ạt đổ ra cổng thành, đụng phải một đội quân trang phục kỳ lạ từ ngoài thành đánh vào. Kẻ địch tay cầm đại đao bổ tới, binh sĩ Thiện Thiện dùng giáo  dài nghênh chiến, hai bên nhảy vào tàn sát nhau.

Lúc này, cát đổ như thác từ trời xuống, chui vào khe quần áo, khiến người ta không mở mắt ra được. Hai bên không thể không tạm ngừng cuộc chiến.

Tiếng gió mỗi lúc một lớn hơn, mưa bão cát mỗi lúc một khốc liệt. Chỉ thấy trời đất tối sầm, hai bên giao tranh không phân biệt nổi đâu là quân ta, đâu là quân địch.

Vị tướng trẻ dẫn đầu mấy thuộc hạ xông ra khỏi thành, mưa cát bên ngoài còn mãnh liệt hơn bên trong, mỗi bước đều cực kỳ khó khăn. Binh sĩ Thiện Thiện từng người một ra khỏi cổng, nép vào chân tường thành, nơi đó cũng là chỗ náu mình của vô số quân địch đang tiến thoái lưỡng nan. Bấy giờ, cuồng phong kêu gào, ba đào gầm thét, mấy trăm chiến mã và lạc đà rống lên những tiếng kêu thảm thiết.

Bão cát thổi liền ba ngày ba đêm. Người, ngựa, lạc đà đều bị vùi trong cát. Tường thành cũng bị cát bụi vùi lấp mất một nửa.

Cuộc chiến bắt đầu một cách li kỳ, kết thúc một cách kỳ quái. Người Thiện Thiện và kẻ xâm phạm lạ lùng suốt ba ngày cuối vẫn tiếp tục đánh nhau trong cát.

Chiều ngày thứ tư, cuồng phong dần yếu đi, vị tướng trẻ bỏ lại mấy mươi binh sĩ bị vùi trong cát, rời khỏi thành Lâu Lan. Kẻ ngoại tộc xâm phạm kia cũng bị bão cát đoạt mất vài phần binh lực, cuối cùng rút khỏi toà thành nhỏ trên sa mạc.

Người Thiện Thiện mất ngựa, đành phải đi bộ quay về. Lúc họ rời tòa thành, giữa sa mạc vẫn đang cuộn lên mấy trăm vòi rồng bằng cát cao chót vót như những cây cổ thụ, đến xế chiều mới dần bớt đi.

Sau đó vài ngày, người Thiện Thiện lại tiếp tục gặp phải những hiện tượng quái dị trên sa mạc. Họ lúc thì nghe thấy tiếng người nói huyên náo, lúc lại nghe thấy tiếng hí vang của vô vàn con ngựa, trước mắt nhiều lần xuất hiện cánh rừng nhỏ nước chảy róc rách, nhưng đi thế nào cũng không tới được, cảnh tượng trước mắt cứ thế hiện ra rồi mất đi.

Một tháng sau, vị tướng trẻ dẫn theo một phần ba số quân ban đầu quay về Thiện Thiện. Họ không biết kẻ địch kỳ quái đến từ đâu, cho nên họ cho rằng đó là yêu ma sa mạc tác oai tác quái. Vị tướng trẻ đến chết cũng không biết rằng, những kẻ xâm phạm kia thực ra là quân đội của tộc Nhu Nhiên xưng hùng xưng bá ở phương bắc.

Hai năm sau, vị tướng trẻ này của Thiện Thiện lại cùng thuộc hạ đến Lâu Lan lần nữa. Thành Lâu Lan lúc này đã hoàn toàn bị vùi trong cát, chỉ lộ ra một chút vọng lâu. Họ lại đi vào rừng tìm cái hồ dài và hẹp như một thanh đao, nhưng không thấy đâu nữa, chỉ có một con đường cát trắng dài vươn mãi ra như một dải thắt lưng. Hồ La Bố không còn tung tích, Lâu Lan hoàn toàn chìm khuất trong sa mạc.

Khoảng sáu mươi năm sau đó, năm Nguyên Gia thứ hai mươi hai (năm 445 Công nguyên), Thiện Thiện và thế lực thống trị Trung Nguyên lúc bấy giờ là Thái Vũ Đế của nhà Ngụy đối chọi nhau. Thiện Thiện bị binh Lương Châu của Thái Vũ đế đánh bại, vua Thiện Thiện đầu hàng. Từ đó Thiện Thiện trở thành quận huyện của nhà Ngụy, không còn là một quốc gia nữa. Đến đây, hồ La Bố, Lâu Lan, Thiện Thiện đều lần lượt biến mất trong lịch sử.

 

5.

Năm Long An thứ ba (năm 399 Công nguyên), cao tăng Pháp Hiển và mấy chục tăng nhân từ Trường An xuất phát đi tới Ấn Độ để học tiếng Phạn. Trong bút ký du hành lúc bấy giờ có ghi chép rằng:

“Ra khỏi Ngọc Môn quan, vượt qua dòng sông cát, trong Sa hà có nhiều ác quỷ ác phong. Người gặp phải những thứ đó đều chết cả, không ai toàn mạng quay về. Trên không có chim bay, dưới không có thú chạy, nhìn khắp nơi hút tầm mắt để tìm một chỗ đi qua nhưng không biết nơi đâu. Chỉ có những đầu lâu người chết khô làm mốc chỉ dẫn mà thôi.”

Tuy không thể phán đoán chuẩn xác rằng nơi Pháp Hiển đi qua chính là sa mạc đã chôn vùi thành Lâu Lan, hay nơi trước kia đã từng là bờ hồ La Bố, nhưng có thể khẳng định rằng, ông đã đi qua vùng có thành Lâu Lan thuở trước.

Đến đời Đường, Huyền Trang (Tam Tạng) phụng mệnh Thái Tông vượt qua muôn vàn gian khổ đến Ấn Độ thỉnh kinh quay về được Trường An, giữa đường từng qua Lâu Lan. Trong Đại Đường Tây vực ký có ghi lại một đoạn ngắn như sau:

“Đi hơn bốn trăm dặm đến nơi trước kia từng là nước Đỗ La. Nước đã bỏ không, thành trì hoang vu. Từ đây đi về phía đông hơn sáu trăm dặm đến nơi trước kia từng là nước Chiết Ma Đà Na, tức đất Niết Mạt. Thành quách còn đây, nhưng chẳng có bóng người. Lại từ đây đi hơn ngàn dặm về phía đông bắc đến nơi trước kia là nước Nạp Phó Ba, tức đất Lâu Lan.”

Huyền Trang nhìn thấy trong sa mạc có hai tòa thành bỏ không, nhưng không có bất cứ ghi chép nào về Lâu Lan. Có lẽ thành Lâu Lan đã bị vùi sâu trong cát, bốn bề chỉ có sa mạc hoang vu trải dài vô tận. Lúc bấy giờ là năm 645 Công nguyên, cách nay đã hơn một ngàn năm lịch sử.

Mãi đến thế kỷ XX, Lâu Lan mới tỉnh lại từ trong một giấc ngủ dài, một lần nữa bước lên vũ đài lịch sử thế giới.

Trong thời kỳ ấy, màu sắc của khu vực này trên bản đồ thế giới đã nhiều lần biến đổi, chỉ có vùng đất nhỏ Lâu Lan say ngủ không ai biết tới, cũng chẳng ai dám bước vào đại mạc hoang vu rộng lớn không hề có dấu vết của sự sống.

Thế kỷ XX, nhà thám hiểm người Thụy Điển Sven Hedin khiến cho cổ thành ngàn năm Lâu Lan bị vùi lấp trong hoang mạc lại thấy được ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, các học giả đã phải trải qua rất nhiều cuộc tranh luận mới xác định được vị trí di tích Lâu Lan. Họ buộc phải đồng thời giải quyết vấn đề bí mật hồ La Bố, mặt hồ từng lăn tăn gợn những ngọn sóng xanh như ngọc bích, giờ lại không hề tìm ra tung tích.

Chính như người Lâu Lan cho rằng không có hồ La Bố thì không có thành Lâu Lan, các học giả thế kỷ XX cũng không thể tách rời hai vấn đề này để khảo chứng. Nếu di tích mà nhà thám hiểm Thụy Điển Sven Hedin phát hiện ra đích thực là Lâu Lan, thì ở gần đó phải có hồ La Bố. Hồ La Bố rốt cuộc đã đi đâu? Các học giả buộc phải tìm cho ra hồ La Bố trong số rất nhiều hồ giữa sa mạc, cho dù chỉ là một vết tích nhỏ. Ngoài ra, còn phải giải được bí mật vì sao hồ La Bố lại thay đổi vị trí của mình.

Cuối cùng, giới học thuật nhận định, nơi mà Sven Hedin phát hiện ra chính là di tích Lâu Lan, còn hồ La Bố dịch chuyển theo hướng nam bắc theo chu kỳ một ngàn năm trăm năm – dưới tác động của bùn cát tích lũy trong quá trình sông Tháp Lý Mộc chảy vào hồ La Bố cũng như dưới tác động của gió lớn khiến dòng chảy của sông thay đổi, hồ La Bố cứ một ngàn năm trăm năm một lần sẽ di chuyển từ bắc xuống nam, rồi một ngàn năm trăm năm sau lại di chuyển từ nam lên bắc.

Năm 1927 Công nguyên, Sven Hedin năm sáu mươi hai tuổi tổ chức một đội thám hiểm với sự tham gia của nhiều chuyên gia, thực hiện cuộc thám hiểm khảo sát Tây vực quy mô lớn lần thứ tư. Tên chính thức của đội thám hiểm này là Đoàn nghiên cứu khoa học Tây Bắc, thành phần chủ yếu có mười tám người Đức và người Thụy Điển, mười người Trung Quốc, còn thêm lái xe, đầu bếp thuê tại địa phương và nhân viên tùy tùng.

Sven Hedin quay lại thăm di tích Lâu Lan lần nữa trong lần thám hiểm lần thứ tư này. Một hôm, ông đi men theo một con sông trong sa mạc, đó là một trong những nhánh của dòng sông mà bốn thế kỷ trước đã từng chảy. Khi người Lâu Lan còn sống ở đây, con sông từng cung cấp lượng nước dồi dào, sau đó một thời gian dài dòng chảy trở nên cạn khô. Hiện tại, nhà thám hiểm phát hiện ra dòng sông đã lại bắt đầu có nước. Hồ La Bố dịch chuyển, Lâu Lan trở thành kinh đô bỏ hoang giữa sa mạc và bị lãng quên, cuối cùng bị chôn vùi trong cát. Ngày nay, dòng chảy của sông lại xuất hiện trên di tích Lâu Lan, mấy nhánh khô cạn từ bao đời lại bắt đầu có nước, thực vật cũng theo đó mà hồi sinh. Có thể tưởng tượng, mấy mươi dòng sông cát đã cạn khô rồi cũng sẽ chảy trở lại, và vô số sinh mệnh cũng sẽ quay trở lại cùng với nước.

Ngày hôm đó, Sven Hedin phát hiện hai cỗ quan tài trong sa mạc, một ở trên núi, một ở chân núi cách đó một quãng. Sven Hedin đã miêu tả một cách hết sức tường tận về một trong hai cỗ quan tài này trong trước tác của ông:

“Hai thuyền phu có đôi mắt như mắt chim ưng đã phát hiện ra trên đỉnh cao (vùng nền đất do vật trầm tích sau khi bị xâm thực bồi đắp vào mà hình thành) có một ngôi mộ, nằm tại góc phía đông trên phần nền đất nhỏ cạnh nền đất lớn.

Chúng tôi đi ngang qua phần mộ bị gió cát xâm thực, tới nơi hoang vắng có thể dừng lại nghỉ chân. Thấy thuyền đã không còn có thể tiến thêm được nữa, tôi bèn bảo mọi người dựng lều ở phía tây nam ngôi mộ số hai, nhưng tất cả đều muốn đi xem xét cùng tôi, nên không thể từ chối được.

Nền đất nhỏ trải dọc theo chiều từ đông bắc đến tây nam, dài bốn mươi mốt foot[4], rộng hai mươi foot, phần đỉnh cách mặt nước hai mươi chín foot, cách vùng đất xung quanh hai mươi bốn foot. Từ trên nền đất lớn nhìn ra là thấy ngay nơi đây có một phần mộ, vì những nơi khác đều trống trơn, chỉ chỗ này có một cây sanh liễu khô, càng nhìn càng thấy không giống với bất kỳ cái gì khác.

Cây sanh liễu khô này dường như đang mời gọi chúng tôi đào xuống phía dưới. Mọi người lập tức bắt tay vào việc. Tuy nhiên, phần đất kết lại thành nền cứng như đá, đang hình thành bàn thạch. Thế là có người quay về bên bờ tìm rìu, bổ được chỗ cứng rắn nhất ra. Mộ huyệt hình chữ nhật, nằm ở bờ nghiêng hướng tây bắc của nền đất, phía trên cách tầng đất bồi của bờ nghiêng một foot, đào xuống dưới khoảng hai foot. Đào đến hai foot ba inch[5] thì đụng phải nắp quan tài. Mọi người dùng rìu trước, sau đó dùng cuốc để cuốc những khối đất lên. Nắp quan tài được làm từ một phiến gỗ dài năm foot mười một inch, bảo tồn hoàn hảo. Phiến gỗ phần đầu rộng một foot tám inch, phiến gỗ chân rộng một foot năm inch rưỡi, gỗ dày một inch rưỡi. Phần đầu hướng về phía đông bắc.

Tuy phần nắp đã hoàn toàn lộ ra, nhưng quan tài và đất sét vẫn dính chặt lại với nhau không tách ra được, chúng tôi phải đào cho phần mộ huyệt rộng ra mới có thể mang quan tài lên khỏi mặt đất, thế là mọi người quyết định đào toàn bộ phần vách đất phía tây bắc. Đây là một công việc rất tốn thời gian và công sức, mọi người rồi cũng vượt qua được chướng ngại cuối cùng, cẩn thận từng chút một để nhấc quan tài lên đặt trên nền đất.

Quan tài có hình dạng đặc trưng của khu vực nhiều nước, giống như một con thuyền độc mộc thường thấy, được đóng từ một khối gỗ thẳng, bị cưa đi phần đầu thuyền và những mái chèo.

Hai tấm gỗ làm thành nắp quan tài đã bị gỡ ra ngay khi còn chưa san hết bùn đất. Chúng tôi không thể chờ thêm phút nào, muốn lập tức nhìn thấy người đã khuất trong giấc ngủ dài, nhưng thứ chúng tôi nhìn thấy đầu tiên không phải thi thể, mà là một tấm khăn trùm bọc từ đầu đến chân. Tấm khăn trùm vô cùng mỏng manh yếu ớt, tay vừa chạm vào lập tức tan ngay thành bụi. Chúng tôi mở phần khăn quấn đầu ra, và nhìn thấy người thống trị sa mạc xinh đẹp tuyệt trần: nữ vương của Lâu Lan và hồ La Bố.

Năm ấy, vị vương phi trẻ tuổi này đột nhiên tạ thế, những người yêu mến nàng đã mặc cho nàng tấm áo đặc biệt dành cho người quá cố, rồi chôn nàng trên ngọn núi yên tĩnh này. Nàng đã lặng lẽ an nghỉ được gần hai ngàn năm, mãi đến khi những kẻ hậu thế từ phương xa đến làm nàng tỉnh giấc.

Lớp da trên mặt nàng cứng lại giống như giấy da dê, ngũ quan và những đường nét trên gương mặt hoàn toàn không bị biến đổi trong chừng ấy thời gian. Nàng nhắm mắt, hốc mắt dường như không bị trũng xuống. Trên môi nàng vẫn giữ nguyên nụ cười mỉm chưa từng mất đi qua nhiều thế kỷ. Những điều thần bí này khiến cho nàng làm người ta vô cùng xúc động.

Thế nhưng, nàng không thổ lộ cho chúng tôi biết bí mật quá khứ: cuộc sống đầy màu sắc của Lâu Lan, vẻ đẹp mơn mởn ven hồ La Bố, những ký ức trên hành trình của những con thuyền nhỏ và những chiếc thuyền độc mộc.

Nàng nhất định đã từng thấy quân đội Lâu Lan ra khỏi thành nghênh chiến cùng Hung Nô và các man tộc khác, đã từng thấy những chiến xa chất đầy cung tên và vũ khí, từng thấy những toán thương buôn Lâu Lan hoặc những toán thương buôn dừng chân lại tại Lâu Lan, từng thấy vô số lạc đà chất đầy vải vóc tơ lụa quý giá của Trung nguyên đi về phía tây theo “con đường tơ lụa”. Nàng nhất định đã từng yêu, và từng được yêu, cũng có thể chính vì bi kịch tình yêu mà phải chết. Tuy nhiên, tất cả đều không thể nào biết được nữa. Phía cạnh trong quan tài dài năm foot bảy inch. Nữ vương xinh đẹp mà người đời không biết tới này là một người con gái có thân hình nhỏ nhắn, cao khoảng năm foot hai inch.

Dưới ánh mặt trời chiều, chúng tôi bắt đầu khảo sát y phục an táng của nàng. Đầu nàng đội một chiếc mũ vải, được thắt lại bằng một dải khăn đơn giản. Tấm vải đắp trên người nàng hình như là vải bố. Nàng mặc hai lớp lụa vàng, ngực đắp một mảnh lụa hình vuông thêu hoa đỏ, bên trong là một chiếc áo lót bằng sợi gai. Phần dưới thân thể nàng được bao bọc bằng tơ lụa, phía dưới là vải lụa vàng và vải gai, bên trong là váy ngắn màu trắng, trong cùng là váy mỏng và quần dài. Chân nàng đi hài lụa. Thắt lưng của nàng được thắt sát vào da thịt.

Chúng tôi lấy từ mỗi lớp trang phục của nàng một miếng nhỏ để làm vật mẫu, riêng mũ và giày thì lấy đi, còn lấy cả một bao đựng tiền có hoa văn tinh xảo. Ở góc phía ngoài quan tài phần sát với đầu, chúng tôi phát hiện một chiếc bàn nhỏ hình vuông và một chiếc bát gỗ màu đỏ, còn có một bộ hài cốt dê hoàn chỉnh. Đây chắc là những gì người ta chuẩn bị cho nàng để sang thế giới bên kia.”

Chúng ta không thể nào khảo chứng được, trong quan tài gỗ mà Sven Hedin khai quật lên kia có phải là vị hoàng phi trẻ tuổi đã tự tận vào ngày người Lâu Lan chuẩn bị bỏ thành để dời đi hay không. Cái chết của nàng vốn là một bí mật, chúng ta không cần phải quá đi sâu nghiên cứu làm gì. Suốt một ngàn năm trăm năm vùi chôn trong sa mạc, Lâu Lan và hồ La Bố cùng biến mất, không ai biết đang ở đâu. Hiện tại, sau những nỗ lực của các học giả, hai câu đố lớn này cuối cùng cũng được giải, vậy đã quá đủ rồi.

Ngày nay, hồ La Bố đang dần quay trở lại đất cũ Lâu Lan. Từ khi di tích Lâu Lan do Sven Hedin phát hiện ra tới nay đã quá nửa thế kỷ. Trong thời gian này, hồ La Bố không ngừng di chuyển về phía Lâu Lan. Ngay bây giờ, nó cũng đang dịch chuyển. Để hồ La Bố cuối cùng quay về được với Lâu Lan, chắc còn phải thêm vài mươi năm nữa, nhưng việc nó đang quay về là sự thực. Thần linh Hà Long của người Lâu Lan chắc cũng đang trên đường trở về. Mà không, có lẽ Hà Long đã về tới Lâu Lan.

 

(Phần trích dẫn Sven Hedin trong truyện này lấy từ tác phẩm The Wandering Lake )

[1]

(日)井上靖 著,赵峻 译. (2013). 楼兰.北京十月文艺出版.

(Nhật), Inoue Yasushi, Triệu Tuấn dịch. (2013). Lâu Lan. Nxb Văn nghệ tháng 10 Bắc Kinh.

[2]   Bạch Long Đôi: vùng sa mạc địa chất với những đồi cát nhỏ bị gió xâm thực, là một trong những cảnh quan nổi tiếng thuộc vùng hồ La Bố.

[3]   Hành lang Hà Tây (The Hexi Corridor) : khu vực từ Hoàng hà về phía tây, cũng là con đường từ Trung nguyên vào Tây vực, thuộc tỉnh Cam Túc của Trung Quốc ngày nay.

[4]   Đơn vị foot quốc tế được định nghĩa là bằng với 0,3048 mét (tương đương với 304,8 milimét).

[5]   Đơn vị inch quốc tế được định nghĩa chính xác bằng 25,4 milimét.

Film studies Zhao Wei

TAI CỤP (hay câu chuyện về nghệ thuật và thị trường trong phim Trung Quốc)

“Diễn viên mời vào chỗ” (演员请就位 Diễn viên thỉnh tựu vị) là một chương trình tạp kỹ ăn khách của Trung Quốc đại lục, được tổ chức lần đầu năm 2019, rồi thừa thắng xông lên lần thứ hai năm 2020. Chương trình mời bốn vị đạo diễn ngồi vào ghế nóng để đánh giá diễn xuất của các diễn viên khi tái hiện các phân đoạn phim điện ảnh và truyền hình kinh điển, lựa chọn nhóm diễn viên thực lực tham gia vào phim ngắn của bốn đạo diễn này, từ đó tìm ra “diễn viên xuất sắc” chung cuộc. Mùa thứ nhất đánh dấu sự góp mặt của đạo diễn Trần Khải Ca, nữ đạo diễn Lý Thiếu Hồng, diễn viên kiêm đạo diễn Triệu Vy và đạo diễn – nhà văn Quách Kính Minh. Mùa thứ hai, Lý Thiếu Hồng rút lui, thay vào đó là đạo diễn Hong Kong nổi tiếng Nhĩ Đông Thăng.
Qua hai mùa liên tiếp, chương trình đã thể hiện một số điểm đáng lưu ý như sau:
Thứ nhất, tiềm lực về điện ảnh và truyền hình của Trung Quốc là đáng nể, vì họ có một kho phim ảnh cực kỳ phong phú; một đội ngũ biên kịch, diễn viên và chuyên gia hùng hậu; một thị trường lớn thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà đầu tư; một lượng khán giả đông đảo. Qua 2 mùa tạp kỹ, số lượng phim Trung Quốc được tái hiện qua diễn xuất của diễn viên và khả năng “remake” của đạo diễn lên đến gần 90 bộ. Số lượng diễn viên tham gia vào show diễn hai mùa lên tới 100 người, trong đó có nhiều diễn viên trẻ mới vào nghề, đồng thời cũng nhiều diễn viên đã có tiếng tăm ở cả Trung Quốc Đại lục lẫn Hong Kong, Đài Loan, như Minh Đạo, Chung Hân Đồng, Hồ Hạnh Nhi, Huỳnh Dịch, v.v…
Thứ hai, ngành giải trí Trung Quốc hiện tại cố gắng tạo thế cân bằng giữa nghệ thuật và thương mại, dù cán cân đôi lúc vẫn nghiêng về thương mại. Chẳng hạn Quách Kính Minh từng nhận về rất nhiều lời phê bình tiêu cực, nhưng anh vẫn là tác giả tiểu thuyết ăn khách, và việc lấn sân sang lĩnh vực truyền hình với thành công đầy tranh cãi khiến anh trở thành gương mặt “thị phi” có sức hấp dẫn, nên được đặt cạnh Trần Khải Ca như một đối trọng. Hay như mùa thứ hai, chương trình đưa ra tiêu chí xếp hạng “vị trí thị trường” của diễn viên tham gia, dẫn đến kết quả nhiều diễn viên kỳ cựu từng đoạt giải thưởng lớn song mới vắng bóng vài năm đã bị xếp vào hạng B, trong khi các diễn viên trẻ mới nổi lại dễ dàng được liệt vào hạng A, thậm chí cao hơn, hạng S (super), như Trương Nguyệt, diễn viên trẻ đang nổi như cồn nhờ vai diễn “tiểu tam trà xanh” Lâm Hữu Hữu của phim truyền hình Ba mươi thôi mà (2020). Mối quan hệ giữa “thực lực” và “lưu lượng” (sức hút đối với số đông) trở thành vấn đề nóng không ngừng được thảo luận công khai. Bản thân chương trình cũng đã trao hai giải song song là diễn viên được yêu thích nhất (đại diện cho lưu lượng) và diễn viên xuất sắc nhất (đại diện cho thực lực). Dầu vậy, Trương Triết Hãn sau khi đoạt giải diễn viên được yêu thích nhất mùa giải đầu tiên đã nhanh chóng gia nhập đoàn phim Sơn Hà Lệnh, bộ phim truyền hình đình đám năm 2021, còn Ngưu Tuấn Phong với thành tích diễn viên xuất sắc nhất vẫn chưa gặp cơ hội xứng đáng.
Thứ ba, mặc dù chương trình bắt các đạo diễn “chạy deadline” không ngơi nghỉ để lên sóng mỗi tuần, đỉnh điểm có những lúc đạo diễn phải hoàn thành 1 phim ngắn trong 1 ngày rưỡi (để còn thời gian xử lý hậu kỳ), khiến chất lượng phim chưa thật lý tưởng, nhưng nhiều sáng tạo trình làng hai mùa này vẫn được ghi nhận. Trong số đó, phim ngắn Tai Cụp (折耳/ Ocean) của Triệu Vy là điểm sáng đáng ngạc nhiên.
Câu chuyện kể về cặp chị em song sinh nương tựa lẫn nhau sau khi cha mẹ mất. Cậu em Tống Tiểu Hải cao lớn, đẹp trai, sau nhiều năm chỉ diễn vai phụ, một hôm bất ngờ được giao vai chính Dương Quá trong bản mới của Thần điêu hiệp lữ. Cậu như sống trong mơ, mỗi ngày đều cố gắng trau dồi diễn xuất, trải nghiệm nhân vật bằng cách giấu tay trái đi, chỉ sử dụng tay phải, chăm chỉ ra biển luyện “Ám Nhiên Tiêu Hồn Chưởng”. Trong khi đó, cô chị Tiểu Dương vừa mập vừa lùn, là nhân viên ngân hàng. Ngày ngày, cậu em đọc sách luyện võ, cô chị ngồi ôm xấp tiền giả tập đếm và tính xem hôm nay ăn gì. Hai chị em là hai hình ảnh tương phản một trời một vực, giống như câu chuyện mà Hải từng kể để trêu chọc Dương khi cô chị than thở sao chẳng được di truyền một nét đẹp nào của cha: “Bạn em nuôi một con mèo đực giống Mỹ đẹp mã và một con mèo cái giống Scotland tai cụp mặt đần, sinh hai con mèo con, tưởng phải ra mèo lai, không ngờ lại tiếp tục là một con đực đẹp mã và một con cái tai cụp mặt đần…”
Cho đến một hôm, Hải vỡ mộng khi biết vai diễn Dương Quá dành cho cậu chỉ là lời đạo diễn nói lúc say rượu. Cậu trở về với con số không, đau khổ và nghi ngờ khả năng lẫn con đường phía trước của chính mình. Phân đoạn xúc động nhất phim rơi vào lúc hai chị em ngồi đối diện với chủ quán ăn, Dương nói: Tôi có câu chuyện này muốn kể anh nghe, vì sao tôi biết thằng em mơ mộng hão huyền mà vẫn cứ để nó mơ mãi, bởi phút lâm chung, mẹ tôi bảo điều duy nhất khiến mẹ hối hận, là chưa từng để cha tôi sống như ông hằng mơ ước; mẹ nhắn nhủ rằng con là chị, dù lớn hơn nó 9 giây cũng là chị, sau này em muốn làm gì hãy ủng hộ, chớ gạt ngang, như vậy con không hối hận, nó cũng chẳng có gì nuối tiếc.
Hải tiễn Dương ra bến xe, Dương dúi vào tay em một gói tiền, bảo tiền giả đấy, tập đếm đi. Dương qua cửa kiểm soát, quay lại nhìn Hải, pha trò giả làm mèo tai cụp, cười thật tươi rồi rời khỏi. Trên đường về nhà, Hải mở gói tiền, hóa ra là tiền thật, do Dương mấy năm liền đoạt giải các cuộc thi đếm tiền nhanh tích cóp được, cùng với lời nhắn: cứ tiêu đi, bao giờ thành danh, giàu rồi trả chị, đã mất công theo đuổi thì chớ dễ dàng bỏ cuộc!
Bộ phim giản dị, mà vừa khéo thể hiện được mâu thuẫn nội tại trong xã hội Trung Quốc, và tâm hồn con người. Người nghĩ mình đang cống hiến cho nghệ thuật thường cảm thấy kẻ chỉ chăm chăm kiếm tiền thật thô lậu trần tục, ngược lại người chú trọng kinh tế trước mắt lại cho rằng đam mê nghệ thuật là nực cười viển vông. Nếu cứ co cụm trong suy nghĩ hạn hẹp của bản thân, có khác chi hình ảnh Dương Quá mất một tay, cánh tay còn lại dù thần thông quảng đại đến đâu cũng khó giúp cơ thể cân bằng. Chỉ khi nào nghệ thuật và thị trường có thể ngồi lại cố gắng hiểu lòng nhau, như hình ảnh hai chị em sinh đôi ngồi trên cát cuối phim, thì ta mới bất ngờ nhận ra rằng, họ tuy hai mà một. Hải và Dương hợp lại chính là biển lớn của đời này, và đó cũng là lý do bộ phim lấy tên tiếng Anh Ocean.
Trong hai mùa giải, Triệu Vy được biết đến như một đạo diễn nhạy cảm với chất liệu đời sống và hơi thở thời đại, đồng thời không đặt nặng vấn đề ngoại hình hay tuổi tác của diễn viên. Tương lai của điện ảnh Trung Quốc có lẽ cũng đến lúc đặt vào tay một thế hệ đạo diễn trẻ trung hơn, thế hệ không ngừng tìm kiếm cho mình một điểm cân bằng giữa cuộc đời và nghệ thuật.
P.T.V
Link phim ngắn Tai cụp để tham khảo:
Film studies Văn học & Điện ảnh Văn học Nhật Bản

The Warrior and the Wolf – LANG TAI KÝ (Phan Thu Vân dịch từ bản tiếng Trung)

https://www.youtube.com/watch?v=VjHRPCABYik

LANG TAI KÝ

(CHIẾN BINH VÀ SÓI)1

Tần Thủy Hoàng năm thứ ba mươi hai (năm 215 trước Công nguyên), tướng quân Mông Điềm dẫn ba mươi vạn đại quân đi thảo phạt Hung Nô ở phương bắc.

Đây là lần đối địch đầu tiên giữa nước Tần thống nhất được lãnh thổ Trung Quốc với dân tộc du mục phương bắc hùng mạnh. Mông Điềm tả xung hữu đột đánh phá quân Hung Nô ở khắp nơi, cuối cùng thu về được địa phận Ngạc Nhĩ Đa Tư ( tức vùng Ordos) thuộc khu vực Hà Sáo đã bị Hung Nô vượt rào chiếm giữ nhiều năm. Tại đây, Mông Điềm cho thiết lập chế độ quận huyện, tạo căn cứ ở Thượng quận (tức huyện Tuy Đức tỉnh Thiểm Tây), cai trị toàn bộ quân đội trấn giữ phòng thủ biên giới.

Tiếp đó, Mông Điềm phụ trách công trình xây dựng tu sửa Trường thành dài hàng vạn dặm từ quận Lâm Thao (huyện Lâm Chương tỉnh Cam Túc) đến quận Liêu Đông, đào núi lấp vực, sửa sang đường lớn, bố trí tinh binh ở những nơi xung yếu. Con trưởng của Tần Thủy Hoàng là Phù Tô làm giám quân tại Thượng quận, hiệp lực cùng Mông Điềm thảo phạt Hung Nô. Nhờ vậy, Hung Nô không còn dám biểu dương lực lượng xâm phạm biên giới nước Tần như trước nữa, mà chỉ có thể tiến hành những cuộc quấy rối đột kích ở quy mô nhỏ.

Năm ba mươi bảy (năm 210 trước Công Nguyên), Tần Thủy Hoàng chết, chính vào năm thứ sáu sau khi Mông Điềm thảo phạt Hung Nô. Tể tướng Lý Tư và hoạn quan Triệu Cao âm mưu lập con thứ của Tần Thủy Hoàng là Hồ Hợi làm hoàng đế thứ hai của nhà Tần để dễ dàng nắm lấy quyền lực, bèn giả truyền thánh chỉ, ra lệnh trừ khử thái tử Phù Tô và tướng quân Mông Điềm. Phù Tô nhận được lệnh ban cho cái chết, bèn tự vẫn. Mông Điềm cũng uống thuốc độc chết ở Dương Chu. Chỉ bốn năm sau, Tần rơi vào thảm kịch mất nước, mà sự việc này chính là nguyên nhân khởi phát.

Sợ hãi trước ảnh hưởng nhân tâm sĩ khí từ việc thái tử Phù Tô và tướng quân Mông Điềm bị bức chết, những người biết chuyện đều giữ bí mật nghiêm ngặt với quân phòng thủ biên giới. Nhưng sau nửa năm, tin tức này truyền đến tai một bộ phận quân phòng thủ trường thành ở Ngạc Nhĩ Đa Tư gần Thượng quận nhất. Tin tức vừa truyền tới liền hóa thành hai con rồng lửa, một lướt về đông, một trườn sang tây, men theo trường thành uốn lượn không dứt, đưa tin đi một cách từ từ nhưng với vận tốc xác thực không đổi. Nó giống như ngọn lửa bốc cháy ngùn ngụt trên thảo nguyên, không ngừng lan ra rộng khắp.

Hỗn loạn dấy lên ở mọi nơi. Việc tướng quân Mông Điềm và thái tử Phù Tô tự sát đối với quan binh biên cương mà nói, còn lớn lao hơn, quan hệ trực tiếp đến vận mệnh hơn là việc Tần Thủy Hoàng băng hà. Đặc biệt những cảm xúc nhen nhóm trong quan binh từ việc Mông Điềm tướng quân tự tận thật là phức tạp. Không cần kể đến nhóm binh sĩ và nô dịch do những kẻ phạm tội hay vô lại trong thiên hạ hợp thành, chí ít đối với hàng ngàn hàng vạn quan binh lão thành mà nói, xa rời sự kính trọng hoặc tâm lý nể sợ đối với tướng quân Mông Điềm, thì không thể tưởng tượng được những ngày đêm chiến đấu với Hung Nô tại nơi dị vực sẽ ra sao. Đối với một số người, Mông Điềm là thần. Sự đối đãi công minh và từ ái với bộ hạ của ông; sự liêm khiết, dũng cảm, trung thành của ông chính là bùa hộ thân của họ trong cuộc chiến sinh tồn nơi biên cương phía bắc. Tuy nhiên, đối với một số khác, Mông Điềm lại là ác ma đáng nguyền rủa. Ông vì muốn lập công mà dù phơi thây vạn người cũng không tiếc, vì muốn thảo phạt quân địch mà không hề thương xót quân mình bị mặc kệ ngoài biên ải nhiều năm, vì muốn giữ tròn quân kỷ mà thành hà khắc, thường thẳng tay hy sinh mười mấy mạng binh sĩ để chấp hành một điều lệnh.

Có người vì cái chết của Mông Điềm mà bi thương, có người vì cái chết của Mông Điềm mà sinh ra cảm xúc mãnh liệt muốn trở về quê hương xa xôi. Thế nhưng, những hỗn loạn từ đó sản sinh chỉ là những hỗn loạn giản đơn ở mức độ tinh thần. Vũng xoáy của suy đoán và nghi hoặc ở các nơi đều không được biểu hiện bằng hình thức cụ thể nào. Vùng biên phòng của họ quá xa kinh thành, không cách chi hiểu tường tận chân tướng sự việc, mà lịch sử sẽ đi về đâu lại càng không sao đoán biết. Nếu phải chọn ra một ví dụ về ảnh hưởng trực tiếp của cái chết Mông Điềm đối với hành động của quân đội, thì phải kể đến cánh quân kém may mắn nhất trong toàn bộ đội quân Trường thành đang trấn giữ vùng biên cương xa xôi nhất tận chân dãy Âm Sơn.

Hôm ấy, Lục Trầm Khang dẫn một đội quân ngàn người đến đóng tại địa điểm cách trường thành năm trăm dặm về phía bắc, kết thúc hơn một tháng chiến tranh mòn mỏi với Hung Nô, cuối cùng cũng được nghỉ ngơi một ngày. Hung Nô đã chạy trốn, xung quanh không một bóng giặc, nhưng Lục Trầm Khang không muốn để quân đội dừng ở đây quá lâu, mà ngay sáng hôm sau phải tiếp tục tiến lên. Tuy hơn ai hết, chàng hiểu việc truy kích đường dài rất nguy hiểm, song nếu không tập kích và thiêu hủy cứ điểm của Hung Nô – một thôn trang trong núi cách hơn hai trăm dặm về phía bắc, thì lần chiến đấu này sẽ không kết thúc. Đây là mệnh lệnh của cấp trên giao phó, đồng thời cũng là cách duy nhất trừ tận gốc các cuộc tập kích quấy rối của quân Hung Nô vùng này. Thêm nữa, giờ đang lúc vào đầu đông, không biết ngày nào sẽ có tuyết lớn. Mọi việc cần giải quyết trước khi tuyết xuống.

Ngày hôm đó, Lục Trầm Khang tiếp đãi sứ giả đến từ đội của Trương An Lương. Họ là cánh quân lân cận, tuy cùng trấn giữ ngoài biên ải, nhưng lại đóng ở hậu phương cách đó rất xa. Sứ giả đưa đến ba trăm tấm da dê và rất nhiều thịt dê, cùng thư từ Trương An Lương. Nghe đâu để tìm cho được nơi đóng quân của cánh Lục Trầm Khang, sứ giả đã phải đi mất mười mấy ngày trên thảo nguyên ngập gió bấc đầu đông.

Trước mắt Lục Trầm Khang chợt hiện ra gương mặt người bạn lâu ngày không gặp, lòng chàng cảm thấy vô cùng nhung nhớ. Đối với cánh quân buộc lòng phải qua đông dưới chân dãy Âm Sơn, thì da dê và thịt dê là món quà vô cùng quý giá. Lục Trầm Khang mở tiệc rượu khoản đãi nồng hậu sứ giả trước doanh trại. Ngồi trên chiếu, chàng giở thư Trương An Lương ra đọc. Lục Trầm Khang dường như không sao tin được vào mắt mình, khi những hàng chữ trên thẻ tre đang nói với chàng về việc Mông Điềm tướng quân đã bị ban cho cái chết.

Đối với Lục Trầm Khang, Mông Điềm là một sự tồn tại tuyệt đối chân thực. Tần Thủy Hoàng năm hai mươi sáu, khi Mông Điềm tấn công nước Tề lập được đại công, Lục Trầm Khang giữ vị trí chủ chốt trong một đội quân nhỏ tham chiến. Từ đó tới nay, chàng luôn là chiến sĩ dưới trướng Mông Điềm. Từ năm ba mươi đến bốn mươi tuổi, mười năm của đời chàng đã qua đi giữa những cuộc chiến. Địa vị Lục Trầm Khang cố nhiên chưa thể đạt tới mức độ có thể bái yết tướng quân, nhưng duy nhất một lần chàng đã từng được tướng quân đích thân thăm hỏi. Đó là mùa thu năm Tần Thuỷ Hoàng thứ ba mươi ba, khi quân Tần chiếm Ngạc Nhĩ Đa Tư, tạo thành thế đối lập với quân Hung Nô qua Hoàng hà, chàng là thành viên của cánh quân tiên phong vượt sông, chiến đấu kịch liệt suốt ba ngày ba đêm, cuối cùng giữ được một cứ điểm ở bờ bên kia. Lúc ấy Mông Điềm vừa tới, muốn úy lạo đặc biệt tốp binh sĩ ít ỏi còn sót lại. Có thể vì tướng mạo khôi ngô uy dũng của Lục Trầm Khang gây chú ý, nên khi tướng quân nhìn đến, thì chỉ hỏi mình chàng tên là gì. Lục Trầm Khang đáp tên xong, Mông Điềm gật mạnh đầu, nói mỗi một câu: “Tên nhà ngươi là tên của một dũng sĩ.” Lục Trầm Khang thật khó quên sự cảm động của chàng lúc đó. Chàng vốn là một dũng sĩ, từ đó trở đi, lại càng dũng mãnh gấp bội, không ngừng tạo dựng được tiếng tăm. Lục Trầm Khang từng dẫn đầu toán quân trăm người, năm trăm người, ngàn người, thường được phái đến những nơi chiến đấu gian khổ nhất. Đương nhiên việc này chẳng liên quan gì đến tướng quân Mông Điềm, song Lục Trầm Khang luôn xem đó là mệnh lệnh từ Mông Điềm đưa xuống. Chỉ cần vì tướng quân Mông Điềm, thì chàng có thể không màng tới mạng sống, nhiệm vụ gian khổ đến đâu cũng sẵn sàng đảm đương.

Đối với một Lục Trầm Khang như vậy, thì việc tướng quân Mông Điềm bị ban cho cái chết oan ức là chuyện không tài nào lý giải nổi. Chàng sao có thể tin được. Bỗng chốc, chàng cảm thấy trời đất tối sầm, mặt đất rung chuyển.

Đêm đó Lục Trầm Khang thức trắng, suy đi tính lại rồi hạ quyết tâm: dừng cuộc chiến với Hung Nô, thu quân về nước. Chàng chẳng thấy việc giao chiến với Hung Nô còn chút ý nghĩa nào, cũng không tìm ra lý do để qua đông trên đất của quân địch. Tất cả đều vì sự tồn tại của Mông Điềm mà tồn tại, nhưng nay Mông Điềm không còn nữa. Chàng không hề suy nghĩ thiệt hơn về việc thu quân, có vì thế mà bị trừng phạt, hay bị xử tội chết cũng mặc. Đến tướng quân Mông Điềm còn vô duyên vô cớ bị khép vào tử tội, nữa là chàng chẳng qua chỉ giữ vị trí đội trưởng một cánh quân ngoài biên ải. Cái tấm thân nhẹ tựa lông hồng này có xảy ra chuyện gì cũng không đáng kể.

Lục Trầm Khang viết cho Trương An Lương một bức thư cảm tạ, lấy những lễ vật hôm trước vừa nhận được chất lại lên lưng ngựa, cho sứ giả đem về. Chàng phái trăm quân lính hộ tống sứ giả đến hơn trăm dặm đường.

Lục Trầm Khang đợi đám binh sĩ hộ tống sứ giả quay lại, rồi ngày thứ hai mới cho toàn quân biết quyết định về nước của mình. Binh sĩ đương nhiên không có ý kiến phản đối, chỉ là họ không ngờ rằng cuộc chiến đấu với Hung Nô ở biên cương lại có ngày kết thúc, nên mất một lúc lâu, họ mới hiểu được ý nghĩa chính xác của những lời Lục Trầm Khang nói. Họ dường như lúc đó mới ngộ được, hóa ra cái vận mệnh đen đủi cứ phải đi sâu vào vực thẳm khổ nạn không đáy của mỗi người cũng đến lúc được giải thoát.

Sáng ngày thứ ba sau khi sứ giả của Trương An Lương đi, Lục Trầm Khang dẫn quân rời khỏi doanh trại, tiến về hướng nam. Dự kiến khoảng bảy tám ngày sau sẽ đến bờ Hoàng hà, ngày thứ mười hoặc mười một sẽ tới Trường thành. Sau ba năm, quân của Lục Trầm Khang sẽ lại được nhìn thấy Trường thành.

Việc hành quân lúc đầu cực kỳ khó khăn. Binh sĩ luôn bị gió bấc đâm xuyên đến tận xương. Từ ngày thứ ba trở đi, gió bấc bắt đầu kẹp thêm hoa tuyết, những bông tuyết ướt nặng nề gieo xuống đầu của binh sĩ và chiến mã. Ngày thứ tư, sức gió giảm dần, nhưng tuyết lại không ngừng rơi, càng lúc càng lớn, lấp kín cả trời. Quân sĩ buộc phải vừa đi vừa dừng để xác định đường phía trước. Đối với một ngàn quân binh của Lục Trầm Khang, tuy đã từng đi lại nhiều lần, rất quen thuộc địa thế thảo nguyên, nhưng họ cũng hiểu rõ băng tuyết có khả năng chỉ trong một đêm khiến cả vùng thảo nguyên này trở nên hoàn toàn xa lạ và đáng sợ.

Hoàng hôn buông xuống, người chỉ huy chọn con đường bên phải tiến bước, đi đến dưới một khu đồi núi vô danh, thấp thoáng có bóng thôn làng với những căn nhà bằng đất của tộc người Thiết Lặc2.

Vẫn còn hơn nửa ngày đường nữa mới tới được bộ lạc nơi có thể đóng quân tá túc theo dự kiến. Nếu miễn cưỡng tiếp tục đi, chỉ khiến quân sĩ thêm nhiều vết thương do đông cứng khắp người, thậm chí có nguy cơ bị bão tuyết cuốn. Vì vậy, Lục Trầm Khang quyết định vào thôn của tộc Thiết Lặc đợi đến khi tuyết lặng trời quang.

Tất nhiên, chàng chưa bao giờ vào thôn của người Thiết Lặc, thậm chí đây là lần đầu tiên chàng đến gần họ. Tộc Thiết Lặc bị coi là dân tộc đặc biệt, vai vế thấp nhất trong số các bộ tộc rải rác khắp thảo nguyên. Họ hoàn toàn không liên hệ gì với các tộc người khác. Nam giới làm nghề chăn nuôi, nữ giới làm nghề trồng trọt, cuộc sống của họ rất thấp kém bần cùng. Tất cả nam giới đều xăm hoa văn ở khóe miệng, còn nữ giới buộc mái tóc màu nâu lại thành một lọn đuôi ngựa thõng dài sau lưng. Trên người họ có một mùi hôi thối đặc trưng, các tộc người khác cho đó là sự xú uế nên tỏ ý ghét bỏ.

Lục Trầm Khang phái bộ hạ đi làm quen và thương lượng với tộc Thiết Lặc, đề nghị họ nhường ra cho quân đội năm mươi gian nhà đất. Năm mươi gian nhà đất chứa đạo quân một ngàn người vốn cũng chẳng thoải mái, song nếu yêu cầu nhiều hơn, sẽ bức tộc Thiết Lặc phải ra ở ngoài trời, trên mặt đất băng giá. Đối với binh sĩ, chỉ cần năm mươi gian nhà đều có mái để chắn gió che tuyết, thì cũng đã là món quà quý giá vô cùng.

Mặt khác, đối với người tộc Thiết Lặc, nhường ra năm mươi căn nhà, cũng là yêu cầu có thể chấp nhận được. Nơi đây vốn là một thôn làng chừng trăm hộ, lần này chỉ trưng dụng một nửa. Năm mươi hộ bị quân đội chiếm dụng nhà ở, nếu có thể được năm mươi hộ còn lại tiếp nhận, sẽ không gặp khó khăn gì lớn.

Quân đội dừng lại trước cổng thôn chừng nửa giờ, xếp sẵn đội hình tiến vào những ngôi nhà đang bị tuyết vùi mất một nửa. Năm người đàn ông trong thôn hướng dẫn mỗi hàng binh sĩ tiến vào một gian nhà trống. Có gian nhà chỉ vài người ở, cũng có gian dồn đến hơn ba mươi người. Đội ngũ được rút ngắn dần, chậm rãi di chuyển về phía trước men theo khu đồi trông như cái màn thầu khổng lồ màu trắng. Cả khu đồi không một cái cây nào vươn được cành lên khỏi tuyết.

Lục Trầm Khang đợi toàn bộ quân sĩ đã an vị trong năm mươi gian nhà đất rồi mới tiến vào một căn được phân riêng cho chàng. Dù căn nhà hoàn toàn bị tuyết che lấp, song từ đám củi chất trong lò ở phòng chính của ngôi nhà vẫn đang có khói bay lên, chứng tỏ chủ nhân rời khỏi chưa lâu. Bên phải căn phòng chính là một phòng nhỏ hẹp, trên đất phủ kín cỏ lau khô dày dặn, nhìn qua biết ngay phòng ngủ của chủ nhân. Nhưng Lục Trầm Khang không hề bước vào căn phòng này. Ở đó nồng nặc một mùi kỳ quái, chắc chính là mùi hôi khiến người của các bộ tộc khác chán ghét và gọi là “xác thối”. Một binh sĩ bước vào, nhóm lửa trong lò. Đợi binh sĩ đi ra, chàng bắc một chiếc ghế gỗ thô sơ và ngồi xuống bên bếp lửa. Chàng định ngồi mãi thế cho tới khi trời sáng. Khoảng nửa canh giờ sau, hai binh sĩ đưa cơm tối đến, rồi lập tức rút lui. Thứ được đem tới là một chiếc màn thầu và một bát canh đầy váng mỡ dê. Mắt vẫn nhìn lò lửa không chớp mắt, tay chàng lặng lẽ đưa thức ăn lên miệng.

Từ sau khi biết tin Mông Điềm chết, Lục Trầm Khang không hề nói chuyện với thuộc hạ. Bây giờ đã kết thúc cuộc chiến, chẳng còn việc gì cần phải bàn bạc hay thương lượng với họ nữa. Các thuộc hạ đều hiểu tốt nhất đừng chủ động đến gần đội trưởng lúc không vui. Lục Trầm Khang từng bắt tù binh Hung Nô đứng trước mặt mình, không nói lời nào mà chém cánh tay từng tù nhân đứt ra từng đoạn một. Cảnh tượng này cho dù đã chứng kiến vài chục lần vẫn khiến người ta không dám nhìn. Họ đều biết vị chỉ huy lúc này rất đáng sợ. Tuy chàng đối với binh sĩ tỏ ra nhân từ hơn bất kỳ vị đội trưởng nào, nhưng mọi người đều vẫn vì cảnh tàn sát tù binh Hung Nô mà không thể trừ bỏ tâm lý sợ hãi đối với chàng.

Ăn xong bữa cơm đạm bạc, chàng vẫn giữ tư thế nghiêng người về trước đăm đắm nhìn ngọn lửa. Không biết vì sao, trong mắt người binh sĩ đến dọn bát đũa, người đội trưởng bỗng dưng trong chốc lát già hẳn so với tuổi thực bốn mươi của chàng. Thực ra, nét mặt Lục Trầm Khang không thay đổi, nhưng người chàng đổ về trước, mắt dính lấy ngọn lửa, trong tim trào dâng những cơn sóng càng lúc càng mãnh liệt. Chàng dùng tư thế này để cố gắng kiềm chế những ý niệm cuồng bạo tuyệt vọng không sao chế ngự được, sản sinh ra từ cái chết của Mông Điềm. Gió lạnh cuộn hoa tuyết chốc chốc lại thổi vào qua khe cửa chính. Mỗi lần như vậy, bên lò sưởi lại phủ thêm một lớp tuyết, nhưng chàng hoàn toàn không để ý.

Lục Trầm Khang ngồi ngủ gục. Có một luồng khí lạnh ập tới sau lưng, chàng mở mắt, chất thêm củi vào lửa. Củi và cỏ khô đều ẩm ướt, không dễ cháy, nhưng hun đốt một lúc, trong lò cũng rực lên được một ngọn lửa hồng. Chàng lại nhắm mắt, rồi khí lạnh lại khiến chàng tỉnh giấc. Nhiều lần như vậy, chợt chàng đứng thẳng dậy, nghiêm giọng hỏi: “Ai?”

Chàng cảm thấy bên cạnh có tiếng động, không giống với tiếng gió. Chàng ngồi bên lò cẩn thận lắng nghe một lúc, rồi tay cầm ngọn giáo dài, mở cánh cửa kho phía đối diện phòng ngủ, bên trong chất đầy lau sậy khô và các thứ bỏ đi. Lục Trầm Khang dùng ngọn giáo gạt lớp cỏ lau khô gần cửa, thấy lộ ra một nắp ván, bèn dùng phần đầu ngọn giáo đâm vào, quát lớn: “Ra đây!”

Quả nhiên, trong hầm có tiếng động vọng ra. Lát sau, nắp ván che dưới đất bị đẩy lên. Người chỉ huy vẫn cầm giáo nín thở nhìn chăm chú. Từ trong hầm chui ra một người, nhìn không đoán được bao nhiêu tuổi, nhưng là một phụ nữ. Chàng bèn bước thẳng đến, nắm áo nàng lôi tới đứng bên bếp lửa. Không ngờ chàng còn chưa mở miệng, người đàn bà đã cất lời trước.

_ Ta đã chết rồi, ngươi còn muốn giết ta lần nữa sao? – Người đàn bà nói bằng một giọng địa phương nặng trịch.

_ Sao ngươi phải trốn? – Lục Trầm Khang hỏi.

_ Ta không phải trốn, mà là không muốn rời khỏi căn nhà này. Chồng ta vừa qua đời mùa thu năm nay. Hồn của chồng ta yên giấc nơi đây, ta không thể ngủ ở bất kỳ nơi nào khác.

Nàng tiếp tục nói:

_ Chồng ta chết mùa thu năm nay. Ta tuy vẫn đang thở, nhưng sống chẳng qua chỉ là cái xác, người thực ra đã chết rồi. Tim của ta không còn có thể vui vì bất kỳ điều gì, cũng không buồn vì bất kỳ điều gì. Ta đã là người chết. Ngươi muốn giết ta lần nữa sao?

Ánh lửa trong lò yếu ớt soi sáng nửa mặt nàng. Xem ra nàng còn trẻ, chắc chắn chưa quá hai mươi mấy tuổi. Trong mắt nàng đầy ánh nhìn nghi kỵ sắc bén đặc trưng của những người đàn bà của bộ tộc này.

_ Ngươi nói ngươi là người chết? Vậy thì ta cũng là người chết. Không vui vì bất kỳ điều gì, cũng không buồn vì bất kỳ điều gì. – Lục Trầm Khang như bị cuốn theo nàng, lẩm bẩm nói theo, rồi chàng cao giọng – Ta không quan tâm đến người chết vô dụng. Về phòng ngủ của ngươi đi!

Người đàn bà hất tóc ra sau lưng, quật cường ngẩng cao đầu như phản kháng:

_ Ta phải đi ra, không ở đây.

_ Ngươi muốn đi đâu?

_ Còn phải hỏi? Tất nhiên là đi ra ngoài.

_ Ra ngoài, có nghĩa là gì, ngươi biết không?

Chàng nhìn ra cửa, bên ngoài tuyết rơi dày đặc. Trong đêm khuya, ra ngoài giữa trời mưa tuyết, chỉ có nghĩa là chết.

_ Ta đã nói, ta là người chết. Tại sao phải sợ chết?

Nàng nói rồi, lập tức quay người hướng về phía cửa đi ra. Lục Trầm Khang nắm lấy áo nàng kéo lại:

_ Ta tha cho ngươi. Mau về phòng đi.

Người đàn bà lạnh lùng ngẩng cao đầu, đáp:

_ Ta không thích ngủ dưới mái nhà cùng một người đàn ông nào ngoài chồng mình. Giờ chỉ còn một cách, hoặc ta đi ra, hoặc ngươi đi ra.

Chàng quắc mắt nhìn nàng. Bỗng nhiên, hoàn toàn không ngờ được, lúc này chàng lại có cảm giác người trước mặt đang khiêu khích chàng. Người chỉ huy một thời gian dài quên bẵng mất đàn bà bỗng như tỉnh ra, nhìn trân trối gương mặt phụ nữ trẻ đang đứng trước mình. Chàng đến gần nàng, lần thứ ba nắm lấy áo nàng, lần này muốn lôi nàng vào phòng ngủ. Nàng chống trả quyết liệt, nhưng khi đã bị ném xuống lớp cỏ lau khô trong phòng, thì dường như chấp nhận số phận, từ đó trở đi nằm như một xác chết không chút phản ứng, mặc Lục Trầm Khang muốn làm gì thì làm.

Khi chàng giật mình tỉnh lại, thấy bản thân đang nằm giữa căn phòng hôi nồng nặc, trong lòng chàng là thân thể một người đàn bà bốc mùi tanh tưởi. Gió lạnh ập vào, nhưng chỉ cần ôm nàng, thì không hề cảm thấy lạnh. Nàng đã thiếp đi, thân thể nàng nóng như một ngọn lửa.

Chàng nhỏm dậy đi lấy cây đao ở phòng ngoài vào cắm xuống đám lau sậy khô bên gối, rồi lại ôm lấy nàng. Lòng chàng nghĩ, nếu có người vào đây, lập tức phải giết ngay, ai nhìn thấy chàng đang ôm đàn bà tộc Thiết Lặc đều phải chết.

Nàng tỉnh giấc, lại ra sức phản kháng. Khi nàng ngừng phản kháng để thuận theo chàng, thì vẫn cứ trợn trừng đôi mắt lạnh lẽo, thân thể cứng đơ như người đã chết.

Trời sáng bạch, Lục Trầm Khang tra đao vào vỏ, dẫn người đàn bà đến trước cái hầm mà nàng từng trốn, đẩy nàng chui vào.

Ngày hôm ấy, tuyết vẫn không ngừng rơi ào ạt. Chàng tiếp tục ngồi bên bếp lò, cứ thế đến hết ngày. Chàng đưa nửa phần cơm canh của mình vào hầm cho người đàn bà. Nàng lặng lẽ nhận lấy. Màn đêm ập xuống, chàng biết lúc này binh sĩ không còn đến chỗ mình nữa, bèn lôi nàng từ trong hầm ra, kéo vào phòng ngủ trải cỏ lau. Đêm đó, chàng vẫn rút đao cắm bên gối, rồi rúc vào thân thể người đàn bà ấm áp lạ thường kia, chìm vào giấc ngủ.

Ngày thứ ba, ngày thứ tư, quân đội đều không thể rời thôn của tộc Thiết Lặc để đi tiếp. Tuyết dù đã lúc rơi lúc không, nhưng trời vẫn âm u. Lục Trầm Khang đêm nào cũng ngủ cùng người đàn bà và dùng thanh đao đã rút ra khỏi vỏ để bảo vệ hành động của mình. Chàng tuy ôm nàng trong tay, nhưng vẫn nhạy cảm với từng âm thanh nhỏ nhất. Chàng nghĩ thầm, chỉ cần có người bước vào căn phòng này thấy điều chàng đang làm, thì dù là binh sĩ hay đội trưởng, đều phải lập tức giết ngay.

Ban ngày ngồi một mình bên bếp lửa, chàng thường dùng mũi ngửi tay, sợ mùi thân thể tanh hôi của người đàn bà lây sang mình. Nhưng đến đêm, chàng lại không thể không tiếp tục quấn chặt lấy tấm thân đầy mùi “xác thối” của nàng, dưới sự bảo vệ của cây đại đao.

Đêm thứ năm, nàng mới lần đầu mở miệng nói chuyện trở lại:

_ Sao ngươi lại dựng cây đao bên cạnh gối?

_ Nếu có người thấy chúng ta ngủ chung, ta sẽ giết chết ngay. – Chàng đáp.

_ Vì sao? – Nàng lại hỏi.

Lục Trầm Khang không trả lời. Người đàn bà nói:

_ Ta không ép ngươi nói ra lý do, nhưng ta hiểu ngươi cho rằng việc quan hệ giữa chúng ta là đáng xấu hổ. Thực ra ta cũng cảm thấy thế. Người của bộ tộc chúng ta, nếu phát sinh quan hệ với người ngoại tộc, chẳng thà chết đi còn hơn. Ta cũng muốn dùng đao để bảo vệ sự xấu hổ của mình. Nếu có người vào phòng này, ta sẽ cầm đao giết hắn trước ngươi.

Nàng vẫn nhìn chàng bằng ánh mắt lạnh lùng đầy thù hận. Nhưng bấy giờ, chàng lần đầu tiên nảy sinh một cảm giác giống như tình yêu với người đàn bà có thân thể đầy mùi xác thối. Lục Trầm Khang chưa từng lấy vợ, vì vậy chàng nghĩ, cái cảm giác người vợ đem lại cho chồng, chắc cũng giống như thế này.

Ngày thứ sáu, đợt tuyết dai dẳng cuối cùng cũng dứt. Theo lý mà nói, chỉ huy nên ra lệnh cho binh sĩ xuất phát, nhưng chàng lại kéo dài thêm một ngày. Đêm đó, chàng ôm người đàn bà, lòng dâng lên một tình cảm quyến luyến khó dứt ra được. Nàng để chàng âu yếm hồi lâu, mới nói bằng một giọng lặng lẽ:

_ Việc của chúng ta phải kết thúc đêm nay. Ngày mai xin chàng rời khỏi thôn này, tiếp tục lên đường.

_ Dù nàng không bảo, ta cũng phải làm như vậy. Trừ tuyết lớn, chẳng gì có thể ngăn trở bước tiến của quân sĩ, nhưng tuyết đã ngừng rồi.

Lục Trầm Khang đáp xong, người đàn bà tiếp lời chàng:

_ Chỉ có tuyết mới ngăn trở được bước tiến của quân sĩ thôi sao? Nếu ta muốn, thì giữ chàng bao lâu cũng được. Nhưng ta không thể làm vậy.

Nàng nói rồi bật khóc to, khóc mãi không nín, đến nỗi Lục Trầm Khang nghĩ không biết nàng bị làm sao. Nàng khóc đến khi dường như cạn cả nước mắt, mới nói:

_ Ta không ngăn chàng đi, vì không nỡ nhìn chàng biến thành dã thú. Trong bộ tộc chúng ta từ xa xưa đã có truyền thuyết, nếu ai ăn nằm với người ngoại tộc như vợ chồng bảy lần sẽ biến thành dã thú. Đêm nay là đêm thứ sáu, nếu chàng còn ở thêm một ngày, chàng và ta đều sẽ biến thành thú.

Lời nàng nói khiến Lục Trầm Khang vô cùng kinh ngạc. Chàng không hề kinh ngạc vì mình sẽ biến thành dã thú, mà vì từ lời nói của nàng có thể cảm nhận được tình yêu của nàng dành cho mình. Đêm này, không giống những đêm trước, chàng cảm nhận được tình cảm nồng ấm từ mỗi cử động trên thân thể của nàng.

_ Nàng nói biến thành thú dữ, vậy thì, chúng ta sẽ biến thành loại thú dữ nào? – Lục Trầm Khang hỏi.

Người đàn bà đáp:

_ Chúng ta ngoài việc biến thành sói, còn biến được thành gì khác? Chúng ta luôn một mực nghĩ tới việc dùng đao để bảo vệ hành vi chăn gối của mình, nếu quả thật có người bước vào nhìn thấy, chắc chàng và ta đều lao vào đối phương. Nghe nói sói cũng như vậy, khi thư hùng giao phối, nếu bị bắt gặp, không cần biết đối phương là động vật nào, đều sẽ lao đến tập kích, hoặc ngày đêm săn đuổi, phải cắn chết đối phương rồi mới chịu thôi. Chàng có thể muốn chúng ta biến thành loài vật khác, nhưng chúng ta chỉ có thể biến thành sói, vì tim chúng ta đã sớm biến thành tim sói mất rồi.

Trời chưa sáng, người đàn bà đã rời Lục Trầm Khang, quay về hầm dưới đất. Trước đó, nàng dặn chàng lúc ra đi đừng gọi nàng. Chàng đồng ý. Chàng cũng cảm thấy thế là thỏa đáng nhất.

Hôm sau, quân đội rời khỏi thôn làng Thiết Lặc bẩn thỉu nghèo đói mà họ đã trú ngụ sáu ngày liền. Trời đã lặng gió và ngừng tuyết. Lục Trầm Khang cưỡi ngựa dẫn đầu đoàn quân thẳng tiến. Kỵ binh với bộ binh xen kẽ nhau, hành quân trên thảo nguyên đầy tuyết sáng bóng và cứng như chất men ngọc trắng.

Khi đoàn quân đi xa khỏi thôn tộc Thiết Lặc được khoảng hai mươi dặm, bỗng dưng ngừng lại. Trên thảo nguyên đầy tuyết xảy ra một việc khác thường, ở xa xa phía bên phải của cánh quân, tuyết bị cuộn thành một trụ tròn bay vút lên trời, lên đến tầng không lại đổ ụp xuống như núi lở về phía quân sĩ. Chiến mã nhảy dựng lên, hí vang, muốn vùng bỏ chạy.

Phụ tá họ Lý lúc nào cũng đi cạnh đội trưởng, bèn áp sát ngựa của mình vào cạnh ngựa của chàng, nói lớn trong đám tuyết đang đổ ào ạt:

_ Tôi nghe phía xa có tiếng sói tru. – Đối với họ Lý, sự tập kích của đàn sói còn nghiêm trọng hơn gió xoáy.

Hai người lập tức quất ngựa rời nhau ra. Lục Trầm Khang vừa quan sát trạng thái hỗn loạn của đội ngũ, vừa lắng tai nghe. Chàng muốn kiểm chứng việc có phải có tiếng sói tru hay không. Trong chớp mắt, mấy đợt gió xoáy liên tiếp cuộn tuyết lên chín tầng mây, rồi rót xuống như thác đổ. Toàn thân phủ đầy tuyết, Lục Trầm Khang giục ngựa tuần tra. Chàng bỗng nghe thấy thanh âm thê thiết, nhưng truyền đến tai chàng không phải tiếng tru của sói, mà là tiếng khóc lóc bi thương của người đàn bà tộc Thiết Lặc.

_ Sói! Nghe thấy tiếng sói rồi. – Không phải phụ tá Lý đang nói. Đó là tiếng kêu thất thanh của các thuộc hạ khác.

Chàng nghiêng tai lắng nghe. Thanh âm vẳng đến đâu đó từ bầu trời xám đầy tuyết bay, vẫn là tiếng khóc than như xé ruột của người đàn bà.

Sau khi mọi việc trở lại bình thường, đội quân lại chỉnh đốn hàng ngũ xuất phát. Lục Trầm Khang đã nghe tiếng khóc của người đàn bà suốt một ngày trời. Âm thanh ấy cứ quấn quít bên tai, chẳng cách nào thoát được.

Đến đêm, người chỉ huy đưa quân vào một thôn làng, đóng quân tại đó, rồi hạ lệnh cho một phụ tá: Sức khỏe chàng không tốt, phải lập tức nghỉ ngơi, bất kỳ ai cũng không được đến làm phiền. Đêm đã khuya, chàng dẫn chiến mã ra, nhảy lên mình ngựa, nhắm thẳng hướng thôn làng tộc Thiết Lặc vừa rời khỏi lúc sáng sớm. Chàng quất ngựa không ngừng trên thảo nguyên đầy tuyết bao la đang tràn ngập ánh trăng xanh. Vì vô cùng nhớ nhung người đàn bà Thiết Lặc, nên chàng muốn gặp nàng lần nữa, và phải quay về nơi đóng quân trước khi trời sáng. Doanh trại cách thôn làng Thiết Lặc không xa, xem ra hoàn toàn có thể kịp.

Người chỉ huy nhẹ nhàng tiến vào thôn làng Thiết Lặc tối tăm đang im phăng phắc. Chàng dừng lại căn nhà đất đã trú ngụ suốt sáu đêm, cột ngựa vào thân cây ở phía sau, vội vàng chạy đến trước cửa. Trong nhà có ánh đèn. Lục Trầm Khang ở đây sáu đêm liền chưa bao giờ thấy ánh đèn, vì vậy lúc này chàng bỗng cảm thấy toàn bộ căn nhà dường như có chút không giống trước kia.

Vừa đẩy cửa, bóng người phụ nữ quỳ bên bếp lửa lập tức lọt vào tầm mắt chàng. Chàng gọi một tiếng, người đàn bà dường như bị giật mình, quay đầu lại nhìn chàng không chớp.

_ Ta vốn hy vọng chàng đừng quay lại, nên lúc nào cũng cầu nguyện với trời. Thế nhưng không ngờ, chàng vẫn quay trở lại.

Người đàn bà nói bằng giọng lặng lẽ đầy cảm khái, rồi nàng đứng dậy nhào vào lòng chàng, dùng tay đập nhẹ trên ngực chàng biểu lộ sự âu yếm.

_ Ta vốn vì chồng mà trở thành người chết, nhưng do nhân duyên đã định, nay ta muốn sống vì chàng, dù có phải biến thành dã thú cũng hy vọng được tiếp tục sống.

Người đàn bà nói xong, lần đầu tiên chủ động đưa chàng vào phòng ngủ.

Lục Trầm Khang cắm đao xuống sàn bên gối như những lần trước. Thân thể người đàn bà vẫn tỏa ra mùi hôi thối, nhưng lúc này chàng hoàn toàn không để ý. Chàng chỉ cảm nhận tình thương yêu dào dạt đối với người đàn bà đã yêu mình, vừa ngắm nhìn say đắm gương mặt lần đầu tiên hiện rõ dưới ánh đèn khi mờ khi tỏ, vừa ghì chặt lấy nàng vào lòng.

Mờ sáng, chàng tỉnh lại. Đèn đã tắt, song vẫn thấy rõ thanh đao bên gối đang ánh lên sắc lạnh của những tia nắng sớm trăng trắng của buổi bình minh. Chàng biết mình đã ngủ quên, nghĩ đến quân sĩ, bèn lập tức muốn ngồi dậy, nhưng cảm thấy động tác cơ thể hôm nay không giống trước nữa. Chàng dậy rồi, chuẩn bị động tác rút đao, vừa nghiêng mặt qua một bên, tay còn chưa vươn ra, thì trong một thoáng, phát hiện miệng mình đã ngoạm lấy thanh đao.

Chàng lướt mắt qua thân thể mình, chỉ thấy từ tay, chân cho đến khắp người đều phủ một lớp lông màu vàng đen. Bấy giờ chàng mới biết mình đã biến thành một con sói. Chàng lại nhìn thân thể người đàn bà nằm bên cạnh. Người đàn bà cũng không còn như đêm qua nữa. Nàng đã biến thành một con sói cái.

Người đàn bà vươn thẳng chân trước chân sau, rồi mở mắt, bật dậy. Nàng chẳng qua chỉ là bên ngoài hóa sói, chứ chàng cảm thấy dáng dấp thần thái của con sói cái này chẳng khác gì người đàn bà lúc trước cả.

_ Nàng có biết nàng đã biến thành sói rồi không? – Lục Trầm Khang hỏi.

_ Biết. Ta nửa đêm tỉnh giấc đã phát hiện ra rồi. Khi ấy giật cả mình, nhưng giờ ta không than thở, cũng không buồn bã, vì có buồn bã than thở thế nào cũng đâu cứu vãn nổi. – Nàng đáp.

Đối với chàng, vấn đề không hề đơn giản giống như nàng nói. Nhưng dù sao cũng đã thành sói rồi, thì lại đúng như nàng nói, chẳng còn cách nào nữa.

Lục Trầm Khang rời căn nhà đất. Chàng không biết vì sao mình rời căn nhà, song rất nhanh lập tức hiểu ra mình muốn đi săn. Người đàn bà cũng đi theo. Khi ra đến vùng đất phủ đầy tuyết, ngoảnh đầu nhìn con sói cái chạy phía sau mình, lần đầu tiên chàng mới cảm thấy mình thực đã yêu nàng bằng trái tim của sói. Vì người mình yêu, để bảo vệ nàng khỏi bất cứ kẻ nào xâm phạm, đôi mắt sáng rực của chàng không ngừng cảnh giác hướng ra đến tận cùng bao la của thảo nguyên tuyết trắng.

Hán Cao Tổ năm thứ bảy (năm 200 trước Công Nguyên), tức sáu năm sau khi nhà Tần sụp đổ, chuyện Lục Trầm Khang mất tích trong quân đội đã qua năm thứ mười. Thời đại đã từ Tần chuyển sang Hán, nhưng Trương An Lương đã từng tặng cho Lục Trầm Khang da thú và thịt dê thì vẫn là một đội trưởng quân trấn giữ Trường thành ở ngoài biên ải. Cuối Tần nội loạn, trung thổ phân năm xẻ bảy, rất nhiều quân sĩ giữ Trường thành đào ngũ hoặc mất tích, song suốt thời gian này, Trương An Lương lại chưa từng rời bỏ cương vị của mình. Vì vậy, tuy giờ thiên hạ đã thuộc về Hán Cao Tổ, nhưng vô hình trung lại tiếp nhận toàn bộ hình thức từ triều đại trước, nên ông vẫn được giữ vị trí giống như ông đã giữ dưới thời nhà Tần.

Hôm đó Trương An Lương đi bái yết võ tướng mới đến nhậm chức thống lĩnh đội quân trấn thủ Trường thành của khu vực, đem theo ba binh sĩ rời điểm đóng quân, dấn bước vào hành trình dài bốn ngày ba đêm. Hai ba năm trước Hung Nô đã rút xa về phía bắc, nên vùng này đã thoát khỏi sự uy hiếp của Hung Nô.

Ngày đầu tiên, họ hạ trại qua đêm bên cạnh một ao đầm nơi hoang vu. Chính vào đầu hè, ban ngày mặt đất bị nung bỏng cháy, nhưng đến đêm, nhiệt độ nhanh chóng giảm xuống, giống như tiết đông giá rét. Dù vậy, lúc này vẫn là mùa đẹp nhất trên vùng đất nơi đây.

Trong lều, Trương An Lương đang chuẩn bị ngủ, chợt một bộ hạ từ ngoài chạy vào báo, có hai con sói đang đùa giỡn trên gò núi gần đó. Trương An Lương và hai binh sĩ khác lập tức chạy ra khỏi trướng. Ánh trăng như nước, khiến mặt đất loang loáng thành một vùng sáng xanh. Họ quả nhiên nhìn thấy trên ngọn đồi phía bên phải không xa, có hai con sói đang vờn nhau. Không nghi ngờ gì, chúng đang giao hoan, nhưng trên thảo nguyên không chút che đậy, lại thêm ánh trăng xanh chiếu rọi, khiến cảnh tượng ấy làm người ta cảm thấy vô cùng kinh hãi. Một binh sĩ dùng tên nhắm thẳng vào con sói và bắn. Tên rơi trên sườn núi, hai con sói phút chốc dạt ra hai phía chuồn mất.

Mờ sáng hôm sau, Trương An Lương đang an giấc trong trướng thì bị một tiếng thét dị thường đánh thức. Ông vội chạy ra khỏi lều, thấy binh sĩ phụ trách nấu cơm ngã gục trước lều, đã tắt thở. Thịt trên người anh ta bị xé thành từng mảnh, cổ họng và một bên bụng bị cắn nát bét không ai dám nhìn. Trông biết ngay là bị sói tập kích.

Trương An Lương mất một trong ba bộ hạ, đành dắt ngựa của binh sĩ vừa chết đến ngay thôn trang lân cận, nói rõ cho người dân biết vị trí thi thể của người bị tập kích, nhờ họ mai táng. Xong việc, ông và hai binh sĩ lập tức rời thôn.

Không ngờ, ngay đêm đó tại nơi nghỉ trên đồi, ba người lại gặp cùng một tai nạn cũ. Lần này là giữa đêm, một binh sĩ ra ngoài lều để tiểu tiện, một đi không trở lại. Trương An Lương sáng sớm hôm sau phát hiện binh sĩ đã mất tích, tìm kiếm một hồi xung quanh vẫn bặt tăm, chỉ thấy trong đám cỏ toàn những vụn thịt người.

Do sự việc xảy ra ngày thứ hai, Trương An Lương và binh sĩ còn lại biết mình đã bị sói theo sát, sợ hãi nổi hết gai ốc. Lần này hai người đến một thôn làng cách đó khoảng nửa ngày đường, xin họ giúp tìm kiếm binh sĩ mất tích, rồi lại xuất phát.

Ngày thứ ba, hai người quyết định không dựng lều ngoài hoang địa nữa mà vào trong thôn của bộ lạc tìm chỗ tá túc, nên cưỡi ngựa đi suốt một ngày trời. Giữa trưa và gần tối, họ hai lần nghe thấy tiếng sói hú xa xa. Tối đó vừa vào trong thôn, binh sĩ kia đã lên cơn sốt không dậy được, chắc do bị sói dọa phát ốm.

Ngày thứ tư, Trương An Lương một mình cưỡi ngựa tiến bước, dự tính nửa đêm sẽ tới được đích đến là một thôn làng ven Trường thành. Trương An Lương là người to gan lớn mật, không hề sợ sói tấn công. Thế nhưng, việc không đem theo một binh một tốt nào đến tổng doanh trong tình cảnh thế này, quả thật khiến ông rất đau đầu.

Lúc hoàng hôn, ông dừng nơi chân núi phủ đầy nham thạch, cho con ngựa đã phải rong ruổi suốt ngày trời chưa được dừng chân nghỉ ngơi chốc lát. Khi ông xuống ngựa ngồi nghỉ trên mặt đất, bỗng nghe thấy cách đó không xa truyền lại tiếng sói tru. Vì những sự việc xảy ra liên tiếp gần đây, Trương An Lương lập tức đứng dậy, chú ý quan sát xung quanh. Trên thảo nguyên, những ngọn đồi nhấp nhô như gợn sóng, mặt trời đỏ như máu đang sắp xuống núi. Phóng mắt nhìn đến chân trời, dù là núi đồi, đồng cỏ, hay cây cối đều bị nhuộm thành một màu đỏ ối.

Ông ngồi xuống. Lúc này tiếng sói lại như từ xa hơn vọng tới, thanh âm kéo thật dài, khiến người ra rợn hết tóc gáy. Ông lại bật dậy, thấy trên vùng đất cao bỗng nhiên xuất hiện một con sói. Nó kéo cái đuôi dài quét đất, xuyên xéo qua vùng đồi cao, nấp sau những khối nham thạch, hướng về phía ông quan sát. Sói há to mồm, cái lưỡi dài và mảnh hơi rung rung.

Trương An Lương rút dao, chuẩn bị đợi nó đến gần sẽ đâm ngay một phát kết liễu. Ông không tỏ ra yếu thế trước đối thủ, đôi mắt nhìn chằm chằm vào con dã thú dũng mãnh.

Không biết qua bao lâu, ông bỗng thấy con sói lộ cả người từ sau phiến nham thạch, hai chân trước chắp vào nhau, ngồi xổm trên mặt đất.

_ Là Trương An Lương phải không?

Trong một thoáng, Trương An Lương không rõ tiếng gọi mình đến từ phương nào.

_ Lâu quá không gặp.

Từ lúc cha sinh mẹ đẻ tới giờ, ông chưa từng kinh hãi đến thế, vì khi ấy ông mới nhận ra thanh âm phát ra từ mồm con sói. Do quá hoảng sợ, im lặng hồi lâu, một lúc sau, ông mới hét lên thật to:

_ Ngươi là ai?

Sói vẫn rung rung cái lưỡi, thở mạnh một hơi rồi nói:

_ Anh nhất định sẽ giật mình kinh ngạc. Tôi là Lục Trầm Khang, không may biến thành hình dạng không dám gặp ai thế này. Nhưng tôi thực là bạn cũ của anh, Lục Trầm Khang đây.

Trương An Lương không thốt nổi lời nào. Tuy sói nói vậy, nhưng việc này ai mà tin được. Một hồi, đối phương dường như cảm nhận được tâm trạng này của ông, vội nói:

_ Anh bạn, nghe kỹ tiếng tôi đây. Anh vẫn còn chút ấn tượng với cái giọng này phải không? Chẳng phải chúng ta đã từng uống rượu chuyện trò thâu đêm sao? Anh chưa quên giọng nói của bạn cũ chứ!

Nghe đến đây, Trương An Lương quả nhiên cảm thấy thanh âm con sói phát ra giống tiếng nói quen thuộc của người đồng liêu từng một thời gắn bó.

_ Sao anh lại thành ra thế kia? – ông ngỡ ngàng.

_ Chuyện này, xin anh đừng hỏi. Dù điều gì đã xảy ra, e rằng tôi cũng sẽ không nói cho anh biết được. Tất cả đều là ý trời. Biến thành hình dạng thế này, tôi muốn chết lắm chứ. Nhưng thọ số đã định, dù muốn chết cũng không chết được. Cho nên, tôi phải giữ cái bộ dạng này, sống đến tận hôm nay. Song tôi nghĩ, may là mình không chết, vẫn còn sống, mới có thể nói chuyện với anh như bây giờ.

Những lời bi ai tha thiết lay động trái tim của Trương An Lương. Ông không ngăn được lòng thương xót đối với vận mệnh trớ trêu của người bạn.

_ Lục Trầm Khang!

Lúc Trương An Lương gọi tên bạn, từ xa xa vọng đến tiếng sói gào. Thế là Lục Trầm Khang dùng sức vươn dài hai chân trước, đứng dậy:

_ Không xong rồi! Bao lâu nay lần đầu tiên tôi khôi phục được nhân tâm, nhưng chỉ cần nghe thấy tiếng kêu của đồng loại, tim của tôi lại không ngăn được việc biến thành tim sói. Khi tôi đang nói với anh đây, tim tôi đang biến hóa dần. Một lát nữa, tôi sẽ thành sói. Biến thành sói thì không thể nào không tấn công anh.

Trương An Lương nhìn thấy trong đôi mắt sói của Lục Trầm Khang dần dần bắn ra những tia nhìn tàn nhẫn.

_ Tôi phải biến thành sói, đang biến thành sói. Trương An Lương, tôi buộc phải tấn công anh. Vì anh nhìn thấy tôi và vợ tôi làm những việc không thể để người khác nhìn thấy. Bản tính sói không chấp nhận điều này. Trương An Lương, tôi phải biến thành sói tấn công anh đây! Anh giết tôi đi, đừng bao giờ chùn người xuống. Nếu anh chùn người xuống, chúng tôi sẽ thắng.

Lục Trầm Khang nói xong câu cuối cùng, ngẩng đầu lên trời rống lên một tiếng. Tiếp đó vọng tới một tiếng sói tru, đến từ một nơi gần hơn vừa nãy nghe thấy.

Trương An Lương nhìn con sói Lục Trầm Khang đã bị bản tính tàn bạo nuốt chửng, trở thành một dã thú chẳng còn gì giống với người bạn trong quá khứ. Ông đứng trong tư thế sẵn sàng, hướng mũi đao về phía con sói. Ông cảm thấy có một luồng sức mạnh uy hiếp từ đối phương, bức bách đến mức ông nhất định phải quyết giết con dã thú hung hãn đang đứng trước mặt.

Trương An Lương nhìn vào ngọn đồi đối diện với ngọn đồi mình đang đứng, cách một chỗ đất trũng. Một con sói đang men theo sườn dốc tiến như tên bay tới trước. Con sói này vừa mất dạng trong chỗ trũng, lập tức đã thấy chạy tới ngọn đồi ông đang đứng với một vận tốc không thể tin được.

Sau đó, con sói vừa chạy lên chỗ đất cao, vừa nhảy vọt một bước lớn. Như đã đợi được thời cơ, con sói Lục Trầm Khang cũng vọt lên phía trước. Trương An Lương cảm thấy bóng một con sói nhào xuống từ trên đầu, một con khác lao đến từ bên hông. Ông tránh đòn hiểm, huơ đao chém ngang hai bên. Hai con sói tránh lưỡi đao, nhổm lên lại hụp xuống, nhảy nhót liên tục tấn công.

Trận đấu liều chết không kéo dài bao lâu. Trương An Lương bị gờ nham thạch vướng chân té ngã, một chân quỳ dưới đất. Ngay lập tức, hai con sói đồng thời dốc toàn lực xông tới. Một con cắn ngay cuống họng, con kia cắn vào đùi, kiểu cắn có chết cũng không buông đặc trưng của sói.

Mặt trời nhuộm đỏ rực cả vùng cao. Từ thân thể Trương An Lương chảy ra một lượng máu lớn, còn đỏ hơn thế, nhuốm đỏ cả một khoảng đất, rồi trong phút chốc hòa chung với màu đỏ rực rỡ của ráng chiều.

Nửa năm sau, triều đình nhà Hán ra bố cáo cho quân trấn thủ Trường thành: Năm nay nạn sói hoành hành, binh sĩ ngoài biên ải không được sơ ý, phải kết chặt đai bụng.

Cái gọi là đai bụng là vật gì, nó có năng lực phòng chống sự tấn công của sói như thế nào, thời qua chốn đổi, giờ đã không còn ai biết.

1 (日)井上靖 著,赵峻 译. (2013). 楼兰.北京十月文艺出版.

(Nhật), Inoue Yasushi, Triệu Tuấn dịch. (2013). Lâu Lan. Nxb Văn nghệ tháng 10 Bắc Kinh.

2 Có bản đề là tộc Ca Lôi.

– Hết –

Nghiên cứu khoa học Văn học Trung Quốc 中文 論文

Một vài vấn đề dạy học Văn học Trung Quốc tại đại học ở Việt Nam 浅析中国文学在越南大学教学中的几个问题

Một vài vấn đề dạy học Văn học Trung Quốc tại đại học ở Việt Nam

浅析中国文学在越南大学教学中的几个问题

潘秋云博士

(越南胡志明市师范大学语文系)

TS. Phan Thu Vân

(Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư Phạm Tp.HCM)

Nguồn: Trường Đại học Sư Phạm TP.HCM – Đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020, Kỷ yếu hội thảo đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp đổi mới dạy và học tiếng Trung trong các cơ sở Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, Tp. HCM, 12/2015

Tóm tắt:

Bài viết thông qua các vấn đề chướng ngại ngôn ngữ, giáo trình, trình độ sinh viên đại học trong dạy học văn học Trung Quốc tại đại học ở Việt Nam để thảo luận hiện trạng môn học, phân tích nguyên nhân và đưa ra giải pháp cải thiện chất lượng giảng dạy.

Từ khóa:

Dạy học văn học Trung Quốc, Giáo trình, Văn học và điện ảnh

11110863_714531381989366_1685021611586908190_n11143671_714531421989362_3959935293441825685_n

摘要:

本文通过语言障碍、教材和在校大学生的程度所表现出的越南大学中国文学教学的问题,讨论了该学科教学在越南大学中的现状,分析出现问题的原因、以及提出可能的改善办法。

关键词:中国文学教学 教材 电影与文学

古代亚洲存在这一种较为特殊的文化现象,即“四国同文”。(此处四国指:中国、日本、今天的朝鲜和韩国,以及越南。)这四个国家在近千年的漫长历史中,在书面上共同使用同一种文字——汉字,并在同一个文化基础上——中国文化——进行了各自的发展。至今,虽然每个国家的发展轨迹不尽相同,文字文化方面的差异更是大相径庭,但细审其间,还是可以梳理出源流和脉络。而能够将这个源流和其脉络了然于心,将会对未来这一地区的发展有宏观上的把握。因此,在越南教授中国文学,尤其是中国古代文学,对笔者来说是一件光荣的事,当然,这同时也是一个巨大的挑战。

(一)语言障碍

中国文学,尤其是中国古代文学,在越南大学历来都是一门让所教之人头疼,让所学之人头疼的课程。对越南学生来说,能够理解本国的古代文学作品已经非易事,更何况要面对的是中国古代的文学作品。同样的,教师也不得不面对教什么和怎么教的问题。

产生这样的问题,有诸多原因。但其中十分重要的一个就是语言障碍。虽然越南学生必读的中国古代文学作品基本上都是越南文译本,但是,语言背后的文化背景、思维方式对他们来说还是陌生的。

文学的学习当然离不开对这种文学所使用的语言的掌握。笔者所在职的越南胡志明师范大学语文系,在这方面就有充分的认识。我校学生在一年级就必修古代汉语。而在进入中国古代文学专业学习之前则必须先修好世界文明史、东方哲学、文学理论等至关重要的课程。当然,由于越南文化和中国文化本身有千丝万缕的联系,在作品中出现的一些词汇和观念,对大多数学生来说,理解和掌握也并非难事。因此,我们在中国文学的教学中还是占有一定先机的。

然而,不得不承认的是,这些天然已掌握的东西,对深入了解中国古代文学是远远不够的。中国古代文学中蕴含的个人际遇、历史背景、哲学思考等硬件问题,已经让教师和学生疲于应付,更不用说静下心来体会这些经久传扬的文学作品之精妙意境这种软件方面的学习了。当然,这个问题在中国大学的古代文学教学中一样也是比较突出的。由此,笔者以为,这个问题是全球范围外国文学教学,尤其是古典文学教学面临的共同难题。如何解决值得我们这些从事文学教育的人深思。

(二)教材问题

教材是教和学的出发点,一套好的教材,方便教师使用,有助学生学习。好教材的编纂和选择对教授一门课程的重要性是毋庸置疑的。目前,在越南所使用的中国文学史教程,基本上是将中国教材翻译成越南语,再结合国内教学的具体情况向学生教授。这样的权宜之计是不适应中国文学史这门值得坚持教授的课程的。那么,如何编纂出一套既符合中国文学史本来面貌,又适于在越南大学使用的问题就值得深入研究和讨论了。

一般来说,编纂文学史不外以下几种方法:一是根据该国历史的发展进程,着重于每个历史阶段的著名作家和重要作品,这是偏重史的一种方法,它的好处是脉络明晰,缺点是因为文学和历史大多时候并非同步发展,如此来写文学史,容易忽略文学自身的发展规律;二是根据文学的发展脉络,着重于一个历史阶段的文学思潮和文学运动,这是偏重文学本身的方法,但由于发展阶段和历史的阶段不同,容易让读者将文学与历史割裂,从而无法形成完整的文学史观;三是根据文学体裁的形成与发展,也就是所谓“一代有一代之文学”,重点放在讨论某个历史阶段最突出的文学体裁上,但缺点就是文学体裁的发展并非是此消彼长的,脉络清晰的,而是你中有我,我中有你,混在一起的。先秦散文、汉赋、唐诗、宋词、元曲、明清小说只是大概的说法,在大学阶段研读中国古代文学,这样的认识就显得疏漏了。

这是编纂文学史是所采用的方法问题,当然,我们并不是求全责备,而是希望编纂出的文学史能占有一定的历史空间,发挥一定的能量。另外,材料的取舍也是任何一个编纂教材的学者面临的难题。而编纂外国文学史,还不得不多面对一个问题,即也许某个作家在中国文学中的地位并不突出,但是,在越南人眼中,他可能是非常有特色的或者亲切的。也就是说,在越南,我们是要编纂一本中国人的中国文学史,还是越南人的中国文学史,我想,答案是非常明显的。只不过,我们既要尽量还中国文学史的本来面貌,同时也要用我们自己的眼光去辨识讨论。

目前的情况是,越南历来在中国古代文学教学上只重视下面五个专题:1.先秦文学,包括《诗经》和诸子百家;2.屈原和《楚辞》;3.司马迁和《史记》;4.唐诗;5.明清小说。其他如汉赋、宋词、元曲等非常重要的体裁都少有问津。一些在中国文学史上地位崇高的作家或作家集团如谢灵运、贾岛、杜牧、李清照和唐宋八大家等等在越南大学课程中都乏人问津。许多著名文学作品如《孔雀东南飞》、《西厢记》等等也都被忽略。应该说,这样的文学史教学,是达不到普及知识,为进一步研究奠定基础的目的的。在具体的作家方面,如唐代大诗人白居易,他的文学地位在很多中国人的眼中是不能仅次于李白和杜甫之后的。但在日本,他就有很高的地位。在越南,白居易也有一定的知名度,但是,和日本的情况不同,白居易的《秦中吟》、《卖炭翁》、甚至《长恨歌》都不甚受欢迎。而因为越南大文豪阮攸曾有作品《龙城琴歌者》,其内容和《琵琶行》非常相似,因此,白居易的《琵琶行》成为其在越南最受重视的作品,甚至到了家喻户晓的程度。

越南自己的中国文学史教材正在酝酿中。这部新的教材,有比较高的理想,希望将文学发展和历史进程、单独的作家作品和文学思潮比较完美地结合,同时也要精简、生动、有时代感,希望更多的年轻一代能真心喜欢这门课程。同时,我们希望这部文学史能够集中反映中国文学的精粹和特色,又能符合越南人自己的审美要求。有如此的雄心壮志,接下来要面对的就是艰苦具体工作了。笔者认为,我们大可以从中国教材中汲取经验,从日本和韩国的教材中领会取舍,更可以从西方国家的教材中学习态度。

(三)学生的程度

为了不纸上谈兵,我们进行了这样一份问卷调查。根据越南学生刚进入大学,未上中国文学史前和修好中国文学史后的认识变化,请他们回答问卷中的问题。问卷中包括选择和提问两种形式,选择都是单项的。目前所收到的400份语文系大学一年级和二年级学生的问卷分析如下:

次序

问题与选项

学前

具体答案

学后

具体答案

1 你认为为什么要学中国文学?
A. 中国文明是世界最早历史最悠久的文明之一。中国文学是其组成的重要部分,是进入了解中国文明不可缺少的步骤。 39% 23%
B. 中国文学源远流长,多次多彩,影响深远。作为语文系的学生不能不学她。 25% 16%
C. 学习探讨中国文学是为了开阔眼界,增长知识,不仅是文学知识而是社会文化知识。 11% 18%
D. 通过学习研究中国文学,我可以更好地了解越南文学,因为两国文学有着密切的关系。 22% 34%
E. 其他。 3% 全选,觉得都有道理 9% 全选,觉得都有道理
2 一提到中国文学,你就会想到:
A. 中国文明,中国文化。 23% 10%
B. 自己喜爱的中国作家获作品。(提出来) 10% 唐诗、明清小说((基本上是《三国演义》和《西游记》) 19% 唐诗,明清小说(基本上是《三国演义》,《西游记》,《红楼梦》)
C. 已被改编成电影、电视剧的作品。 36% 42%
D. 那是世界最伟大的文学国度之一。 28% 29%
E. 其他。 3% 什么都没想到 0%
3) 你比较关注中国文学中的哪个阶段?
A. 古代文学 30% 24%
B. 近代与现代文学 5% 7%
C. 当代文学 16% 3%
D. 不关注阶段,只关注具体的作者,作品。 49% 60%
E. 0% 6% 每个阶段都重要
4 对下面的几个问题当中,你比较感兴趣的是:
A. 先秦文学 (《诗经》与诸子百家) 2% 2%
B. 屈原与《楚辞》 8% 6%
C. 司马迁与《史记》 18% 16%
D. 唐诗 44% 24%
E. 明清小说 28% 52%
5 你对唐诗的第一印象是:
A. 高中时候学的唐诗。 22% 10%
B. 格律(律诗) 6% 0%
C. 唐诗的艺术成就和美学价值。 22% 32%
D. 具体的作者,作品或有关唐诗的故事。 50% 59%
E. 其他。 0% 0%
6 你最喜欢的唐代诗人是:
A. 李白 69% 32%
B. 杜甫 25% 49%
C. 王维 0% 10%
D. 白居易 6% 6%
E. 其他。 0% 3% 喜欢李白、杜甫和王维/白居易三人。
7 你最难忘的是哪一首中国诗?
14% 崔颢《黄鹤楼》 27% 杜甫《茅屋为秋风所破歌》
8% 李白《望庐山瀑布》 17% 杜甫《月夜》、《登高》
8% 李白《黄鹤楼送孟浩然之广陵》 15% 崔颢《黄鹤楼》
8% 杜甫《茅屋为秋风所破歌》 15% 白居易《琵琶行》
6% 杜甫《石壕吏 8% 李白《将进酒》
3% 白居易《琵琶行》 6% 李白《望庐山瀑布》
43% 不记得或没有印象 6% 屈原《离骚》
6% 杜甫《秋兴八首》、《秋雨叹》、《登岳阳楼》、三吏;李白《黄鹤楼送孟浩然之广陵》,贺知章《回乡偶书》,张继《枫桥夜泊》,柳宗元《江雪》等等
8 中国四大名著当中你最欣赏的是:
A. 《三国演义》 17% 20%
B. 《水浒传》 3% 0%
C. 《西游记》 69% 58%
D. 《红楼梦》 11% 22%
9 你最喜欢的现代作家:
A. 鲁迅 83% 88%
B. 老舍 0% 2%
C. 巴金 3% 2%
D. 郭沫若 0% 4%
E. 其他。 14% 不知道或不喜欢 4% 不知道或都不喜欢
10 你最熟悉的中国当代作家:
A. 贾平凹 6% 6%
B. 莫言 42% 44%
C. 余华 3% 4%
D. 苏童 11% 16%
E. 其他 38% 不知道,不清楚 (30% 30% 言情小说 (9%
曹婷 (6% 金庸 (9%
琼瑶 (6%
曹婷 (6%

通过对回收的调查问卷进行分析,我们可以发现如下几个问题:

  1. 教材决定学生的程度

每个人的爱好和兴趣不尽相同。但是,通过问卷,我们不难发现学生们对中国文学,尤其是古代文学的内容基本上是一致的。以唐诗而言,在进入大学前,学生们通过初、高中阶段的学习,已经掌握了一部分唐诗的内容,这部分内容具体包括:

初中二年级(越南第7级,从这一年级开始,课本中出现中国文学部分)介绍唐诗,共五首,分别是李白《静夜思》、《望庐山瀑布》,贺知章《回乡偶书》、杜甫《茅屋为秋风所破歌》和张继的《枫桥夜泊》。初中四年级(越南第9级)开始接触中国现代文学:鲁迅《故乡》和朱光潜《谈读书》。高中一年级(越南第10级)课本中有《三国演义》(罗贯中)和唐诗三首:崔颢《黄鹤楼》、王昌龄《闺怨》和王维《鸟鸣涧》。高中三年级(越南第12级)有鲁迅《药》。另外,旧版课本中曾经选入李白《黄鹤楼送孟浩然之广陵》、杜甫《登高》、《石壕吏》和白居易《琵琶行》。只是,这些作品现在已经被调入参考书或语文精英版之专用教材中。

应该说,在初高中阶段,越南学生接触的中国文学都是比较经典和易懂的。很多学生在回答问卷中“为何喜欢李白的作品?”时,理由多是“轻快爽朗”、“容易记得”、“容易背”。根据学生的心理发展特征,这个时期不喜欢杜甫的理由应该是杜诗较长、史实性强,而且沉闷悲凉。然而,随着学生们进入大学,人生经历逐渐丰富,对这两位大诗人的认识也就发生了很大的变化。从统计数据上,我们可以看到,从进入大学前69%的学生喜欢李白,到进入大学后,只有20%的学生依旧钟情于李白,因为他们有更多的认识、更多的选择。而很多学生在比较系统地学习了中国文学后,都将票投给了杜甫,应该说这时的他们已经可以体会杜甫忧国忧民的思想和沉郁顿挫的风格。总的来说,越南大学生对唐诗的知识要比在中学阶段有一定的扩展。其中,比较值得一提的是,越南学生对崔颢《黄鹤楼》的喜爱一直没有改变,这反映了这首诗和越南文化的关系。古代越南士大夫出使中国后带回不少关于黄鹤楼的诗文,从而使越南人对黄鹤楼这一名字不再陌生。而越南近代著名诗人散沱(Tản Đà)在翻译崔颢《黄鹤楼》时使用了越南传统诗体“六八诗”这一体裁,并注入了很多个人情感,这无疑又拉近了这首诗和越南人民的距离,同时,也使这首译诗成为越南唐诗翻译史上的一大经典名作。这个现象充分证明了越南人在学习中国文学时是有强烈的选择倾向的,这在中国文学史的编纂中是不容忽视的。

同样,因为教材,越南学生对中国文学知识是相对偏颇的。初高中学生接触最多的是唐诗,所以他们只能喜欢唐诗。而且,中学接触的唐代诗人有限,主要是李杜白三人,其他非常重要的大诗人,如王维、小李杜等人学生都接触不到。这现象一直延续到大学。在大学阶段,这部分内容被有意无意地忽略。这时的学生,开始接触明清小说,也包括了小说形成与发展这一阶段所涉及到的唐传奇;然而,其他重要内容,如元曲、宋词等都被跳过。至于现代文学部分,只有鲁迅一人,而当代文学则是空白。至于学生了解的中国当代文学知识多是来自于网络或市场,如曹婷,她的《抱歉,你只是妓女》在越南翻译后较受欢迎,还被改编成剧本,在舞台上搬演。但是这个作家及其作品对大多数中国人来说是则是完全陌生的。因此,我们可以说,越南语文系的学生对中国文学史,无论是古代还是现当代都缺乏全面的了解。这既不利于学生们的深入学习,也不利于这门课程的健康发展。

  1. 影视等媒体力量

毋庸置疑,影视世界在全球任何角落都空前繁荣着。而文学和影视又有着天然的联系,并且这种联系已经对语文教育产生了巨大的影响。

应该说,很多越南学生对中国古代文学这门课的态度一开始是不够重视的,他们自以为对中国文学很熟悉,不需要教师再来啰嗦。那么,他们的知识是从哪里来的呢?抛开他们的课堂学习,绝大部分相关知识都是来自中国的电影和电视剧。调查问卷的结果显示:36%42%的大学生被问及提到中国文学时,第一印象就是那些“被改编成电影、电视剧的作品”。而这些被改编的作品良莠不齐,鱼龙混杂,更不用说一些只是“戏说”根本谈不上“解构”或“重构”的影视剧作品了。中国本土的教育人士也对这一现象深恶痛绝。其实这一现象对学生和教师都是考验:对学生而言,可以想象他们信心满满地来学习中国文学,却发现他们知道的和所要学习的却大不相同,甚至相反。因此,厚重难读的古代文学作品的学习成了他们的一大压力,而转变从荧幕上得来的观念又是一大压力;对教师而言,是痛批影视作品,敌视之,还是巧妙地运用这些作品,拉近学生和课堂教学的距离,活跃课堂教学气氛,帮助学生养成鉴赏能力,分清经典和娱乐,同样也是一种挑战。

应该说,在接触大学课程前,越南学生已经很清楚青蛇白蛇、刘关张桃园三结义、梁山泊一百单八将、孙悟空大闹天宫、宝黛钗三角恋等等。接触课程后,他们发现这些故事或者属于明清话本小说,或者属于中国古典四大名著,开始可以给这些知识建立一个网络。当然,他们还会接触更多的故事:完璧归赵、负荆请罪、鸿门宴……,也会接触不同的体裁:志人志怪、才子佳人等等。而通过形象的影视,学生们可以比较容易地把枯燥的知识识记。同时,在教师的指导下,学生也可以自己动手改编经典作品,提高艺术鉴赏力,针对现实生活,借鉴历史作品,反思和创造。这样,学到的知识才能更好地融入学生们的生活中去,教育也才能达到其教化的目的。这时影视给教学带来好影响的方面。

但是,这里值得着重指出的是,我们不否认影视的力量,可将过多的时间花在影视上是不可取的。因为文学作品是用优美的语言构成,而语言之精妙,意境之优美是影视很难完全表现的,必须通过阅读,特别是朗读才能真正心领神会。当然,朗读也是学好文学的不二法门。遗憾的是,大部分学生在之前的学习中并没有养成朗读的习惯,那么,在实际的课堂教学过程中,教师就应该强调这个问题,使学生对文学的理解从文字层面提高到心灵层面——这唯有朗读可以达到。

  1. 结语

语文教材的改革一定是从教材出发的,因为教材体现着编纂者的要求和期许。那么,我们这些语文教育工作者,现在需要向自己发问,我们的要求为何?期许为何?这些问题,具体在中国文学史教材的编纂中,那就是我们该如何选择和平衡不同的编纂思路,选择和平衡中、越,选择和平衡教师、课本和学生。

目前,世界教育改革都向着这样一个方向,即“民族和现代”。我想,这一原则于社会科学上尤为适用。民族意味着不妄自菲薄,现代意味着胸襟开阔。在此,我们希望通过更多的学习交流,了解切磋,最后琢磨出一套相对有效的“民族与时代”并存的教学理念和方法。最后,我想窃用鲁迅先生的名言将这种理念定义为——拿来主义。

 

11150201_714535528655618_5224615390302694634_n

 

 

Ang Lee Film studies Nghiên cứu khoa học Thinking Văn học & Điện ảnh Văn học Trung Quốc

Nhìn lằn ranh giữa văn học và điện ảnh qua “Sắc, giới”

  1. Sự trung thành về nội dung, sự “phản bội” về cảm xúc

sacgioilust_caution01

Truyện Sắc, giới chỉ dài khoảng chưa đầy ba mươi trang, còn phim Sắc, giới dài đến một trăm năm mươi phút. Nếu tính theo cách tính phổ biến nhất của các nhà biên kịch, mỗi phút một trang, một trăm năm mươi phút tương đương với một trăm năm mươi trang. Đạo diễn Lý An cùng hai biên kịch Vương Huệ Linh – James Schamus đã phải nỗ lực rất nhiều để có thể vừa trung thành với nội dung chính ban đầu, vừa xây dựng được một bộ phim hấp dẫn. Rất nhiều tình tiết không có trong nguyên tác được thêm vào. Tuy nhiên, đây không phải là những sáng tạo hoàn toàn mới, mà có thể coi là phần cụ thể hóa những lời nói đầy ẩn ý của tác giả Trương Ái Linh, hoặc cũng có thể coi là một động tác chi tiết hóa những vấn đề chỉ được đề cập một cách hết sức sơ lược trong tác phẩm.

Cả truyện và phim đều bắt đầu và kết thúc bằng cảnh chính là đánh mạt chược. Tóm tắt nội dung không có gì khác biệt. Phim còn cố tình trung thành với truyện đến từng chi tiết rất nhỏ: chiếc rèm cửa dày in hình cỏ phượng vĩ trong phòng khách, kiểu tóc và kỳ bào lụa xanh óng ả của nhân vật chính, quán Thục Du, đường Phúc Khai Sâm v.v… Dù vậy, cảm xúc nghệ thuật được thể hiện trong hai tác phẩm truyện và phim hoàn toàn không giống nhau. Nếu về mặt nội dung, phim được coi như “trung thành” với nguyên tác, thì trên phương diện cảm xúc, đó là sự “phản bội”.

Sự phản bội về cảm xúc ở đây, trước hết là cảm xúc của nhân vật chính Vương Giai Chi.

Vương Giai Chi của Lý An thuần khiết, yếu đuối, đơn giản và chân thành. Nàng có yêu tên Hán gian không? Câu trả lời dường như chắc chắn. Nàng chẳng qua cũng chỉ là một trong những cánh hồng bạc phận giữa sóng gió thời đại. Tất cả những quyết định của nàng, đều do dòng đời đưa đẩy. Dòng đời đẩy nàng từ Quảng Châu đến Hương Cảng, đưa nàng tới nhóm kịch sinh viên ái quốc với những vai diễn non nớt, rồi cuốn nàng vào màn kịch định mệnh: quyến rũ tên Hán gian họ Dị. Chính vì non nớt, nên nàng không thể tách bạch giữa kịch và đời. Nàng yêu hắn, như một điều hiển nhiên. Rất nhiều tình huống trong phim đã được dựng lên, chỉ để hợp lý hóa tình yêu giữa người đẹp và Hán gian. Vương Giai Chi của Lý An chưa bao giờ có sự chủ động trong cuộc sống của mình. Nhưng khi yêu, nàng bắt đầu tự quyết định. Nàng chủ động trong việc thả Dị tiên sinh đi, dùng cái chết của mình cùng nhiều người khác để bảo vệ tình yêu.

Vương Giai Chi của Trương Ái Linh lại hoàn toàn khác. Sắc sảo và khờ dại, tỉnh táo và huyễn hoặc, khao khát hư vinh và cảm giác tự ti… Vương Giai Chi của Trương Ái Linh mang trong mình tất cả những mâu thuẫn của chính tác giả. Nàng có yêu ngài Dị không? Câu trả lời là chính nàng cũng không biết. Nàng không chắc về mỗi cảm xúc mình có, mỗi hành động mình làm, mỗi điều đang diễn ra… Nàng lạc lõng giữa thế giới và thời đại của nàng. Nàng muốn làm điều gì đó để chứng tỏ mình, nhưng nàng lại không hề biết được ý nghĩa của nó. Nàng tự huyễn hoặc mình trong sự hy sinh và tình yêu mơ hồ. Tình yêu của nàng đối với ngài Dị không mạnh bằng mong muốn ngài Dị yêu nàng, và nàng tự đánh lừa cảm xúc của mình. Trong trái tim nàng chỉ có hai sắc thái rõ rệt nhất: chìm đắm trong những ảo tưởng về mình, cùng nỗi cô đơn.

Sự “phản bội” cũng thể hiện trong sự phản ánh cảm xúc của ngài Dị.

Đàn ông nông nổi giếng thơi,

Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.

Câu ca dao quen thuộc này của Việt Nam, thú vị thay, lại có thể giúp chúng ta khái quát “ván bài” “Sắc, giới” của Vương Giai Chi và ngài Dị qua ngòi bút của Trương Ái Linh.

Nàng trước lúc chết nhất định hận ông ta. Nhưng “vô độc bất trượng phu”. Nếu ông ta không tàn nhẫn, nàng chưa chắc đã yêu. (…) Ông ta không lạc quan về thời cuộc. Biết tương lai ra sao? Có một người tri kỷ, chết cũng không nuối tiếc. Ông ta cảm thấy bóng dáng nàng sẽ mãi mãi ở bên cạnh, an ủi mình. Dù nàng hận ông, nhưng tình cảm cuối cùng nàng dành cho ông mạnh đến mức vượt qua tất cả các tình cảm khác, không liên quan gì đến những tình cảm khác, chỉ đơn thuần là tình cảm. Quan hệ giữa họ là quan hệ nguyên thủy của thợ săn với vật bị săn, giữa hổ với trành, là quan hệ chiếm hữu cực điểm. Như nàng mới đúng sống là người của ông, chết là ma của ông.1 Mật vụ họ Dị không hề yêu Vương Giai Chi. Ông ta chỉ muốn dùng nàng để chứng minh sức hấp dẫn ở độ tuổi ngoài tứ tuần của mình, trong khi trên thực tế, ông ta chỉ là một người đàn ông trung niên, thấp, gầy và hói. Hành động của nàng khiến ông ta hoan hỉ say sưa với chính mình trong chiến thắng, chứ không hề cảm động. Trành là gi? Theo truyền thuyết xưa, người đầu tiên bị hổ cắn chết sẽ hóa thành trành, một dạng quỷ theo giúp hổ hại thêm người khác. Vương Giai Chi chính là “trành” của ông ta, bị ông ta cắn chết, đồng thời cũng nộp thêm mạng sống của đồng đội. Dưới ngòi bút sắc sảo của Trương Ái Linh, sự tàn nhẫn, ích kỷ, vô tình, thậm chí là vô sỉ của mật vụ họ Dị đã bị đẩy lên đến cực điểm.

Ngay từ việc chọn Lương Triều Vỹ vào vai Dị tiên sinh đã cho thấy đạo diễn Lý An lý giải nhân vật này theo cách hoàn toàn khác. Một người đàn ông lạnh lùng song không dấu được vẻ phong lưu đa tình. Những chi tiết như Dị tiên sinh cố tình cho Vương Giai Chi thắng trên bàn mạt chược, sau đó hẹn nàng đến chỗ vắng người để tiện bề tâm sự; Dị tiên sinh rơi nước mắt khi nghe nàng hát; Dị tiên sinh tặng nàng một bất ngờ khi đưa danh thiếp cho nàng đến tiệm kim hoàn chọn nhẫn… và đặc biệt chi tiết cuối cùng, Dị tiên sinh thẫn thờ vuốt tấm khăn trải giường trong căn phòng của Vương Giai Chi sau khi nàng bị hành quyết đã cho thấy Hán gian cũng có tình người. Điều này khác hẳn với thái độ trơ trẽn của ngài Dị trong tiểu thuyết: “Ông ta nhắc nhở mình phải bảo vợ nói năng cẩn thận: cái cô “Mạch phu nhân” kia nhà có việc gấp, đã vội trở về Hương Cảng. Đều do bà đưa sói vào nhà!(…) Phải dọa cho bà ấy sợ, đỡ việc sau này nghe cái miệng Mã phu nhân hớt lẻo, quay ra làm mình làm mẩy với ông ta.2

Sự “phản bội” về cảm xúc của hai nhân vật chính đã khiến cảm xúc của đối tượng tiếp nhận nghệ thuật – độc giả và khán giả – đối với tác phẩm cũng hoàn toàn thay đổi.

  1. Ranh giới giữa văn học và điện ảnh

2.1. Thế giới quan, nhân sinh quan:

Tiểu thuyết luôn thể hiện thế giới quan của người viết, tác phẩm điện ảnh lại thể hiện nhân sinh quan của đạo diễn. Để một tác phẩm chuyển thể thành công, cần rất nhiều yếu tố, nhưng để tác phẩm chuyển thể trung thành với nguyên tác, yếu tố đầu tiên chính là sự tuơng đồng về thế giới quan, nhân sinh quan của tác giả và đạo diễn.

Lý An trong một lần trả lời phỏng vấn đã cho biết: “Đọc xong tiểu thuyết, có thể thấy sát khí rất nặng nề, làm sao để có được tình cảm từ trong bầu không khí ấy, làm sao để có thể bước ra một cách toàn vẹn, đây là một vấn đề hoàn toàn không dễ dàng. Sát khí cũng là một trong những nguyên nhân thu hút chúng ta, chúng ta bước vào đó, như dạo một vòng trong địa ngục rồi đi ra, cảm thấy cuộc sống này vẫn còn hy vọng, con người vẫn còn có tình người, đây là một vấn đề hoàn toàn không dễ dàng.” 3Nhà văn nữ Tu Lan từng viết về Thượng Hải và những người con gái Thượng Hải trong thập niên 30 của thế kỷ XX như sau: “Những người con gái của năm 1930 đều mang những cái tên đẹp đẽ. Tôi thích nhất là Quách An Từ và Lý Thụy Sơ. Điều kỳ lạ là nhìn họ lúc nào cũng có chút sát khí, có thể vẻ đẹp cũng chính là một duyên cớ. Thượng Hải là một thành phố mang sát khí. Vũ khí của nó không phải là binh khí sắc bén, mà là những ống trúc chọc thủng các cửa sổ bằng giấy để thổi mê hương vào căn phòng trong các bộ tiểu thuyết cổ, hoặc như loại độc dược mà Lam Phượng Hoàng đã dùng trong “Tiếu ngạo giang hồ”. Lam Phượng Hoàng trong tiểu thuyết giống như một sát thủ chuyên nghiệp. Quách An Từ là thiên kim tiểu thư của tổng giám đốc công ty Vĩnh An, một cô gái rất thời thượng; còn Lý Thụy Sơ là một cô gái thường dân. Nhưng họ đều bị nhiễm vẻ đẹp cũng như sát khí của thành phố này. ” 4

Lý An dường như đã lĩnh hội được cái “sát khí” trong văn Trương Ái Linh – một phụ nữ Thượng Hải điển hình, cũng như cảm nhận được “sát khí” trong bầu không khí của đô thị hoa lệ Thượng Hải, chính vì vậy mà ông xây dựng bộ phim theo một màu sắc âm u – những sắc màu trung và âm tính, chỉ duy nhất viên kim cương hồng lóe lên như một biểu tượng của hy vọng và tình yêu, trước khi tắt hẳn trong màn đêm.

Dị tiên sinh (Lương Triều Vỹ đóng) trong phim đã từng nói với Vương Giai Chi (Thang Duy): “Tất cả những người tôi đã gặp… trong mắt họ, tôi đều thấy hiện lên một điều giống nhau – Sợ hãi. Cô không giống những người khác, không sợ hãi, phải vậy không?” (Phút thứ 51:25) Bản thân Lương Triều Vỹ cũng đã diễn rất thành công nỗi sợ hãi trong lòng một tên Hán gian: dáng đi khom khom, vai rút lại, luôn di chuyển với tốc độ nhanh nhất; mỗi lời nói ra đều phải đắn đo một vài giây để thăm dò đối phương; đầu mày cau lại, kìm nén sự căng thẳng bên trong, ngay cả khi chơi bài, uống trà, trong xe hơi, hay trên giường ngủ… Đặc biệt là ánh mắt sâu thẳm lúc nào cũng bất an… Sau ba năm gặp lại, ngài Dị nói cùng Vương Giai Chi: “Em cũng đã khác xưa”. Đôi mắt Vương Giai Chi ba năm sau cũng trở thành một đôi mắt thăm thẳm ẩn chứa nhiều tâm sự. Đó là những lợi thế hình ảnh đập vào mắt người xem mọi lúc mọi nơi mà tiểu thuyết không bao giờ có được. Lý An đã tốn nhiều công sức để dựng nên từng chi tiết nhỏ nhất góp phần hoàn thiện những màn kịch làm thót tim khán giả, từ từ dẫn khán giả vào sống cùng với tâm trạng nhân vật trên màn ảnh.

Tuy vậy, thời đại khác nhau khiến điểm nhìn của tác giả và đạo diễn không hoàn toàn thống nhất. Trương Ái Linh nhìn thời đại của Vương Giai Chi với tư cách một người trong cuộc, còn Lý An lại nhìn với tư cách một người chiêm nghiệm lịch sử.

Trong trang viết của Trương Ái Linh quả có thấm đẫm không khí nặng nề u uất mà nhiều người gọi là “sát khí”, song hoàn toàn không có nỗi sợ hãi. Chúng tôi tin rằng, trong thời đại rối ren mà bà đã sống, sinh mệnh con người hết sức mỏng manh, vận mệnh con người cũng vô cùng khó lường, nhưng cuộc sống vẫn diễn ra như nó vốn thế, và mỗi người vẫn sẽ sống với đầy đủ các sắc thái cảm xúc của mình, chứ không chỉ có nỗi sợ hãi. Trịnh Bình Như, nhân vật được coi là nguyên mẫu của Vương Giai Chi trong truyện, là người rất biết thưởng thức cuộc sống qua từng chi tiết. Theo như lời nhân chứng kể lại, trước khi bị hành quyết, cô ngửa đầu lên ngước nhìn bầu trời xanh thăm thẳm, sau đó nói với người cầm súng – đặc vụ tên Lâm Chi Giang: “Thời tiết đẹp thế này, địa điểm đẹp thế này, thanh thiên bạch nhật, hồng nhan bạc mệnh, đành nhắm mắt xuôi tay! Chi Giang, chúng ta cũng có thể coi là người quen biết. Nay nếu muốn cùng chạy trốn, hãy còn kịp. Còn nếu anh đã nhẫn tâm, thì cứ nổ súng đi! Nhưng tôi xin anh, đừng hủy hoại dung nhan mà tôi bấy lâu gìn giữ!” Chỉ mấy lời cuối này cũng đủ khắc họa chân dung tính cách một cô gái Thượng Hải điển hình bên trong người nữ tình báo dũng cảm – một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu cái đẹp.

Với Vương Giai Chi của Trương Ái Linh, dù đang làm một nhiệm vụ sinh tử, nhưng cái nàng chú ý đến vẫn là những chi tiết rất đời thường: phong vị của một quán cà phê, mùi thơm của nước hoa, lời người đàn ông hứa sẽ mua cho nàng chiếc nhẫn (và nàng băn khoăn mãi, không biết có nên nhắc nhở về lời hứa ấy hay không), cái nhìn của người xa lạ, ma-nơ-canh trong tủ kính bên đường, chong chóng đủ màu trên chiếc xe kéo v.v… Nàng sống cuộc sống của nàng, với những mối quan tâm riêng, nhỏ bé, nhưng quan trọng, quan trọng hơn cả đại cuộc.

Thời gian trong mắt Vương Giai Chi của Trương Ái Linh vừa là thời gian thực tại, vừa là thời gian trong quá khứ. Nàng dùng thực tại để chứng tỏ chính mình trong quá khứ, để gỡ gạt những sai lầm tưởng như không còn có thể cứu vãn… Trong cùng một hành động của nàng, có thể thấy cùng một lúc bóng dáng của quá khứ và hiện tại, với những sắc thái tâm lý tình cảm phức tạp. Lý An, với tư cách một người chiêm nghiệm lịch sử, lại diễn giải thời gian theo chiều vốn có, lấy quá khứ làm nền tảng để lý giải cho hiện tại.

Hình ảnh nhân vật Vương Giai Chi của Lý An có thể coi như hình mẫu người tình lý tưởng trong mắt nam giới: thuần khiết, xinh đẹp, gợi cảm, thông minh nhưng không cơ trí, sống chết vì tình yêu. Vương Giai Chi của Trương Ái Linh lại khó hiểu và có phần đỏng đảnh như chính một nửa còn lại của nhân loại, với những mâu thuẫn nội tâm gay gắt song xét cho cùng lại chẳng đâu vào đâu. Hình ảnh mật vụ họ Dị trong tác phẩm của Lý An dường như đã trở nên hấp dẫn hơn so với nguyên tác, là người hiểu thời cuộc song bị chi phối bởi thời cuộc, có cảm xúc song phải buộc lòng kìm nén cảm xúc. Trong khi đó, ngài Dị dưới ngòi bút Trương Ái Linh hoàn toàn khác: mưu mô, máu lạnh, thậm chí là không còn nhân tính.

Lý An thương cảm cho sự bất lực của con người, Trương Ái Linh giễu cợt sự ngây thơ của con người. Lý An tin vào tình yêu, cảm xúc, lương tri. Trương Ái Linh lại như muốn lật tẩy và phơi bày những góc tối tăm nhất của tâm hồn. Về phương diện này, có thể nói Sắc, giới của Lý An và Sắc, giới của Trương Ái Linh là hai thế giới khác hẳn nhau.

2.2. Ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ điện ảnh:

Ranh giới giữa văn học và điện ảnh không chỉ thể hiện qua yếu tố thời đại hay góc nhìn, quan trọng hơn, nó thể hiện qua những điều có thể và không thể phản ánh bằng ngôn ngữ văn học hay điện ảnh.

Hình ảnh sống động là ưu thế lớn của điện ảnh. Trong phần trên, chúng tôi đã giới thiệu sơ qua về những hình ảnh trực tiếp đập vào mắt người xem, khiến bộ phim không cần giải thích dài dòng cũng có thể đưa tới những thông điệp đặc biệt về cảm xúc hiện hữu của nhân vật. Tuy vậy, điện ảnh lại gặp thách thức lớn trong việc phản ánh những mâu thuẫn và xung đột tâm lý bên trong nhân vật. Cần rất nhiều tình huống và tình tiết để diễn giải vấn đề. Trong khi đó, thông qua bút pháp, văn học có thể cùng một lúc kết hợp cả tâm lý, cảm xúc, hồi ức lẫn sự bổ trợ tương tác của cảnh sắc hay khung cảnh xung quanh nhân vật để thể hiện sự giằng xé hay bứt phá nội tâm.

Một trong những chi tiết đắt giá nhất chỉ có thể diễn tả bằng ngôn ngữ, đó chính là những giây phút cuối cùng ngài Dị ở bên Vương Giai Chi: “Cái cười của ông ta lúc này không chút nhạo báng, chỉ là vương một nỗi buồn. Bóng ông nghiêng nghiêng trước ngọn đèn, ánh nhìn không đặt vào đâu, làn mi như cánh con ngài trắng ngà đang đậu xuống nghỉ ngơi trên khuôn mặt xương xương. Trong mắt nàng, đó là một vẻ dịu dàng đáng thương. Người đàn ông này yêu mình. Nàng chợt nghĩ. Trong tim chấn động, như mất đi cái gì.5 Vương Giai Chi, trong giờ phút quan trọng nhất, chợt nhận ra tình yêu (song đáng thương thay, đó cũng chỉ là sự tự huyễn hoặc mình của một con người lạc lõng giữa thời cuộc). Tính bất ngờ của câu chuyện cũng như giá trị nghệ thuật của tiểu thuyết đã được được thể hiện rõ nét. Những xao động và xung đột tâm lý dễ dàng hiện ra trên trang giấy qua vài nét bút, nhưng lại là một việc cần nhiều công phu đối với điện ảnh. Để có thể diễn tả được tính hợp lý trong quyết định của Vương Giai Chi – thả mật vụ họ Dị chạy thoát, khiến tất cả bạn bè cùng chính nàng sa lưới, Lý An đã phải thêm thắt rất nhiều tình huống không có trong nguyên tác. Trong truyện, Vương Giai Chi chủ động đưa ngài Dị đến tiệm kim hoàn được chọn sẵn làm địa điểm mưu sát để sửa hoa tai, sau đó họ Dị mới đề nghị mua luôn một chiếc nhẫn kim cương tặng nàng làm kỷ niệm. Mọi việc diễn ra bình thường, vẫn là một màn kịch, cho đến phút quyết định không lường trước được của Vương Giai Chi. Trong phim, họ Dị đã tặng cho người tình một sự bất ngờ, khi bảo nàng đưa danh thiếp của mình đến tiệm kim hoàn, sau đó chủ tiệm kim hoàn mới giới thiệu món quà mà Dị tiên sinh muốn nàng nhận – một cách đầy kịch tính. Có thể thấy những biến đổi tình cảm phức tạp của Vương Giai Chi, từ lo lắng, sợ hãi đến bất ngờ và cảm động. Để có được trường đoạn này, bộ phim đã phải đệm thêm nhiều cảnh khác trước đó với mục đích lý giải mạch cảm xúc của nhân vật chính. Ba cảnh nóng của phim chính là để phục vụ cho mục đích này. Thông qua tư thế, xúc cảm của hai nhân vật trong những cảnh nóng, đạo diễn gửi gắm một thông điệp: mật vụ họ Dị đã dần dần cởi bỏ sự sợ hãi, căng thẳng, đề phòng của mình để mở cửa lòng cho Vương Giai Chi bước vào; ngược lại, Vương Giai Chi từ thế bị động đã dần trở nên chủ động trong quan hệ với kẻ thù, thậm chí ngay cả lúc có cơ hội, nàng cũng không giết hắn. Tuy vậy, yếu tố then chốt bộc lộ tình cảm thật của hai người không nằm ở những cảnh nóng, mà thể hiện trong cảnh Vương Giai Chi hát cho mật vụ họ Dị nghe. Lời hát Thiên nhai ca nữ vừa kết thúc cũng là lúc họ Dị ứa nước mắt và đưa tay nắm lấy tay nàng. Có thể thấy sau những cố gắng hòa hợp về mặt thể xác, cuối cùng hai nhân vật chính trong phim cũng đã đạt đến sự hòa hợp cả về tinh thần. Quyết định cuối cùng của Vương Giai Chi là kết quả của một quá trình dài suy nghĩ, đấu tranh và cuối cùng chấp nhận số phận. Tất cả diễn ra một cách hợp tình hợp lý.

Tiếc thay, những nỗ lực của đạo diễn khi lý giải bút pháp của nhà văn, cuối cùng lại đẩy bộ phim đi càng lúc càng xa ý đồ nghệ thuật ban đầu. Đó là vấn đề của hầu hết các bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết, đặc biệt từ những tiểu thuyết mang giá trị văn học cao như Sắc, giới. Chung quy cũng do điện ảnh và văn học luôn được diễn đạt bởi thứ ngôn ngữ nghệ thuật khác hẳn nhau. Tinh hoa của bộ phim thường là những khoảnh khắc làm rung động lòng người. Tinh hoa của tiểu thuyết lại nằm trong những ngôn từ khắc họa tâm lý nhân vật tinh tế và sắc nét.

Cùng là Sắc, giới, nhưng Trương Ái Linh nhấn mạnh vào “Giới”, còn Lý An tập trung vào “Sắc”.

Giới” của Trương Ái Linh, không phải chỉ là thận trọng, đề phòng, mà còn có một nghĩa khác là “chiếc nhẫn”. Chiếc nhẫn xuyên suốt tác phẩm, là một lời hứa, là một giấc mơ, là một đạo cụ đắt tiền nhưng chỉ được sử dụng trong phút giây ngắn ngủi trên sàn diễn, là ánh hào quang trong thoáng chốc, như một minh chứng cho những cảm thức vinh hoa vô nghĩa trong đời người. “Giới” ở đây, nếu được hiểu như một động từ có nghĩa “đề phòng”, thì cũng không phải là đề phòng “sắc”, mà là đề phòng những dục vọng nói chung trong sâu thẳm lòng người.

Sắc” của Lý An là yếu tố xuyên suốt tác phẩm điện ảnh. Đó là nỗi khát khao, là những âm mưu, là sự giải thoát. Không thể phủ nhận yếu tố “Sắc” đã khiến cho sản phẩm mang tính thương mại cao hơn hẳn. Tuy vậy, sự diễn giải mang đậm tính chất cá nhân của đạo diễn đã biến Sắc, giới điện ảnh thành một sản phẩm có phần xa lạ với tiểu thuyết ban đầu.

Thiết nghĩ, lằn ranh giữa văn học và điện ảnh tuy mong manh, song lại khó vượt qua hơn cả trùng trùng thành lũy. Cuối cùng, cái đọng lại trong lòng người không phải là “sắc” hay “giới”, mà chính là những cảm xúc thăng hoa sau khi thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật. Đó mới thực sự là điều quan trọng.

Tài liệu tham khảo:

  1. Ấn khắc văn học sinh hoạt chí, Đài Loan, tháng 8/2007.

  2. Tu Lan, Ván cờ của hồ ly, đăng trong tạp chí Vạn Tượng, Thượng Hải, tháng 11/1998.

  3. Trương Ái Linh, (Phan Thu Vân dịch), Sắc, giới, NXB Trẻ, Tp.HCM, tháng 1/2009.

  4. Sắc, giới (Lust, Caution), Haishang Films phát hành (liên kết với Focus Features và River Road Entertainment), 2007.

1 Trích trong “Sắc, giới”, NXB Trẻ, Tp. HCM, 2009.

2 Trích trong “Sắc, giới”, NXB Trẻ, Tp. HCM, 2009.

3 Trích trong “Ấn khắc văn học sinh hoạt chí”, Đài Loan, tháng 8/2007.

4 Trích trong “Ván cờ của hồ ly”, đăng trong tạp chí “Vạn Tượng”, Thượng Hải, tháng 11/1998.

5 Trích trong “Sắc, giới”, NXB Trẻ, Tp. HCM, 2009.

 

Phan Thu Vân, Nhìn lằn ranh giữa văn học và điện ảnh qua Sắc, giới, Hội thảo quốc tế “Những lằn ranh văn học”, NXB Đại học Sư Phạm TP.HCM, 23/12/2011.

Phan Thu Vân, Lằn ranh giữa văn học và điện ảnh qua Sắc, giới, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 1 (491) tháng 1/2013, trang 116 – 125.

http://hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=6769%3Anhin-ln-ranh-gia-vn-hc-va-in-nh-qua-sc-gii&catid=4130%3Avan-hoc-nuoc-ngoai&Itemid=7244&lang=zh&site=30

Literature Nghiên cứu khoa học Văn học Văn học Nhật Bản Văn học Trung Quốc

NHÂN TỐ VĂN HÓA TRUNG QUỐC TRONG “NGUYÊN THỊ VẬT NGỮ” (TRUYỆN GENJI) VÀ Ý NGHĨA VĂN HỌC CỦA NÓ

NHÂN TỐ VĂN HÓA TRUNG QUỐC TRONG NGUYÊN THỊ VẬT NGỮ (TRUYỆN GENJI) VÀ Ý NGHĨA VĂN HỌC CỦA NÓ

CHINESE CULTURAL FACTORS IN « GENJI MONOGATARI » AND THEIR LITERARY SIGNIFICANCE

TS. Phan Thu Vân

(Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh)

Nhật Bản và Trung Quốc có mối quan hệ giao lưu văn hóa từ hơn hai ngàn năm trước, đến đời Tùy Đường thì đạt tới đỉnh cao. Đặc biệt từ năm 630 đến năm 834, Nhật Bản đã 18 lần cử sứ thần đi sứ Trung Hoa (trong đó có hai lần do nguyên nhân đặc biệt phải dừng lại giữa chừng, mười sáu lần đi sứ thành công)1. Trong những lần viếng thăm này, các sứ thần Nhật Bản luôn ra sức thu thập kinh sách, văn chương cũng như những thành tựu văn hóa khác của nhà Đường để mang về nước mình. Từ đó về sau, ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đối với đất nước Nhật Bản càng ngày càng sâu đậm. Trong Nguyên thị vật ngữ, chúng ta có thể thấy những yếu tố văn hóa Trung Hoa được Murasaki Shikibu khéo léo cài đặt ở khắp mọi nơi : từ thơ ca, điển cố, điển tích cho tới cách xây dựng nhân vật, tình tiết, hình thức truyện; từ những nhu yếu phẩm hàng ngày cho tới tâm tư tình cảm của nhân vật và tư tưởng chung của tác phẩm…

Nếu Nguyên thị vật ngữ được ví tựa một bức tranh cuộn khổng lồ, gói gọn trong lòng nó tất cả phong hoa tuyết nguyệt của đất trời, cảm hứng lãng mạn, tình yêu thiên nhiên và ý thức thẩm mỹ đặc biệt của người Nhật Bản, thì yếu tố văn hóa Trung Hoa trong tác phẩm hiện hữu như những chiếc quạt đề thơ không thể thiếu trên tay của bất kỳ nhân vật nam thanh nữ tú nào từng được phác họa. Đó là biểu tượng của sự tao nhã, của kiến thức, của tiềm thức Trung Hoa đã ăn sâu vào tâm hồn Nhật Bản.

  1. Ảnh hưởng của thơ Bạch Cư Dị đối với Nguyên thị vật ngữ:

Đọc Genji, cảm nhận rõ nhất về ảnh hưởng của văn học Trung Quốc đối với tác phẩm này chính là những câu thơ của Bạch Cư Dị, cứ chốc chốc lại lướt qua trước mắt người đọc, như những cánh hoa anh đào mỏng manh lớt phớt bay theo chiều gió.

Murasaki Shikibu đã dành một sự ưu ái đặc biệt cho thơ Bạch Cư Dị. Ngay trong đoạn Genji chuẩn bị hành trang đi Suma, tác giả đã viết: “Chàng chỉ đưa đi những thứ cần thiết đơn giản nhất cho đời sống thôn dã, trong đó có một hòm sách gồm những tập thơ của Bạch Cư Dị và các nhà thơ khác, và một cây đàn thất huyền Trung Hoa. Chàng thận trọng tự kiềm chế không mang theo bất cứ thứ gì có thể để lộ chàng không phải là kẻ thôn dã vô danh.”2 Sở thích của nhân vật chính dường như không chỉ phản ánh sở thích của chính tác giả, mà còn phần nào nói lên được thị hiếu và khuynh hướng thẩm mỹ trong xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ.

Tác phẩm Bạch Cư Dị được trích dẫn nhiều nhất trong Nguyên thị vật ngữTrường hận ca – câu chuyện về mối tình diễm lệ mà ai oán của Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi. Không chỉ đơn thuần đưa ra những lời thơ Trung Hoa để tô điểm thêm thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết, Murasaki Shikibu dường như còn mượn cả cấu tứ và tư tưởng của bài thơ làm cảm hứng cho mình.

Trường hận ca mở đầu bằng “漢皇重色思傾國,御宇多年求不得。楊家有女初長成,養在深閨人未識。” (Đức vua Hán mến người khuynh quốc, Trải bao năm tìm chuốc công toi. Nhà Dương có gái mới choai, Buồng xuân khóa kín chưa ai bạn cùng. Lạ gì của tuyết đông ngọc đúc, Chốn ngai vàng phút chốc ngồi bên. Một cười trăm vẻ thiên nhiên, Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son.3)

Nguyên thị vật ngữ cũng bắt đầu bằng sự sủng ái đặc biệt của đức vua đối với nàng Kiritsubo no Koi, khiến tất cả hậu cung đều ghen tỵ: “Thuở xưa, dưới triều một ông vua nọ, có một nàng thứ phi, tuy dòng dõi không đệ nhất thế gian, nhưng được nhà vua hết mực yêu thương. Thấy như vậy, các bà khác từ hoàng hậu cho tới cung nhân đều ghen ghét nàng.”4. Khi Kiritsubo no Koi qua đời, đức vua đã chìm trong nỗi sầu não đến nỗi không thiết gì đến việc triều chính, ngày đêm tưởng nhớ người xưa: “Nhìn những vật lưu niệm do Myobu mang về, ông nghĩ ông sẽ được thư thái bao nhiêu nếu cũng như đối với vua Trung Quốc xưa, có một tay phù thủy mang tới cho ông một chiếc lược từ thế giới mà người yêu đã khuất của ông đang ở. Ông thầm thì đọc câu thơ: “Khách đạo sĩ cùng lâm có gã/ Chơi hồng đô phép lạ thần thông/ Xét vì vua chúa nhớ nhung/ Mới sai phương sĩ hết lòng ra tay.” Khả năng của người nghệ sĩ thiên tài nhất cũng có giới hạn mà thôi. Nàng Quý Phi Trung Hoa trong tranh vẽ không có được vẻ lộng lẫy sinh động. Người ta nói Dương Quý Phi giống đóa hoa sen trong đầm cao siêu, giống cây liễu của hồ vĩnh cửu. Chắc hẳn nàng đẹp như là gấm vóc. Khi ông cố nhớ lại vẻ đẹp kín đáo của người thứ phi, ông nhận ra rằng không một màu hoa nào, không một tiếng chim ca nào có thể gợi lại hình ảnh nàng. Hết sáng lại đêm, dứt thôi lại nối, họ đã cùng nhắc đi nhắc lại mấy câu trong “Trường hận ca”: “Xin kết nguyện chim trời liền cánh/ Xin làm cây cành nhánh liền nhau.” Họ thề non hẹn biển là thế, nhưng cuộc đời ngắn ngủi của nàng đã biến lời nguyền của họ thành giấc mơ trống rỗng.” 5

Bằng những lời dẫn dắt mang tính so sánh khá dông dài này, Murasaki Shikibu đã gián tiếp thừa nhận sự vay mượn và mô phỏng của mình đối với tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Trung Hoa – Bạch Cư Dị.

Trường hận ca chia làm hai phần: phần thứ nhất viết về việc Đường Minh Hoàng sau khi có được giai nhân thì ngày đêm chỉ biết đến nàng, bỏ bê việc triều chính, dẫn đến loạn An Lộc Sơn; phần thứ hai khắc họa tình yêu sâu đậm của đôi tình nhân, cùng sự thương nhớ đau khổ của Đường Minh Hoàng sau khi Dương Quý Phi chết. Nguyên thị vật ngữ cũng triển khai theo cách này.

Cảm xúc chủ đạo của Trường hận ca có thể chia làm hai: một mặt là sự chỉ trích ngấm ngầm của Bạch Cư Dị đối với lối sống hoang dâm vô độ của bậc đế vương dẫn đến cảnh nước mất nhà tan, thể hiện cái nhìn đầy trí tuệ của tác giả về sự thịnh suy của thời cuộc; mặt khác lại là sự cảm thương cho một tấm chân tình. Nguyên thị vật ngữ ngay trong chương đầu tiên đã dẫn câu chuyện này ra như một tấm gương nhãn tiền: “Người thì nói có lẽ mọi sự đều do tiền định, nhưng trước đây ông đã làm ngơ trước mọi sự xì xào bàn tán, và đã nhắm mắt trước sự oán hận và để cho sự việc muốn đến đâu thì đến, còn bây giờ, bây giờ ông lại lơ là việc nước – như vậy, hai đường, đường nào cũng quá đáng. Một số kẻ lại còn dẫn câu chuyện ông vua Trung Hoa đã mang lại sự suy vong cho bản thân mình và cho đất nước.”6 Không chỉ có vậy, Murasaki Shikibu còn thông qua cuộc sống cá nhân buông thả của ba đời, vua Kiritsubo – Genji – các con trai của Genji cùng đời sống ăn chơi hưởng lạc, tranh quyền đoạt lợi của tầng lớp quý tộc xung quanh họ, để phản ánh hiện thực đen tối của xã hội đương thời, và xu hướng đi từ thịnh đến suy của xã hội này là tất yếu. Tuy nhiên, khi trực tiếp hé lộ đời sống tâm tư tình cảm của nhân vật, ngòi bút tác giả lại có phần nương nhẹ, chiều theo, thậm chí biện hộ cho nhân vật. Genji hiện ra không phải như một Don Juan bạc tình bạc nghĩa, mà ngược lại, là một công tử hào hoa phong lưu vừa biết thương hương tiếc ngọc, vừa sống có thủy có chung. Những mối tình của chàng về bản chất là thói trăng hoa và sự tham lam vô độ, lại luôn được lý giải theo những khía cạnh lãng mạn, đẹp đẽ và thanh khiết. Vô hình chung, tác giả trở nên mâu thuẫn trong việc vừa phản ánh thân phận bọt bèo và số mệnh mỏng manh của người phụ nữ trong xã hội, lại vừa xây dựng nên một hình tượng người tình hoàn hảo chung cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp lúc bấy giờ. Về khía cạnh này, Murasaki Shikibu rất giống Bạch Cư Dị, tự chuốc mình say bằng ngôn ngữ và cảm xúc nghệ thuật của chính mình.

Khi viết về nỗi đau mất mát hay chia ly của các nhân vật, Murasaki Shikibu cũng không ngần ngại mượn cách diễn tả của Bạch Cư Dị. Bóng dáng mối tình dang dở của Đường Minh Hoàng – Dương Quý Phi được tái hiện liên tục qua ba cặp nhân vật: nhà vua và Kiritsubo no Kôi, Genji và Fujitsubo, Kaoru và Oigimi. Ngay trong cuộc chia ly vĩnh viễn giữa Genji với Aoi – người vợ lạnh lùng vô cảm của chàng, tác giả cũng không tiếc mỹ từ : “Genji đã chép và đã bỏ lại nhiều đoạn thơ cổ Trung Hoa và Nhật Bản mà chàng đã chép cả theo lối chữ chân phương lẫn chữ thảo. Chữ tuyệt diệu – ông thượng thư vừa nghĩ vừa nhìn vào khoảng không. (…) “Chiếc gối cũ, chiếc giường xưa; Cùng ai chia sẻ chúng cùng?”. Đó là câu thơ của Bạch Cư Dị, dưới đó, Genji viết câu thơ của mình: “Khóc bên gối người ra đi/ Ta rời sao nổi, có gì vấn vương.” – “Hoa trắng lạnh giữ trời sương giá”. Cũng lại là một câu thơ khác của nhà thơ, Genji ghi phía dưới, câu thơ của mình: “Giường bỏ trống bây giờ bụi phủ/ Bao đêm sương vò võ canh chầy.””7

Không chỉ có Trường hận ca, những bài thơ khác của Bạch Cư Dị cũng thường xuyên xuất hiện. Ta có thể thấy dư vị của Tỳ bà hành trong những lời hát, những bản đàn, như lúc Genji dừng lại lắng nghe lời hát của Naishi : “Có phải lời ca của cô gái về già, E-chou, cách đây đã lâu lắm, cũng có các giọng than thở như thế này?”8 ; hay trong lời đối đáp của các nhân vật: “Một trong ba người bạn được nhà thơ nói đến, mà một người phụ nữ được phép làm bạn, hai người kia thì không.9 Thỉnh thoảng cô cũng phải để ta nghe nàng chơi đàn mới được.”10 Trong chương “Akashi”, cuộc hạnh ngộ giữa Genji và nàng Akashi no kimi cũng được mở đầu bằng câu chuyện tỳ bà quen thuộc của Trung Hoa: “Ngày xưa có một nhà thơ, chắc công tử còn nhớ, rất thích thú được nghe đàn tỳ bà của người vợ một gã lái buôn…”11 Mối tình cùng người con gái chơi đàn Koto, miêu tả tinh tế về tiếng đàn của những phụ nữ trong đời Genji… nhiều khả năng cũng đã được khơi gợi cảm hứng từ tác phẩm thơ kinh điển này.

Thơ Bạch Cư Dị còn được diễn giải một cách tài tình sang văn xuôi tả cảnh. Như khi đọc đoạn Genji lần đầu tiên gặp Murasaki tại ngôi chùa trên núi : “Ngôi chùa nằm khá sâu trong vùng núi phía Bắc. Tuy rằng ở thành phố hoa anh đào đã tàn, nhưng đang tiết cuối tháng Ba, ở đây, hoa anh đào miền núi đang độ nở rộ. Khi đám người đặt chân vào dưới núi thì chàng lấy làm thích thú bước đi trong sương mù dày đặc.”12, người ta dễ dàng liên tưởng đến bài thơ : Đại Lâm tự đào hoa (大林寺桃花/ Hoa đào chùa Đại Lâm) của thi nhân họ Bạch:  “人間四月芳菲盡山寺桃花始盛開。長恨春歸無處覓不知轉入此中來(“Nhân gian tứ nguyệt phương phi tận, sơn tự đào hoa thủy thịnh khai. Trường hận xuân quy vô xứ mịch, bất tri chuyển nhập thử trung lai.” Tạm dịch: Tháng tư khắp nẻo đã phai, Hoa đào chùa núi mới bày sắc hương. Trách xuân tìm kiếm vô phương, Nào hay trở gót xuân nương chốn này.13) Ý ấy, cảnh ấy, tình ấy… minh chứng cho sự giao hòa giữa tâm hồn nghệ sĩ của hai tác giả, cho dù họ thuộc hai thời đại, hai dân tộc khác nhau.

2) Những yếu tố vay mượn từ truyền kỳ Đường của Nguyên thị vật ngữ

Truyện Trương Tiến  trong  Đường thư  chép : “新羅日本使至必出金寶購其文。” –《唐書·張薦傳》 (“Tân La, Nhật Bản sứ chí, tất xuất kim bảo cấu kỳ văn”. Tạm dịch: Sứ thần của Tân La (Tam Quốc – Triều Tiên) và Nhật Bản tới, thể nào cũng bỏ ra rất nhiều vàng bạc châu báu để mua văn của ông (chỉ Trương Trạc – ông Trương Tiến – tác giả Du tiên quật)). Trong tác phẩm nổi tiếng Du tiên quật, Trương Trạc dùng ngôi thứ nhất tự thuật việc đi qua hang thần tiên, được Thập Nương và Ngũ Tẩu nhiệt tình tiếp đón, lưu lại một đêm rồi lại lên đường. Nhan đề là “du tiên”, song nội dung lại đầy yếu tố phong tình, trần tục. Việc nam nữ gặp gỡ, tán tỉnh, yêu đương và ân ái được gói gọn trong hơn một vạn chữ, với cách diễn đạt đầy đam mê song vô cùng hàm súc. Tác phẩm này đương thời đã được truyền bá tại Nhật Bản, có ảnh hưởng vô cùng sâu sắc đến văn học Nhật. Học giả Nhật Bản Diêm Cốc Ôn (塩谷温) nhận định trong Trung Quốc văn học khái luận giảng thoại rằng Du tiên quật đã từng giữ vị trí “Nhật Bản đệ nhất dâm thư”, thể hiện rõ phong cách và trình độ của truyện truyền kỳ Đường. Có thể thấy yếu tố sắc tình trong Nguyên thị vật ngữ đậm màu sắc lãng mạn và phóng khoáng của tác phẩm truyền kỳ này.

Đặc điểm nổi bật của truyện truyền kỳ Đường là nhấn mạnh vào tính chất “kỳ” của câu chuyện. Nhậm thị truyện kể về người con gái họ Nhậm thần thông quảng đại, cuối cùng thân phận thật là một hồ ly tinh; Oanh Oanh truyện viết về mối tình với nhiều cung bậc cảm xúc của nàng tiểu thư Thôi Oanh Oanh với chàng công tử họ Trương; Lý Oa truyện cho thấy tình yêu của một nàng kỹ nữ thông minh, đầy lý trí với chàng công tử Trịnh Nguyên Hòa, con của Huỳnh Dương Công Trịnh Đảm;  Hoắc Tiểu Ngọc truyện đem đến mối hận tình cay đắng của nàng tiểu thư sa cơ lỡ vận Hoắc Tiểu Ngọc; Trường Hận Ca truyện tái hiện mối tình hoàng cung giữa Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi v.v… Từ những yếu tố “kỳ” và “dị” này, muôn mặt của cuộc sống con người hiện ra với dưới mọi sắc thái, với tất cả sự phong phú, đa dạng, tinh tế và chân thực. Lỗ Tấn từng nhận xét : “Đến đời Đường, văn nhân Trung Quốc mới có ý thức làm tiểu thuyết.” 14 Tình tiết khúc chiết, kết cấu hoàn chỉnh, nhân vật sinh động, đề tài phong phú. Nguyên thị vật ngữ đã tiếp thu được những tinh hoa trong truyện truyền kỳ Đường. Từ việc lấy những câu chuyện chốn cung đình làm trung tâm đến khát vọng theo đuổi một tình yêu vĩnh cửu, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nguyên thị vật ngữ là một bản Trường hận ca truyện phức tạp hơn và đậm chất văn hóa Nhật Bản. Riêng chúng tôi nhận thấy “Nguyên thị vật ngữ” chịu ảnh hưởng của bài thơ Trường hận ca nhiều hơn truyện cùng tên. Những tác phẩm truyền kỳ Đường thật sự góp mặt trong Nguyên thị vật ngữ bằng những tình tiết đặc sắc của mình phải kể đến Nhậm thị truyện, Ly hồn ký, Hoắc Tiểu Ngọc truyệnLý Oa truyện.

Sau khi giới thiệu mối tình sâu sắc nhưng vô vọng của nhà vua với Kiritsubo no Koi, Genji với Fujitsubo theo kiểu Đường Minh Hoàng – Dương Quý Phi, tác giả chuyển sang những cuộc phiêu lưu tình ái của Genji. Một trong những mối tình đậm chất lãng mạn và yếu tố “kỳ” của truyện truyền kỳ Đường chính là chuyện về nàng Yugao “hoa phấn”. Chàng và nàng thường gặp nhau khi màn đêm đã buông xuống, không thấy rõ mặt người. “Nàng khiếp sợ tưởng chàng là một bóng ma hiện hình như trong truyện cổ tích. Nàng không cần thấy mặt chàng cũng biết được chàng là một trang nam nhi xinh đẹp.”15 Còn chàng thì liên tưởng đến những câu chuyện về hồ ly tinh : “Trong hai ta một người ắt hẳn phải là hồ ly tinh ma quái ? Ta tự nhủ như vậy, nàng hãy khoan tâm, cứ việc nghe lời dụ dỗ của nó.”16 Dáng dấp những câu chuyện về hồ ly tinh xinh đẹp quyến rũ mà đại diện tiêu biểu là Nhậm thị truyện phảng phất trong từng lời kể. Cái chết của Yugao lại càng thần bí hơn: một bóng ma xinh đẹp nhập vào nàng, rồi vô phương cứu chữa. Bóng ma này chính là mối hận tình của nàng Rokujo tài hoa trác việt bị Genji bỏ rơi : “Đã quá nửa đêm. Chàng đã ngủ được một lúc thì bỗng một người đàn bà đẹp mê hồn hiện ra bên gối chàng. ‘Chàng không nghĩ đến tôi, thậm chí thăm tôi cũng không, còn tôi chỉ một lòng một dạ vì chàng. Chàng lại đi lang chạ với một đứa chả có gì đáng giá. Chàng độc ác, quá quắt thế là cùng.’ Mụ có vẻ như sắp sửa lay cô gái dậy (…) Nàng đang run bần bật, người ướt đẫm mồ hôi, như đang lên cơn động kinh và sắp chết ngất.”17

Tình tiết này khiến người ta liên tưởng đến đoạn kết của Hoắc Tiểu Ngọc truyện, khi nàng Hoắc Tiểu Ngọc diễm lệ và tài ba gặp lại chàng Lý Ích bạc tình : “ ‘Ta là người con gái bạc mệnh. Ngươi là gã con trai bạc tình. Tuổi thanh xuân của ta ôm hận mà chết ; mẹ hiền còn sống không thể phụng dưỡng ; cuộc sống phồn hoa trở thành tro bụi. Tất cả đều do ngươi gây ra. Lý lang ! Giờ đây xin vĩnh biệt. Sau khi ta chết sẽ biến thành quỷ làm cho vợ con ngươi sống chẳng được yên đâu !’ Nàng đưa tay nắm chặt lấy vai Lý Ích, ly rượu trên tay rớt xuống nền nhà bể nát. Nàng bật lên tiếng khóc rồi từ từ tắt thở.”18 Sau khi nàng chết, quả nhiên Lý Ích luôn sống trong nghi ngờ dằn vặt, càng lúc càng điên cuồng, dù liên tiếp lấy ba bốn vợ cũng chẳng có hạnh phúc. Trở lại với Genji, mặc dù Rokujo không chết, nhưng mối hận tình của nàng lớn đến mức không chỉ giết chết Yugao – một tình nhân thân phận tương đối thấp kém so với Genji, mà còn làm hại cả Aoi – người vợ chính thức của Genji, con gái quan Tả thừa tướng. Ly kỳ hơn, Rokujo còn mượn xác Aoi để nhập hồn mình vào, hòng được ở bên chàng : “ ‘Em đâu có mơ là đến được với chàng như thế này. Đúng thế thật : một linh hồn bị đau khổ đôi khi phải đi lang thang vật vờ’. Giọng nói nhỏ nhẹ và thân tình (…) Trời ! Không phải tiếng nói của Aoi, mà cũng không phải thái độ của nàng. Ôi chao, lạ lùng chưa ! Chàng nhận ra tiếng nói của phu nhân Rokujo. Chàng đâm kinh hoàng. (…) Giữa lúc lâu đài Sanjô hầu như vắng vẻ thì đột nhiên một lần nữa nàng lại thở gấp, đứt đoạn như bị bóp nghẹt cổ ; rồi chẳng mấy chốc một người đưa tin được phái vào triều báo rằng nàng đã chết. (…) Bởi lẽ hồn ma lại một lần nữa tác quái, cha nàng ra lệnh cứ để thi hài y nguyên trong hai ba ngày với hi vọng nàng có thể sống lại. Tuy nhiên dấu hiệu của cái chết mỗi lúc càng hiện rõ và với nỗi đau đớn mênh mông, cuối cùng gia đình phải chấp nhận sự thật.”19 Tình tiết xuất hồn để ở cạnh người yêu nhiều khả năng là sự vay mượn từ truyện truyền kỳ Đường Ly hồn ký – câu chuyện về nàng Thiến Nương20 phải xuất hồn đi theo người yêu của nàng là Vương Trụ để chống lại việc gia đình đem nàng hứa gả cho người khác.

Khái niệm « hồn sống » (ikisudama) vốn không hề xa lạ trong văn hóa Nhật Bản. Tuy vậy, phải đến Nguyên thị vật ngữ, nó mới được hình tượng hóa sống động qua hình ảnh Rokujo. Thời điểm ra đời của tác phẩm sau truyền kỳ Đường đến hàng trăm năm, và với mức độ phổ biến của văn học thời Đường tại Nhật Bản bấy giờ, chúng ta hoàn toàn có thể đặt ra giả thiết Nguyên thị vật ngữ đã mượn cảm hứng từ chính những nhân vật nữ trong truyền kỳ Đường.

Đặc biệt, chi tiết hồn ma còn tiếp tục đeo bám Genji đến cuối đời ông, ẩn hiện sau cơn bạo bệnh của Murasaki (chương 35 “Cỏ non”) và ám ảnh cả công chúa Ba (chương 36 “Cây sồi”) : “Trong lúc các thầy cúng làm lễ trừ tà, một con ma hiện lên: ‘Này, các ngươi tưởng làm lễ là đuổi được ta đi đấy hả? Không đâu, ta đã để lại mối hận ở đây !’Genji sững người. Như vậy là con ma này vẫn chưa chịu đi”21 rất giống với đoạn kết của Hoắc Tiểu Ngọc truyện. Tưởng như mối hận tình của nàng Hoắc Tiểu Ngọc và nàng Rokujo đã hòa làm một dưới ngòi bút của Murasaki Shikibu.

Lý Oa truyện với tình yêu đầy lý trí của người kỹ nữ có thể cũng đã gợi cảm hứng cho Murasaki Shikibu xây dựng nhân vật nàng “lốt ve” Utsuzemi, người duy nhất từ chối và lừa được chàng Genji hào hoa phong nhã trong độ tuổi đôi mươi: “ Lòng chàng đang oán hận người kia. Không nghi ngờ gì nữa, chắc nàng chạy trốn nấp ở đâu đó và đang hả hê với thắng lợi của mình. Nàng đã tỏ ra cương quyết khác thường. Nói ra thì cũng kỳ, chính thái độ chống đối của nàng lại khiến người ta khó quên nàng.”22 Những dòng viết về tâm trạng Genji khi bị “ bỏ rơi” hoàn toàn có thể dùng làm lời bộc bạch tâm sự của chàng Trịnh Nguyên Hòa khi bị Lý Oa cùng mẹ nàng thực hiện kế “ ve sầu thoát xác”, gạt chàng ra khỏi cuộc đời họ. Mặc dù các tình huống và nhân vật trong hai tác phẩm không hề giống nhau, nhưng ý vị và dư âm đọng lại lại vô cùng gần gũi. Cái tên Utsuzemi mà tác giả chọn cho nàng, phải chăng cũng chứa ẩn ý về kế sách “ ve sầu thoát xác” của nàng Lý Oa thuở nọ? Murasaki Shikibu đã tỏ ra rất điêu luyện trong việc hấp thu những tinh hoa văn hóa để biến nó thành nội hàm của riêng mình.

Bên cạnh những yếu tố tương đồng về nội dung, Nguyên thị vật ngữ còn có hình thức rất giống với truyện truyền kỳ Đường : sự đan xen giữa tản văn và thơ. Nguyên thị vật ngữ với chiều dài khoảng hơn 400.000 từ, được viết chủ yếu bằng tản văn, xen giữa tản văn là gần 800 bài waka. Tản văn thuật sự, waka tả tình, bổ sung cho nhau một cách hài hòa. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sự kết hợp này là do ảnh hưởng của biến văn (một hình thức giảng kinh sách tương đối thông tục đời Đường)23. Biến văn chính là một trong những yếu tố quan trọng trong việc hình thành tiểu thuyết truyền kỳ. Tuy vậy, rất khó để xác định sự ảnh hưởng đối với Nguyên thị vật ngữ trực tiếp đến từ biến văn, hay từ truyện truyền kỳ Đường. Trong Hoắc Tiểu Ngọc truyện, Oanh Oanh truyện, ta đều thấy những mối tình được dệt bằng thơ và nhạc. Nguyên thị vật ngữ cũng cho các nhân vật của mình thể hiện cảm xúc theo cách này.

Truyện truyền kỳ Đường khác với những câu chuyện dân gian hoặc chí quái, chí nhân thời Hán Ngụy Lục Triều ở chỗ, nó chủ yếu do tầng lớp văn nhân sĩ đại phu sáng tác để thể hiện tài hoa và tư tưởng của mình. Nhờ vậy, truyện truyền kỳ Đường viết về tình cảm trai gái mà không dung tục, viết về những điều cổ quái kỳ dị mà không thô lậu. Sự tao nhã tinh tế, bút pháp hư cấu tài tình khiến truyền kỳ Đường mang đậm chất văn học. Văn chương “vật ngữ ” của Nhật Bản cũng thế, đặc biệt là “ vật ngữ” giai đoạn trung kỳ trở về sau, đa phần do các tao nhân mặc khách thuộc giới quý tộc chấp bút, thể hiện phẩm vị cao nhã. Sự kết hợp của “ vật ngữ” với truyện truyền kỳ Đường đã đem lại cho sáng tác của Murasaki Shikibu một cá tính riêng, kỳ ảo, thi vị và sâu sắc.

3) Tư tưởng «Nghiệp» , «Nhân quả» và «Vô thường » trong Nguyên thị vật ngữ 

Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ, sang Trung Quốc, rồi từ Trung Quốc truyền vào Nhật Bản. Tư tưởng Phật giáo Nhật Bản có nhiều đặc trưng riêng, tuy vậy, trong Nguyên thị vật ngữ, những gì được thể hiện một cách sâu sắc nhất vẫn không ngoài “nghiệp ”, “nhân quả ” và “vô thường ” – những tư tưởng luôn được Phật giáo Trung Hoa đề cao.

“ ‘Nghe xem’ Genji nói, ‘lão đang nghĩ đến một cõi khác’. Có người niệm Phật chỉ đường/ Kiếp sau xin chớ ta nàng xa nhau” Lời nguyền trao đổi giữa nhà vua Trung Hoa và Dương Quý Phi hình như báo trước điềm gở và bởi thế chàng thích cầu nguyện thần Maitreya hơn, đức Phật của tương lai, nhưng hứa hẹn như vậy là vội vàng hấp tấp. “Kiếp xưa nặng gánh đa mang/ Còn đâu mà dám ước nguyền kiếp sau”. Lời thơ biểu lộ mối ngờ vực về “những kiếp mai sau”.”24

Nguyên thị vật ngữ luôn có xu hướng lý giải những điều không may xảy ra bằng luật “nhân quả”. Đoạn nàng Yugao “hoa phấn” chết, Genji đã rất đau khổ : “Kiếp trước chàng đã ăn ở thế nào mà bây giờ nó có thể đẩy chàng tới một nguy cơ chết người như thế này? Chàng đang bị trừng phạt vì mối tình tội lỗi – đó là lỗi của chàng chứ không phải của ai khác, và câu chuyện về chàng sẽ được nhớ với tất cả nỗi ô nhục qua những năm tháng sắp tới. Bí mật gì thì rồi cũng lộ ra, cho dầu người ta có cố che dấu.”25

Văn học Trung Quốc thường dùng “ oan gia”, “nghiệt duyên ” để chỉ tình yêu nam nữ trắc trở là do kiếp trước hoặc số phận đã an bày, đồng thời phổ biến tư tưởng “nghiệp ” và “báo ứng ”. Lời than thở của Genji khi bị Fujitsubo từ chối gặp mặt đã cho ta thấy niềm tin của chàng vào quả báo kiếp trước: “ ‘Ta tự nhủ, ta sẽ được phép gặp nàng, ở thế giới nào? Cốt lõi của sự việc quá tế nhị, khó mà nói ra. “Quả báo kiếp trước làm sao/ Cô đơn ta chịu riêng bao lạnh lùng” Ta không hiểu. Ta hoàn toàn không hiểu được’”26 Đó là sự trừng phạt, song cũng là niềm an ủi đối với chàng: “Fujitsubo mặc dầu luôn luôn lo sợ những lời đồn kháo, vẫn viết thường xuyên cho chàng. Chàng thấy mỉa mai chua chát làm sao, vì trước đây sao nàng không đáp lại mối tình của chàng? Nhưng chàng lại tự nhủ, số phận mà họ cùng nhau chia sẻ ở kiếp trước chắc đang đòi hỏi họ phải nếm cho đủ mùi cay đắng.”27

Không chỉ dừng lại ở tư tưởng tội nghiệt kiếp trước phải chịu báo ứng trong kiếp này, Nguyên thị vật ngữ còn cho sự báo ứng xảy ra ngay trong vòng đời của nhân vật. Genji lúc về già phải chấp nhận sự thật phũ phàng về việc công chúa Ba (Onna san no Miya) và Kashiwagi tư thông với nhau, sinh ra Kaoru. Đây chính là tấm gương phản chiếu những gì Genji cùng Fujitsubo – mẹ kế của chàng đã làm, đồng thời cũng là quy luật nhân quả được đẩy lên ở mức cao hơn trong tiểu thuyết. Ý thức rõ điều này, Genji quyết định bỏ qua mọi chuyện, nuôi nấng Kaoru như con ruột của mình. Hành động của Genji đã giúp chàng gột rửa được phần nào tội lỗi.

Bản thân Fujitsubo cũng ý thức duyên nợ giữa nàng và Genji là cái “nghiệp” nàng phải mang, đặc biệt từ sau khi sinh hạ hoàng tử – kết tinh từ mối tình bí mật với Genji, cảm giác tội lỗi ngày càng nặng nề hơn. “Fujitsubo có vẻ như thấy sự có mặt của chàng thậm chí như thêm một thử thách nữa, và không tỏ ra mảy may động lòng. Ngày lại ngày trôi qua, buồn bã và vô vị. Mối gắn bó giữa họ mới mong manh, phù du làm sao!”28 Cuối cùng, nàng chọn cách giải thoát tốt nhất cho mình là xuất gia, vĩnh viễn gạt bỏ những níu kéo của cõi hồng trần.

Trong Nguyên thị vật ngữ có không ít nhân vật vì bất đắc chí trong tình yêu hoặc chính trị mà quyết định lìa bỏ cuộc sống trần tục nhiều đau khổ, theo con đường xuất gia tu hành để giác ngộ chân lý, giữ cho lòng thanh thản. Như lúc Genji chứng kiến một lúc hai cái chết của hai người có liên quan mật thiết đến mình, là vợ và cha ruột, chàng đã bắt đầu có suy nghĩ về việc xuất gia : “Hai sự tổn thất kế tiếp nhau trong hai năm liền đã dạy cho chàng biết thế nào là sự phù phiếm của thế sự nhân tình… Lại một lần nữa chàng nghĩ đến chuyện xa lánh cuộc đời. Nhưng than ôi, còn biết bao duyên nợ ràng buộc chàng với trần thế.”29 Sau khi mẹ kế Fujitsubo, đồng thời là người Genji yêu sâu sắc nhất xuất gia, việc tư thông với con gái Hữu thừa tướng bị bại lộ, phải tự lưu đày đến Suma, Genji lại một lần nữa có ý tưởng này. Trong chương “Suma”, không ít lần tác giả viết về tư tưởng Phật giáo của Genji: “Trong chiếc áo dài màu sẫm thắt qua loa bên ngoài những chiếc áo lót, chàng tự bảo là ‘một đồ đệ của đức Phật’, rồi chậm rãi tụng một bài kinh Sutra.”30

Mặc cho tất cả những dằn vặt mâu thuẫn trong lòng của các nhân vật, cảm xúc trong truyện không bao giờ khiến người ta cảm thấy quá ngột ngạt hay đau đớn. Bao trùm lên câu chuyện là một nỗi sầu man mác, như cảm giác về vẻ đẹp hoàn mỹ song ngắn ngủi của hoa anh đào Nhật Bản. “Vô thường” là sự ý thức về sự tồn tại của con người. Đời người ngắn ngủi và mong manh như chính mùa hoa anh đào vậy, nên những tình cảm quá khích sẽ làm tổn thương đến niềm mỹ cảm mà cuộc đời đem lại. Trong Nguyên thị vật ngữ, dường như tất cả các nhân vật đến rồi đi đều lặng lẽ. Số phận của người này được lặp lại trong kiếp sống của người khác. Ta có thể thấy những tình cảm da diết đầu đời của Genji đối với Fujitsubo sống lại nơi chính Yugiri khi cậu nhìn thấy Murasaki ; niềm đam mê cùng những thú phong lưu của Genji được khắc họa một lần nữa qua con trai chàng; mối tình si của vua Kiritsubo với nàng Kiritsubo no Koi và sự thế thân của Fujisubo được tái hiện qua bộ ba Kaoru – Oigimi – Ukifune. Nguyên thị vật ngữ như vòng đời tuần hoàn qua năm tháng.

Có lẽ, tư tưởng Phật giáo của toàn bộ cuốn sách đã được xác định ngay từ đầu, trong cuộc nói chuyện giữa Genji và vị sư già: “Tôi không thích rời bỏ núi rừng, rời bỏ con suối của cụ, nhưng cha tôi đang lo và tôi phải vâng lời Người. Tôi sẽ trở lại trước mùa hoa anh đào rụng. “Tôi sẽ nói với các bè ở thành đô/ Hãy đến xem hoa rừng hoa núi/ Đến với gió, gió sẽ thăm hoa trước…” Thái độ và giọng nói của chàng đẹp khôn tả xiết. Vị hòa thượng đáp lại: “Ngàn năm hoa nở một kỳ/ Anh đào hoa núi có gì đáng xem” “Quả là một của hiếm” Genji vừa nói vừa mỉm cười, “một quãng thời gian để nở và tàn, ngắn dài khác nhau”. Vị hòa thượng tặng một câu thơ cảm tạ khi Genji rót đầy cốc của ông:

Cửa thông mở chẳng được lâu. Đóa hoa rực rỡ trước đâu thấy nào?”

Chàng ứa nước mắt (…)”31

Đọc Nguyên thị vật ngữ, người ta cũng dễ dàng ứa nước mắt, nhưng không phải do “nghiệp ” hay “ nhân quả” trong cuộc đời mỗi nhân vật, mà thường vì những cảm giác mong manh khó gọi thành tên nhất: không khí trong trẻo và u hoài của những buổi tụng kinh lúc bên ngoài trời mưa lất phất, tiếng gọi của chim choi choi trong bình minh, những bông hoa rực rỡ trong ánh hoàng hôn gợi nhớ tới những bông tuyết của mùa đông đã qua… Ở đây, “vô thường” của Phật giáo đã kết hợp với niềm bi cảm mà người Nhật gọi là aware, tạo thành một nét rất riêng trong văn hóa Nhật Bản.

Với“ Nguyên thị vật ngữ”, sự “vô thường” ẩn hiện trong từng trang sách, và ý nghĩa sự tồn tại của mỗi nhân vật tựa hồ chỉ là để thể nghiệm tính chất “vô thường” giữa cuộc đời này.

4) Tư tưởng Nho gia và những nhân tố văn hóa Trung Quốc khác trong Nguyên thị vật ngữ 

Genji từ nhỏ đã hưởng sự giáo dục theo truyền thống cung đình. Chàng được giới thiệu như một thần đồng “lên bảy tuổi đã thông hiểu các sách kinh sử Trung Hoa”. Tư tưởng Nho giáo của chàng không bộc lộ nhiều khi chàng còn trẻ, mà chỉ thật sự thể hiện lúc chàng đã trở thành một nhân vật tương đối đức cao vọng trọng. Trong đoạn trò chuyện với Yugiri về người con gái nuôi Tamakazura (chương 30 “Hoa cúc sao” ), chàng đã nói : “Ta sẽ hoàn toàn chiều theo ý muốn của cha cô ấy. Ta sẽ rất sung sướng nếu cô ấy được gửi vào triều, và nếu ông ta kiếm cho cô ấy một tấm chồng, thì cũng là tuyệt. Một người phụ nữ sống thì phải theo đạo tam tòng, cô ta mà làm sai điều đó thì chẳng hay gì.”32 Đó không chỉ là ý kiến của riêng Genji. Tư tưởng “tam tòng tứ đức” hẳn nhiên rất phổ biến trong xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ, với những người phụ nữ hoàn toàn không tự quyết định được số phận của mình.

Trong chương 33 “Nhành hoa đậu tía”, To no Chujo đã mượn lời thánh nhân để quở trách Yugiri : “Tôi tin chắc rằng trước đây ngài đã học đến cái mà người ta gọi là ‘nghĩa vụ trong gia đình’. Tôi nghĩ chắc ngài phải biết lời dạy của một bậc hiền nhân nào đó. Vậy mà ngài lại cố ý xúc phạm đến tôi…”33 Bản dịch tiếng Việt rõ ràng chưa chuyển tải hết ý. Khi đối chiếu với bản dịch tiếng Trung, chúng tôi nhận thấy “nghĩa vụ trong gia đình” ở đây là “gia lễ”, còn “lời dạy của bậc hiền nhân nào đó” chính là “Mạnh Tử chi giáo” (lời dạy của Mạnh Tử). Những khái niệm Nho giáo căn bản được dùng tương đối phổ biến trong Nguyên thị vật ngữ cho thấy văn hóa Nho giáo đã ảnh hưởng rộng rãi đến tư tưởng và quan niệm của nhiều tầng lớp trong xã hội Nhật Bản.

Bản thân Murasaki Shikibu cũng là một người rất am hiểu các sách kinh sử Trung Hoa. Bà thường ứng dụng điển tích điển cố một cách hết sức tự nhiên, ngay cả trong lời nói của các nhân vật. Trong chương «Suma», khi những bài thơ của Genji được tán dương và truyền tụng, Kokiden đã nổi giận : “(…) Không nghi ngờ gì nữa, bọn người khom lưng quỳ gối xung quanh hắn đang bảo đảm với hắn, con hươu là con ngựa.34” Tích “chỉ hươu thành ngựa” chính được lấy từ Sử ký  của Tư Mã Thiên, chương « Tần Thủy Hoàng bản kỷ » : “ Triệu Cao muốn làm phản, nhưng sợ quần thần không nghe, nên trước tiên phải thử. Y dâng Nhị Thế một con hươu và bảo rằng đó là con ngựa. Nhị Thế cười nói : ‘Thừa tướng lầm đấy chứ ! Sao lại gọi con hươu là con ngựa ?’ Nhị Thế hỏi các quan xung quanh. Những người xung quanh im lặng, có người nói là ‘ngựa’ để vừa lòng Triệu Cao, cũng có người nói là ‘hươu’. Nhân đấy Triệu Cao để ý những người nào nói là ‘hươu’ để dùng pháp luật trị tội. Sau đó quần thần đều sợ Cao35”. “ Chỉ hươu thành ngựa” về sau trở thành một thành ngữ thông dụng của Trung Quốc. Bên cạnh Sử ký , những điển tích điển cố trong Lễ ký , Chiến quốc sách, Hán thư cũng xuất hiện khá nhiều trong Nguyên thị vật ngữ.

Giữa thời đại Murasaki Shikibu sống, người dân Nhật Bản có một niềm yêu thích đặc biệt đối với các sản phẩm từ Trung Quốc. Nguyên thị vật ngữ không chỉ sử dụng các câu chuyện, nhân vật liên quan đến văn hóa – lịch sử Trung Quốc, mà ngay cả những đồ dùng trong sinh hoạt thường ngày của giới quý tộc cũng mang đậm màu sắc Trung Hoa. Đó là những món đồ quý giá người ta mang tặng cho nhau: “Vị hòa thượng tặng lại một chuỗi tràng hạt bằng gỗ mun mà hoàng tử Shotoku đã có được khi ở Triều Tiên; nó vẫn đặt trong chiếc hộp Trung Hoa nguyên gốc…” 36 Đó là những bức tranh “thành công trong việc pha lẫn chất tranh Trung Hoa và Nhật Bản”37 trong cuộc thi vẽ tranh của hoàng gia. Đó là “Chữ Trung Hoa viết thảo trên giấy Trung Hoa cứng khác thường, quả tình rất đẹp”38… Có thể bắt gặp những trang sức Trung Hoa, tay áo lụa Trung Hoa, áo gấm Trung Hoa, nước hoa Trung Hoa, v.v… ở mọi nơi. “Nguyên thị vật ngữ” còn đem lại những bài thơ dí dỏm về y phục Trung Hoa : “ ‘Một chiếc áo Trung Hoa, lại thêm một chiếc áo Trung Hoa/ Ấy thế rồi thêm một chiếc áo Trung Hoa Trung Hoa.’ – Nàng ấy đã sính những chiếc áo Trung Hoa, thì đấy ta xin chiều sở thích của nàng ấy vậy.”39

Sự trao đổi về vật chất là mức độ giao lưu văn hóa sơ đẳng nhất. Mối giao lưu văn hóa giữa Nhật Bản và Trung Quốc đã được nâng lên ở mức độ cao hơn rất nhiều. Không chỉ chữ và giấy, mà là thư pháp. Không chỉ là một cây đàn hay vài điệu múa lời ca, mà là âm luật và âm nhạc. Không chỉ là đồ trang trí, mà là ý thức thẩm mỹ. Không chỉ là thơ văn, mà là cảm xúc đồng điệu của tâm hồn. Đỉnh cao của giao lưu văn hóa chính là sự giao lưu về tư tưởng. Không chỉ gói gọn trong tư tưởng Phật giáo hay Nho giáo đơn thuần, kết quả của sự giao lưu này phản ánh rõ nét trong sự hình thành thế giới quan, nhân sinh quan của tác giả và tác phẩm.

Để kết thúc bài viết này, chúng tôi xin mượn hai câu cuối của bài “Trường hận ca” – tác phẩm mà tư tưởng văn học của nó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành của Nguyên thị vật ngữ:

天長地久有時盡, 此恨綿綿無絕期。”

(Thiên trường địa cửu hữu thời tận/ Thử hận mang mang vô tuyệt kỳ…. Tạm dịch: Thấm chi trời đất dài lâu / Hận này dằng dặc dễ hầu có nguôi...40)

Những nhân tố văn hóa Trung Hoa đã góp phần tạo nên áng văn diễm lệ và điêu luyện, đồng thời cũng góp phần hình thành ý thức thẩm mỹ đặc trưng của dân tộc Nhật Bản.

Đồng thời với việc đem lại cho độc giả cảm thức sâu sắc về kiếp sống mong manh và phù du, Nguyên thị vật ngữ đã xây dựng được những hình tượng văn học bất tử, những mối tình “dằng dặc dễ hầu có nguôi” cùng trời đất. Cảm xúc thẩm mỹ từ tác phẩm, cũng vì thế mà sống mãi.

Tài liệu tham khảo

  1. Murasaki Shikibu, Phong Tử Khải dịch (bản tiếng Trung), Nguyên thị vật ngữ, Nhân dân văn học xuất bản xã, 1999 – 07.

  2. Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1&2, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991.

  3. Mai Liên tuyển chọn, giới thiệu và dịch, Hợp tuyển văn học Nhật Bản, Nhà xuất bản lao động – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2009.

  4. Phan Ngọc dịch, Sử ký Tư Mã Thiên, NXB Thời đại, 2010.

  5. Trần Quý Sơn biên soạn – Trần Kiết Hùng hiệu đính, Đường đại truyền kỳ, NXB Đồng Nai, 1995.

  6. Diêm Cốc Ôn [Nhật] viết, Tôn Lương Công dịch (bản tiếng Trung), Trung Quốc văn học khái luận giảng thoại, Khai Minh thư điếm, 1930.

  7. Lỗ Tấn, Trung Quốc tiểu thuyết sử lược, Nhân dân văn học xuất bản xã, 2006.

  8. Hầu Trung Nghĩa, Tùy Đường Ngũ Đại tiểu thuyết sử, Triết Giang cổ tịch xuất bản xã, 1992.

  9. Diêu Kế Trung, “Nguyên thị vật ngữ” dữ Trung Quốc truyền thống văn hóa, Trung ương biên dịch xuất bản xã, 2004 – 12.

  10. Lý Văn Hùng, Việt Nam văn chương trích diễm, Sài Gòn, 1961.

1 Theo Hầu Trung Nghĩa, Tùy Đường Ngũ Đại tiểu thuyết sử, Triết Giang cổ tịch xuất bản xã, 1992.

2 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991. (Trang 293 – 294)

3 Bản dịch của Tản Đà.

4 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991. (Trang 17)

5 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991.(trang 27-28)

6 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991. (trang 29)

7 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991.(trang 238)

8 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991.(trang 196)

9 Ba người bạn bên song cửa là “đàn, rượu, thơ” (Bạch Cư Dị).

10 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991.(trang 154)

11 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991.(trang 329)

12 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991. (trang 118)

13 Phan Thu Vân dịch.

14 Lỗ Tấn, Trung Quốc tiểu thuyết sử lược, Nhân dân văn học xuất bản xã, 2006.

15 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991.(trang 92)

16 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991.(trang 93)

17 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991. (trang 99 – 100)

18 Trần Quý Sơn biên soạn – Trần Kiết Hùng hiệu đính, Đường đại truyền kỳ, NXB Đồng Nai, 1995. (trang 112)

19 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991.(trang 224 – 228)

20 倩 – âm Hán Việt “Thiến” có nghĩa là xinh đẹp, nhưng nhiều bản dịch đổi “Thiến Nương” thành “Thiếu Nương” để tên nhân vật nghe nhã hơn trong tiếng Việt.

21 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 2, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991. (trang 150).

22 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991.(trang 78)

23 Theo Diêu Kế Trung, “Nguyên thị vật ngữ” dữ Trung Quốc truyền thống văn hóa, Trung ương biên dịch xuất bản xã, 2004 – 12.

24 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991. (trang 95 – 96)

25 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991.(trang 103)

26 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991. (trang 188)

27 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991. (trang 287)

28 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991.(trang 184)

29 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991. (trang 256)

30 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, NXB KHXH, Hà Nội – 1991. (trang 306)

31 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991. (trang 130)

32 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991.(trang 628)

33 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 2, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991.(trang 9)

34 Murasaki Shikibu, Truyện kể Genji, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1991. (Trang 310)

35 Phan Ngọc dịch, Sử ký Tư Mã Thiên, NXB Thời đại, 2010. (trang 64)

36 Mai Liên tuyển chọn, giới thiệu và dịch, Hợp tuyển văn học Nhật Bản, Nhà xuất bản lao động – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2009. (Trang 285)

37 (tập 1, trang 402)

38 Tập 1 trang 672

39 Tập 1, trang 617

40 Tản Đà dịch. Trích trong Việt Nam Văn chương Trích diễm , Sài Gòn, 1961.

Phan Thu Vân, Nhân tố văn hóa Trung Quốc trong “Nguyên thị vật ngữ” (Truyện Genji) và ý nghĩa văn học của nóHội thảo quốc tế về Văn hóa và văn học Nhật Bản, tháng 11/2011.

Phan Thu Vân, Nhân tố văn hóa Trung Quốc trong “Nguyên thị vật ngữ” (Truyện Genji) và ý nghĩa văn học của nóTạp chí khoa học Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM, số 38 KHXH&NV, số 38 (72), tháng 8/ 2012, trang 41-52.

http://www.vjol.info/index.php/sphcm/article/viewFile/13114/11992

Literature Nghiên cứu khoa học Văn học Văn học Trung Quốc

Quá trình hiện đại hóa văn học Trung Quốc cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX: sự tương tác giữa những chuyển biến tự thân với các ảnh hưởng từ thế giới bên ngoài

Quá trình hiện đại hóa văn học Trung Quốc

cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX: sự tương tác giữa

những chuyển biến tự thân với các ảnh hưởng từ thế giới bên ngoài

TS. Phan Thu Vân

Tiếng Anh:

The Process of Modernization in Chinese Literature from the End of the 19th Century to the Beginning of the 20th Century: When the Internal Transformations Meets the External Influences

ABSTRACT

This paper explores the process of modernization in Chinese literature from the end of the 19th Century to the beginning of the 20th Century. The period was regarded as the stage of interaction between the internal transformations and the external influences;   where the writing language changed from Sino to modern Chinese; and influenced by Western literature, Chinese literature transformed itself to reach out to the world. Based upon this observation, the author seeks to conduct a preliminary discussion on the the acquisition and creativity of Chinese literature in its modernization process.

Tóm tắt báo cáo :

Bài viết này mang tính giới thiệu quá trình hiện đại hóa văn học Trung Quốc cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, được nhìn nhận như sự tương tác giữa những chuyển biến tự thân của nền văn học này với các ảnh hưởng từ thế giới bên ngoài, bao gồm sự chuyển biến ngôn ngữ sáng tác từ Hán cổ sang bạch thoại, ảnh hưởng từ văn học nước ngoài, cùng sự chuyển mình hướng ra thế giới dựa trên những giá trị truyền thống trong văn học Trung Quốc; trên cơ sở đó tiến hành phân tích tính tiếp thu và sáng tạo của văn học Trung Quốc trong tiến trình hiện đại hóa cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.

Abstract:

This paper explores the process of modernization in Chinese literature from the end of the 19th Century to the beginning of the 20th Century. The period was regarded as the stage of interaction between the internal transformations and the external influences, where the writing language changed from Sino to modern Chinese; and influenced by foreign literature, Chinese literature transformed itself to reach out to the world. Based upon this observation, the author seeks to conduct a preliminary discussion on the the acquisition and creativity of Chinese literature in its modernization process.

Trong giới nghiên cứu văn học Trung Quốc từng tồn tại quan điểm sự chuyển mình trong giai đoạn cận hiện đại của văn học nước này chủ yếu là do ảnh hưởng của văn học phương Tây, bắt chước văn học phương Tây, thậm chí còn có người cho rằng sự hiện đại hóa văn học Trung Quốc hoàn toàn đồng nhất với Tây hóa, hay Nhật hóa và Tây hóa.

Từ một góc độ nhất định, khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX thực sự là giai đoạn mở cửa văn hóa và tự do tư tưởng chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc. Đa phần tầng lớp trí thức đã tiếp thu luồng gió tư tưởng mới bằng thái độ cởi mở và vận dụng những điều học hỏi được vào thực tiễn sáng tác một cách tích cực.

Tuy nhiên, xét theo một khía cạnh khác, sự cải cách về văn hóa nói chung cũng như văn học nói riêng bao giờ cũng phải dựa trên những nhân tố sẵn có. Về bản chất, khi một nền văn hóa đã hình thành, nó không dễ dàng bị ảnh hưởng bởi những yếu tố văn hóa khác, càng không dễ bị đồng hóa. Văn học cũng vậy. Con đường đi từ truyền thống đến hiện đại của văn học Trung Quốc là sự chuyển mình với nhiều trăn trở, chứ không chỉ đơn giản là động tác vứt bỏ lớp áo cũ để khoác vào một lớp áo mới.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi muốn giới thiệu quá trình hiện đại hóa văn học Trung Quốc cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, được nhìn nhận như sự tương tác giữa những chuyển biến tự thân của nền văn học này với các ảnh hưởng từ thế giới bên ngoài, bao gồm sự chuyển biến ngôn ngữ sáng tác từ Hán cổ sang bạch thoại, ảnh hưởng từ văn học nước ngoài, cùng những chuyển biến tự thân hướng ra thế giới dựa trên những giá trị truyền thống trong văn học Trung Quốc; trên cơ sở đó tiến hành phân tích tính tiếp thu và sáng tạo của văn học Trung Quốc trong tiến trình hiện đại hóa cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.

  1. Từ cổ Hán ngữ đến bạch thoại, con đường của tư tưởng mới

Triết gia người Đức Martin Heidegger từng viết trong Qua con đường ngôn ngữ: “Ý nghĩa cuộc sống con người đều do tính chất cởi mở đầy sáng tạo của ngôn ngữ tạo dựng nên.” Nhà ngôn ngữ học người Anh Palmer cũng khẳng định: “Ngôn ngữ phản ánh trung thực toàn bộ lịch sử và văn hóa của một dân tộc, phản ánh các loại thú vui giải trí và trò chơi, các loại tín ngưỡng và thiên kiến.”

Thế giới tinh thần của nhân loại về cơ bản được xây dựng nên trên ngôn ngữ, được lưu giữ và lưu truyền cũng nhờ ngôn ngữ. Sự thay đổi của ngôn ngữ luôn liên quan mật thiết với những chuyển biến về mặt tư tưởng của con người, và ngược lại. Văn học Trung Quốc gắn liền với tiếng Hán cổ trong hơn hai nghìn năm. Trong khoảng thời gian ấy, hệ thống ngôn ngữ Hán cổ không tồn tại một cách bất biến, mà thay đổi một cách chậm rãi và uyển chuyển theo thời gian, cùng lúc với những biến đổi trong phương ngữ và khẩu ngữ. Xét từ lịch sử phát triển ngôn ngữ, văn ngôn (Hán cổ) và khẩu ngữ (bạch thoại) là hai hình thái ngôn ngữ không giống nhau, lúc đầu không tồn tại khoảng cách quá lớn, nhưng trong quá trình phát triển lâu dài, hình thức của hai ngôn ngữ này càng lúc càng trở nên khác biệt. Cùng với sự phát triển không ngừng của ngôn ngữ, đến đời Minh – Thanh đã có rất nhiều tác phẩm kinh điển được viết bằng văn bạch thoại, như Thủy hử, Hồng lâu mộng, v.v… Cuối đời Thanh, nhiều trí thức Trung Quốc đã bắt đầu chú ý đến sự trong sáng dễ hiểu của văn bạch thoại cũng như tác dụng của nó trong việc truyền đạt tư tưởng mới đến với đông đảo quần chúng. Sau khi nghiên cứu lịch sử phát triển và hiện trạng văn học Trung Quốc, các học giả phát hiện ra loại văn ngôn mà những sáng tác văn học cổ sử dụng cho đến thời điểm đó đã hoàn toàn tách rời ngôn ngữ được dùng để giao tiếp hàng ngày. Văn ngôn càng được dùng trong văn viết nhiều bao nhiêu, thì mức độ “cứng” của nó càng lớn bấy nhiêu, khoảng cách càng xa khẩu ngữ bấy nhiêu. Dùng một thứ ngôn ngữ đã bắt đầu trở nên lão hóa và xơ cứng để biểu đạt những cảm xúc tinh khôi và sống động là một điều không hợp lý, như Hồ Thích đã nói: “Dùng ngôn ngữ chết thì quyết không thể sáng tạo ra được văn học sống.”[1]

Tháng 11 năm 1897, tờ báo đầu tiên viết bằng văn bạch thoại Diễn nghĩa bạch thoại báo ra đời tại Thượng Hải. Hai anh em Chương Bá Hòa và Chương Trọng Hòa, đồng sáng lập báo, phát biểu: “Người Trung Quốc muốn phát phẫn lập chí, không bị thua thiệt, tất phải biết tình hình nước ngoài, biết việc trong thiên hạ. Muốn đọc báo chí, tất phải bắt đầu từ văn bạch thoại, mới rõ ràng đâu ra đấy.”[2] Tiếp đó, nhiều tờ báo tiến bộ khác như Vô Tích bạch thoại báo, Hàng Châu bạch thoại báo, Tô Châu bạch thoại báo, Trung Quốc bạch thoại báo, An Huy tục thoại báo v.v… lần lượt xuất hiện, hòa giọng vào bản đồng ca bạch thoại càng lúc càng vang dội bấy giờ.

Trong Lịch sử văn học bạch thoại, Hồ Thích đã viết: “Văn học bạch thoại không phải là thứ được nhào nặn ra trong ba, bốn năm của cuộc vận động Ngũ Tứ… Không có lịch sử ngàn năm nay của văn học quốc ngữ bạch thoại, thì trong ba bốn năm quyết không thể tạo ra sự hưởng ứng và tiếp trợ của chừng ấy người. Cuộc vận động dùng văn bạch thoại là xu hướng tự nhiên của lịch sử tiến hóa.” Hồ Thích còn viết: “Sự diễn tiến tự nhiên còn chưa đủ, nó quá chậm chạp, cũng không kinh tế, chúng ta phải tiến hành một cuộc cách mạng có chủ ý, mà cống hiến của Tân thanh niên khác với Hồng lâu mộng ở chỗ nó có thể quất một roi thật mạnh vào cái tiến trình văn học đang bước đi chậm rãi.”[3] Cuộc vận động Ngũ Tứ đã chính thức khai tử cho nền văn học cổ đã bước vào thời kỳ già cỗi, nặng về mô phỏng và thiếu sinh khí, đồng thời khai sinh một nền văn học bạch thoại tự nhiên, sinh động biểu đạt cuộc sống.

Tháng 9 năm 1915, Trần Độc Tú sáng lập báo Tân thanh niên, là một mốc quan trọng trong sự khởi đầu cuộc cách mạng tư tưởng Ngũ Tứ. Tháng 1 năm 1917, trong bài “Lời bàn thô sơ về việc cải tiến văn học” đăng trên Tân thanh niên, Hồ Thích đã viết: “Nhìn bằng con mắt của sự tiến hóa lịch sử thời nay, thì văn học bạch thoại vừa là con đường chính thống của văn học Trung Quốc, vừa là vũ khí sắc bén mà văn học buộc phải dùng đến trong tương lai, điều này có thể khẳng định chắc chắn!”[4] Để “cải tiến” văn học, cổ vũ cho việc dùng văn bạch thoại, Hồ Thích đã đề ra “tám việc” phải làm: “Một là viết về vật, việc rõ ràng; hai là không bắt chước người xưa; ba là phải chú ý đến văn phạm; bốn là không thương vay khóc mướn; năm là bỏ lối dùng từ cổ tối tăm vô nghĩa; sáu là không dùng điển tích điển cố; bảy là không cần đối ngẫu; tám là không tránh ngôn ngữ đời thường.”[5] Một năm sau, ông đổi “tám việc” thành “chủ nghĩa tám ‘không’”, và tóm gọn quan điểm cách mạng văn học của mình trong mười chữ: “Văn học của quốc ngữ, quốc ngữ của văn học”[6], chính thức đặt văn bạch thoại vào vị trí ngôn ngữ chính thống của văn học Trung Quốc.

Quan điểm của Hồ Thích nhận được sự cổ vũ ủng hộ nhiệt tình của những người đồng chí hướng đương thời như Tiền Huyền Đồng, Trần Độc Tú v.v… Cùng với việc chú trọng thay đổi hình thức ngôn ngữ, tức lớp áo ngoài của văn học, nhiều học giả cũng đã đề xướng việc thay đổi nội dung tư tưởng, tức cốt lõi của văn học. Chu Tác Nhân khi viết Văn học của con người (1918) đã đề ra ba luận điểm: một là đòi hỏi văn học phải thể hiện “thiện” và “mỹ” trong con người; hai là văn học phải lấy “chủ nghĩa nhân đạo làm gốc”, “đối với những vấn đề của cuộc sống, phải ghi chép và nghiên cứu thêm”; ba là phải lấy “đạo đức con người làm gốc”, phải viết “tình yêu nam nữ”, “tình cảm ruột thịt”, là “thiên tính” của con người. Bài viết Cách mạng tư tưởng (tháng 3 năm 1919) của ông càng thể hiện rõ chủ trương văn học mới phải đi liền với tư tưởng mới. Ông cho rằng “cải cách chỉ thay đổi văn tự mà không thay đổi tư tưởng” là thay nước mà không thay thuốc, cải cách tư tưởng quan trọng hơn nhiều lần so với cải cách ngôn ngữ văn tự. Lỗ Tấn cũng nhận định phải thay đổi việc sử dụng ngôn ngữ, dùng văn bạch thoại, lại càng phải tiến hành đổi mới tư tưởng. Trong bài Qua sông và dẫn đường, đăng lần đầu trên Tân thanh niên năm 1918, ông viết: “Nếu tư tưởng mà vẫn như cũ, thì khác nào thay đổi nhãn mác chứ không thay đổi hàng hóa”, “truyền bá văn nghệ, học thuật chính đáng, đổi mới tư tưởng, là việc đầu tiên”[7].

Theo thống kê, trong năm 1919, ít nhất có khoảng hơn bốn trăm loại báo bạch thoại lớn nhỏ xuất hiện trên toàn Trung Quốc. Văn bạch thoại nghiễm nhiên trở thành công cụ ngôn ngữ truyền bá tri thức, giao lưu tư tưởng quan trọng thời bấy giờ. Có thể thấy, sự hiện đại hóa trong văn học Trung Quốc đã được tiến hành theo một quy luật tự nhiên tất yếu của lịch sử phát triển, cái mới manh nha trong lòng cái cũ, lớn mạnh và thay thế cho cái cũ. Quá trình hiện đại hóa đã bắt đầu từ hiện đại hóa ngôn ngữ, dẫn đến nhu cầu cấp thiết phải hiện đại hóa tư tưởng, sau đó được tiến hành một cách đồng bộ từ cải cách hình thức biểu đạt đến đổi mới nội dung trình bày.

  1. Ảnh hưởng ngoại lai đối với việc hiện đại hóa trong văn học Trung Quốc

Trong bài viết Làm sao để làm văn bạch thoại trích từ tạp chí Tân Trào (1919), Phó Tư Niên đã đề ra tiêu chuẩn của văn bạch thoại thời này: “1. Văn bạch thoại lô–gích: là văn bạch thoại có lô–gích mạch lạc, có trình tự lô–gích, thể hiện được tư tưởng khoa học; 2. Văn bạch thoại triết học: là văn bạch thoại có lớp lang, kết cấu chặt chẽ, chứa đựng được tư tưởng tinh túy và sâu sắc; 3. Văn bạch thoại mỹ thuật: là văn bạch thoại dùng sự độc đáo tài tình để đi được vào lòng người.” Ông cho rằng: “Ba yếu tố này trong ngôn ngữ phương Tây đã đủ cả. Bắt chước ngôn ngữ phương Tây là phương pháp đơn giản tiện lợi nhất, thích đáng nhất. Cho nên, văn bạch thoại lý tưởng có thể nói chính là văn bạch thoại Âu hóa.”[8]

Quan điểm này của Phó Tư Niên cũng là quan điểm chung phổ biến trong cuộc vận động văn học mới lúc bấy giờ. Văn học bạch thoại từ thời Ngũ Tứ có thể coi như một hình thức văn học mới, bắt đầu hình thành trên cơ sở ngôn ngữ bạch thoại Âu hóa và cách biểu đạt của phương Tây.

Tuy vậy, ảnh hưởng thật sự sâu rộng của thế giới bên ngoài đối với việc hiện đại hóa văn học Trung Quốc không phải trên phương diện ngôn ngữ, mà chính trên các phương diện thể loại, tư tưởng và nội dung văn học.

Trong lịch sử Trung Quốc cận đại, những người sớm chú ý đến vai trò đáng kể của văn học trong việc trị quốc an bang và mở mang dân trí, đồng thời có ý muốn thay đổi tình trạng văn học đương thời không phải là người khởi xướng cuộc cách mạng văn học “Ngũ Tứ”, mà là những người mang tư tưởng đổi mới như Lương Khải Siêu, Nghiêm Phúc, Hoàng Tôn Hiến v.v… Đây là lớp người sớm có cơ hội ra nước ngoài, tiếp cận với tư tưởng học thuật phương Tây và Nhật Bản, từ đó muốn đưa tư tưởng đổi mới vào Trung Quốc.

Lương Khải Siêu từng viết trong bài Luận về mối quan hệ giữa tiểu thuyết với việc trị dân, đăng trên số đầu tiên của tạp chí Tân tiểu thuyết (1902): “Muốn làm mới dân một nước, trước tiên không thể không làm mới tiểu thuyết của nước đó. Muốn làm mới đạo đức tất phải làm mới tiểu thuyết, muốn làm mới tôn giáo tất phải làm mới tiểu thuyết, muốn làm mới chính trị tất phải làm mới tiểu thuyết, muốn làm mới phong tục tất phải làm mới tiểu thuyết, muốn làm mới nghệ thuật tất phải làm mới tiểu thuyết; thậm chí muốn làm mới lòng người, làm mới nhân cách, tất cũng phải làm mới tiểu thuyết. Vì sao vậy? Tiểu thuyết có một sức mạnh chi phối con người không sao lường hết được.”[9] Những lời lẽ của Lương Khải Siêu tuy mang hơi hướng cường điệu, song không thể phủ nhận đây là một quan niệm mới mẻ và hợp lý. Sự tôn vinh “tiểu thuyết” trong luận định này tất nhiên không thể hiểu như niềm ưu ái riêng với một thể loại văn học, mà nên hiểu như nhận thức cơ bản của tác giả về ảnh hưởng lớn lao của văn học nói chung. Từ nhận thức tư tưởng ấy, ông đã phát động cuộc cách mạng tiểu thuyết và cách mạng thơ mạnh mẽ nhưng ngắn ngủi trên văn đàn.

Nhận thức mang tính phóng đại này không chỉ có ở Lương Khải Siêu. Các nhà cải cách thời kỳ này dường như đều quá sùng bái chức năng xã hội của văn học. Trong một bài viết chung đăng trên Thiên Tân quốc văn báo năm 1897, Nghiêm Phúc, Hạ Tăng Hựu đã đề cập: “Vả nghe Âu, Mỹ, Nhật Bản trong thời kỳ khai hóa thường nhờ sự trợ giúp của tiểu thuyết.”[10] Năm 1907, trong bài viết “Luận về mối quan hệ giữa tiểu thuyết với cải cách xã hội”, Vương Vô Sinh còn đề ra khẩu hiệu “tiểu thuyết cứu nước”: “Tôi cho rằng lớp người chúng ta ngày nay, không muốn cứu nước thì thôi, còn thật sự muốn cứu nước, thì không thể không bắt đầu từ tiểu thuyết.”[11] Có thể thấy sự tôn sùng tiểu thuyết nói riêng và văn học nói chung đã đạt đến đỉnh điểm. Phương pháp phóng đại khả năng thực sự của văn học nhằm hỗ trợ cải cách xã hội của lớp người như Lương Khải Siêu tuy có sức ảnh hưởng lớn đối với những thế hệ sau, nhưng đương thời nó đã không thể làm lay động nền móng vốn đã quá vững chắc của văn học truyền thống. Bên cạnh đó, những tác phẩm văn học thời bấy giờ vẫn chưa thật sự thể hiện được sức mạnh như các nhà cải cách kỳ vọng, chưa một tác phẩm nào thật sự mang trong mình một ý thức hiện đại và đổi mới.

Sự thất bại của chủ nghĩa cải lương cuối thế kỷ XIX tỏ cho ta thấy mấy điều: thứ nhất, muốn đưa tính hiện đại vào văn học truyền thống không phải điều dễ dàng, nếu không có tinh thần phản truyển thống triệt để, không có khí phách “nhận định lại mọi giá trị”, thì không thể giải quyết được vấn đề hiện đại hóa văn học Trung Quốc; thứ hai, nếu thiếu công tác thay thế mang tính hiện đại, thiếu những sáng tác thực tiễn có sức mạnh lay động lòng người thì việc hiện đại hóa văn học chẳng qua chỉ là lý thuyết suông; thứ ba, nếu không mạnh dạn vay mượn những thành quả văn học nước ngoài, chỉ dựa vào sự thay đổi chậm chạp của văn học Trung Quốc, thì rất khó tiếp cận với văn học thế giới.

Trách nhiệm hiện đại hóa văn học Trung Quốc đã được lịch sử giao phó cho lớp trí thức sau cách mạng Tân Hợi: Trần Độc Tú, Lý Đại Chiêu, Tiền Huyền Đồng, Lỗ Tấn, Chu Tác Nhân, Hồ Thích v.v… Từ kinh nghiệm thất bại của những cuộc đổi mới trong quá khứ, lớp người mới này nhận thấy trước tiên phải tiến hành việc mở mang trí óc cho quần chúng, rồi trên cơ sở “lập nhân” mới bắt đầu “lập quốc”. Mấu chốt trong sự nghiệp hiện đại hóa Trung Quốc chính là yếu tố con người. Phương pháp dùng văn học để cải tạo con người – “văn học cứu nước” – được đề ra từ trước vẫn nhận được sự ủng hộ rộng rãi, hơn nữa trong thời đại này nó còn mang tính thực tiễn và được tiến hành trên thực tế chứ không chỉ tồn tại bằng lý thuyết suông. Sự tích cực dịch và phổ biến các tác phẩm văn học nước ngoài đã góp phần quan trọng trong việc hiện đại hóa văn học Trung Quốc. Trong bài viết “Luận về kiến thiết cách mạng văn học”, Hồ Thích đã khẳng định: “Chỉ có một cách: chính là mau chóng phiên dịch nhiều tác phẩm văn học phương Tây để làm khuôn mẫu cho chúng ta.”[12] Chu Tác Nhân khi so sánh tiểu thuyết Nhật Bản với tiểu thuyết Trung Quốc cũng đã nhận xét: “Trung Quốc viết tiểu thuyết mới đã hai mươi năm nay rồi, tính ra chẳng có thành tích gì đáng kể… Chỉ tại người Trung Quốc không chịu bắt chước, không biết bắt chước. (…) Chúng ta muốn chữa cái bệnh này, tất phải từ bỏ tư tưởng cũ kỹ trong lịch sử, phải thực lòng đi bắt chước người ta trước, sau đó mới từ bắt chước tiến tới tự sáng tác ra văn học của mình. Nhật Bản chính là tấm gương cho chúng ta noi theo.”[13]

Có thể nói, so với thời đại trước, các nhà cải cách tư tưởng thời kỳ này đã có cái nhìn mang tính quốc tế đối với việc đổi mới văn học. Họ không quá kỳ vọng vào sự vận động tự thân để đổi mới của văn học truyền thống, mà quyết định dùng văn học nước ngoài để nhanh chóng “thay máu” cho văn học nước nhà. Lỗ Tấn, Lưu Bán Nông, Thẩm Nhạn Băng, Trịnh Chấn Đạc, Cù Thu Bạch, Cảnh Tế Chi, Điền Hán, Chu Tác Nhân v.v… là những dịch giả có công trong việc giới thiệu văn học thế giới đến với đông đảo bạn đọc trong nước. Quy mô và sự ảnh hưởng của phong trào dịch thuật trong đợt vận động này lớn hơn bất cứ thời kỳ nào trước đó, giúp văn học Trung Quốc có thêm sức mạnh thoát khỏi sự trói buộc của văn học truyền thống, hướng tới cải cách và phát triển.

Một trong những ví dụ tiêu biểu về kết quả của việc học hỏi bắt chước phương Tây của văn học Trung Quốc chính là sự ra đời của thể loại truyện ngắn. Văn học truyền thống Trung Quốc không tồn tại khái niệm truyện ngắn, chỉ có tiểu thuyết chương hồi. Trong bài viết Luận về truyện ngắn đăng trên Tân thanh niên năm 1918, Hồ Thích đã nhận định người Trung Quốc xưa nay không biết thế nào là truyện ngắn, thường đưa những thứ không viết được dài, như bút ký, tạp ký, vài câu chuyện truyền kỳ… quy hết vào thành một dạng “truyện ngắn”. Hồ Thích chỉ ra rằng, phải dùng “phương pháp văn học tiết kiệm nhất” để thể hiện “một mặt hay một đoạn tuyệt diệu nhất của sự thật” mới gọi là truyện ngắn. Đây chính là khái niệm và đặc tính truyện ngắn trong văn học phương Tây được Hồ Thích mượn lại để làm chuẩn mực lý luận cho thể loại truyện ngắn trong văn học mới. Sau cuộc vận động Ngũ Tứ, truyện ngắn Trung Quốc dần định hình, không còn là một bản thu nhỏ của tiểu thuyết chương hồi với một trật tự thời gian cố định, có đầu có đuôi, với một kết thúc theo thể loại “đại đoàn viên” nữa, mà đã dần áp dụng phương pháp “lát cắt ngang” cả về không gian lẫn thời gian, dùng cái tối giản để thể hiện cái tối ưu.

Bên cạnh đó, dưới sự ảnh hưởng của phương thức lý luận của tiểu thuyết phương Tây, tiểu thuyết thời kỳ Ngũ Tứ đã dần từ bỏ mô thức “tình tiết” quen thuộc. Trong tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc, bao giờ cũng tồn tại một cốt truyện trung tâm với những tình tiết xoay quanh nó làm kết cấu cũng như cách miêu tả làm rõ thêm cho cốt truyện. Tính hấp dẫn của tiểu thuyết hoàn toàn nằm trong những tình tiết trắc trở đầy kịch tính. Do quá chú trọng tình tiết, tiểu thuyết truyền thống thường lơ là những biểu hiện tâm lý tinh tế của nhân vật, dẫn đến việc chất “kịch” thì nhiều, mà thế giới nội tâm của con người thì bỏ ngỏ, khiến câu chuyện có thể hấp dẫn song không sâu sắc, không chạm được đến tâm hồn người đọc. Tiểu thuyết phương Tây đã trở thành những hình mẫu tham khảo, giúp các nhà văn Trung Quốc đi sâu hơn vào thế giới nội tâm nhân vật, đồng thời chú trọng phân tích diễn biến tâm lý của con người. Điển hình là tác phẩm của các nhà văn như Lỗ Tấn, Úc Đạt Phu, Quách Mạt Nhược, v.v… đã vận dụng thành công phương pháp dòng ý thức, phân tích tâm lý,… để đi sâu khám phá hệ ý thức tiềm ẩn, từ đó xây dựng thành công tính điển hình trong tính cách nhân vật. Trong phương thức kể chuyện, tiểu thuyết mới áp dụng cả cách dùng ngôi thứ ba, dấu đi người kể một cách khách quan, lẫn cách dùng ngôi thứ nhất để tăng tính chủ quan trực tiếp cho tác phẩm, như trong tiểu thuyết phương Tây.

Không chỉ góp phần định hình kỹ thuật, phong cách tiểu thuyết cũng như truyện ngắn Trung Quốc, những yếu tố ngoại lai còn làm phong phú thêm văn đàn với rất nhiều trào lưu và trường phái mới, như trường phái “tiểu thuyết vấn đề” chịu ảnh hưởng từ văn học Nga và kịch Henrik Johan Ibsen, “tiểu thuyết tự ngã” chịu ảnh hưởng từ tiểu thuyết cận đại Nhật Bản, chủ nghĩa biểu hiện cũng như tư tưởng của Sigmund FreudTiểu thuyết mới đã dần từ bỏ các mô típ tài tử giai nhân, hồng nhan bạc phận, anh hùng trị quốc bình thiên hạ v.v… của tiểu thuyết cổ điển để hướng tới phản ánh những vấn đề hiện đại. Cuộc sống của con người được khắc họa một cách rõ nét hơn, nhân bản hơn, thậm chí cả tâm tư tình cảm và nhu cầu cá nhân của chính nhà văn cũng được phản ánh trong tác phẩm một cách trung thực và bạo dạn hơn. Sự xuất hiện của các cây bút nữ – đa phần đều du học nước ngoài hoặc tốt nghiệp từ các trường đại học nổi tiếng trong nước – như Trần Hành Triết, Băng Tâm, Lăng Thúc Hoa, Thạch Bình Mai, Lư Ẩn… cũng là sự kiện đáng chú ý trong bước đầu tiến trình hiện đại hóa văn học Trung Quốc. Đặc biệt, ý thức nữ giới được thể hiện dạn dĩ, có phần “phản nghịch” trong các tác phẩm của Lư Ẩn và Phùng Nguyên Quân đã phần nào phản ánh ý thức của tiểu thuyết hiện đại Trung Quốc dưới ánh sáng soi rọi của các tư tưởng, quan niệm triết học phương Tây.

Ý thức về cá tính, tinh thần hiện thực và ý thức văn học thuần túy học hỏi từ văn học phương Tây cũng là một trong những điểm nhấn trong phong trào hiện đại hóa văn học Trung Quốc, được thể hiện rõ nét nhất trong thể loại tản văn mới. Úc Đạt Phu đã tổng kết thành tựu của tản văn thời kỳ Ngũ Tứ như sau: “Đặc tính lớn nhất của tản văn hiện đại chính là cá tính được thể hiện trong mỗi tác phẩm của mỗi tác giả, mạnh hơn bất kỳ tản văn nào trong quá khứ.”[14] Trên cơ sở cá tính độc lập này, các tác giả đã giải thoát tản văn khỏi nhiệm vụ “tải đạo” nặng nề trong văn học truyền thống, đưa nội dung tản văn đến gần với cuộc sống hơn, đồng thời nâng giá trị nghệ thuật của thể loại này lên một tầm cao hơn.

Ảnh hưởng thơ ca phương Tây đối với thơ mới Trung Quốc cũng vô cùng rõ nét. Trong cuộc vận động văn học Ngũ Tứ, Hồ Thích đã xướng lên một khẩu hiệu vang dội: “Giải phóng tuyệt đối cho thể thơ”. Ở lời nói đầu của Thưởng thí tập, tập thơ bạch thoại đầu tiên của văn học Trung Quốc, Hồ Thích viết: “Giải phóng tuyệt đối cho thể thơ, chính là đập vỡ tất cả những thứ gông cùm kềm kẹp sự tự do của thơ từ trước tới nay: có gì nói nấy, nên nói thế nào thì nói thế ấy. Như thế mới có thể thể hiện khả năng của văn học bạch thoại.”[15] Lấy cảm hứng từ trường phái thơ hình tượng của Mỹ, ông tích cực dùng âm tiết tự nhiên và ngữ pháp mạch lạc của văn bạch thoại để sáng tác thơ mới. Thưởng thí tập của ông là một thử nghiệm dùng bạch thoại để biểu đạt những khái niệm, hình ảnh cổ điển, theo cách “bình mới rượu cũ”. Tuy thử nghiệm này không mấy thành công, như Hồ Thích tự nhận xét trong lần in lại thứ tư của tập thơ năm 1922: “Bây giờ tôi xem lại thơ của tôi trong 5 năm trở lại đây, rất giống một người phụ nữ bị bó chân xong thôi không bó nữa đang nhìn lại những đôi giày của mình qua từng năm, tuy mỗi năm một to hơn, song trên mỗi đôi giày đều vẫn tanh mùi máu của thời bó chân năm nào”[16] nhưng nó đã mở đường cho phong trào thơ bạch thoại ngày một lớn mạnh trong lịch sử văn học hiện đại.

Sự hình thành trường phái thơ tự do Trung Quốc dựa trên những đóng góp không thể phủ nhận từ các yếu tố nước ngoài, như thơ Quách Mạt Nhược chịu ảnh hưởng rất lớn từ Walt Whitman – nhà thơ chủ nghĩa lãng mạn kiệt xuất ở Mỹ thế kỷ XIX; trào lưu thơ ngắn với các đại biểu như Băng Tâm và Tông Bạch Hoa chịu ảnh hưởng từ thể thơ haiku Nhật Bản và các tác phẩm thơ ngắn của Rabindranath Tagore, Ấn Độ…. Cũng không thể không kể đến tác động của nghệ thuật thơ chủ nghĩa tượng trưng Pháp đối với trường phái thơ Tân Nguyệt vào những năm giữa và cuối thập kỷ 20, thế kỷ XX. Nhờ tinh thần tự do mới mẻ du nhập từ nước ngoài mà thơ mới Trung Quốc từng bước tiến sát gần hơn đến tư tưởng tình cảm của lớp người mới trong xã hội, đồng thời cũng dần phản ánh được những giá trị tinh thần mang màu sắc riêng của thời hiện đại.

Nếu phải đưa ra một thứ hoàn toàn “ngoại nhập” song đóng vai trò không thể thiếu trong tiến trình hiện đại hóa văn học Trung Quốc thì đó chính là kịch. Kịch sân khấu được người phương Tây đưa vào Trung Quốc từ những năm 70 của thế kỷ XIX. Năm 1866, nhà hát kịch đầu tiên được xây dựng tại Thượng Hải. Tiếp đó, các vở kịch cải biên từ những tác phẩm kinh điển trong văn học phương Tây lần lượt được đưa lên sàn diễn, như Trà hoa nữ (dựa trên truyện cùng tên của Alexandre Dumas con) Người nô lệ da đen kêu trời (dựa trên truyện “Túp lều bác Tôm” của Harriet Beecher Stowe ). Từ sau cách mạng Tân Hợi, kịch mới Trung Quốc bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển, với những vở kịch được viết bằng kỹ thuật viết kịch phương Tây mang nội dung bản địa. Trong thời gian vận động Ngũ Tứ, khoảng 170 vở kịch thuộc hàng kinh điển trên thế giới của các tác giả Shakespeare, Henrik Johan Ibsen, Goethe, Molière, Bernard Shaw, Anton Chekhov, Hohn Galsworthy, Maeterlinck, August Strindberg, Hauptmann, v.v… đã được dịch và phổ biến rộng rãi, tạo nền móng cho sự bật phá của kịch nói Trung Quốc sau này.

Tóm lại, trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, văn học mới nhờ tiếp thu ảnh hưởng từ bên ngoài, đã từng bước thức tỉnh và phát triển một cách tự giác trên mọi phương diện, hình thành một chương mới mẻ, rực rỡ và sôi động trong lịch sử văn học Trung Hoa.

Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, dù chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ những nhân tố bên ngoài, nhưng sự chuyển hóa từ cổ điển đến hiện đại của văn học mới Trung Quốc không hoàn toàn là kết quả tác động của các nhân tố ấy, cũng không là kết quả của việc vay mượn toàn bộ từ văn học nước ngoài, mà là kết quả của những biến đổi tự thân và xu thế hướng ra thế giới trong chính văn học Trung Quốc. Chính sự tương tác giữa nhu cầu bứt phá những gông cùm xiềng xích trong văn học truyền thống để tự giải phóng, với nhu cầu học hỏi văn học thế giới để tìm cách tự biến đổi mình đã làm nên văn học hiện đại Trung Quốc.

  1. Sự kế thừa và phát triển từ văn học truyền thống trong quá trình hiện đại hóa văn học Trung Quốc

Nếu trong công cuộc cải lương văn học Trung Quốc thời cận đại, những tín hiệu phê phán tính truyền thống trong văn học bắt đầu xuất hiện, thì trong cuộc vận động văn hóa Ngũ Tứ, việc “nhận định lại tất cả các giá trị” đã trở thành ngọn cờ đầu. Tất cả quan niệm cùng giá trị truyền thống lúc bấy giờ đều phải đối mặt với thái độ kiểm nghiệm và phê phán hết sức quyết liệt. Người Trung Quốc đã nhận ra “hiện đại hóa” không thể chỉ dựa vào nội lực, mà phải dùng ngoại lực để tiếp trợ. Đó là sự phát triển hợp lô–gíc và khách quan của lịch sử.

Sau cuộc vận động Ngũ Tứ, văn học Trung Quốc thật sự bắt đầu bước vào thời kỳ hiện đại. Văn học hiện đại Trung Quốc thể hiện một xã hội tân thời, một dáng dấp tinh thần mới mẻ, với những phương pháp biểu đạt nghệ thuật hoàn toàn mới. Như một bức tranh với rất nhiều mảng màu khác nhau, các trường phái văn học hiện thực, văn học lãng mạn, văn học duy mỹ, hay văn học chủ nghĩa hiện đại, v.v… đều mang dáng vẻ riêng, sắc thái riêng, muôn hình vạn trạng, song tất cả đều giữ một mối liên hệ nội tại sâu sắc với văn học truyền thống, mang trong mình “mẫu thể” của văn học truyền thống. Dù giữ cho mình một khoảng cách lịch sử nhất định, nó không thể cắt đứt hoàn toàn với quá khứ. Minh chứng cho điều này chính là lớp người trí thức mở màn cho văn học hiện đại, như Hồ Thích, Lỗ Tấn, Chu Tác Nhân, Quách Mạt Nhược v.v… Họ không chỉ là những người phất ngọn cờ văn học mới, họ còn là những bậc thầy về quốc học, và dù có ý thức hay không, vai trò của họ vẫn là tiếp tục đẩy mạnh nền quốc học trong xã hội hiện đại.

Các tác phẩm của các nhà văn lớn thời kỳ này tuy mang đậm hơi hướng phương Tây, nhưng ở tầng sâu hơn, vẫn có thể thấy huyết mạch của văn học truyền thống đang cuộn chảy. Lỗ Tấn đã từng dùng “vũ khí” của văn học phương Tây để “chiến đấu” với văn học truyền thống: ông viết truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết,… như một nhu cầu của thời đại, đồng thời cũng là sự ảnh hưởng từ nhân tố nước ngoài. Tuy nhiên, tinh thần chủ đạo trong văn học của ông vẫn là tinh thần trong văn học truyền thống Trung Quốc. Có thể thấy ông đã tiếp nối và thể hiện một cách quyết liệt hơn chủ nghĩa ái quốc, tư tưởng vì nước vì dân, lo lắng cho vận mệnh dân tộc, ghét cái ác như kẻ thù… qua các thời đại của Hàn Phi, Khuất Nguyên, Đỗ Phủ,… Mao Thuẫn, Diệp Thánh Đào, Vương Thống Chiếu, v.v… cũng đã thể hiện nội hàm văn hóa dân tộc sâu sắc cũng như ảnh hưởng từ văn học cổ Trung Quốc trong cách miêu tả, xây dựng nhân vật, lựa chọn hình ảnh nhằm thể hiện hàm ý sâu xa trong từng chi tiết được khắc họa… Sự thành công rực rỡ của các vở kịch như Khuất Nguyên của Quách Mạt Nhược hay Lôi Vũ của Tào Ngu có thể coi là minh chứng hùng hồn cho sức mạnh truyền thống trong lòng những sáng tác hiện đại. Ngay với những tác phẩm tản văn đạt đến độ tinh túy trong văn bạch thoại, mang tư tưởng mới rõ nét như của Băng Tâm hay Chu Tự Thanh, độc giả vẫn dễ dàng bắt gặp những hình ảnh và nội dung nặng tính cổ điển, mà chính những hình ảnh và nội dung mang tính cổ điển ấy lại khiến cho tác phẩm trở nên lắng đọng hơn, rung động lòng người hơn.

Thơ ca là một ví dụ khác về tính kế thừa và phát triển văn học truyền thống trong tiến trình hiện đại hóa. Tuy học hỏi rất nhiều từ các trường phái thơ nước ngoài, nhưng việc hiện đại hóa thơ thực sự là một thử thách đối với các tác giả, vì ảnh hưởng của thơ cổ trong văn học Trung Quốc là quá lớn.

Hồ Thích là một trong những người đầu tiên truyền bá quan niệm tác phẩm văn học phải gắn liền với ngôn ngữ phổ thông, sự chú trọng bộc lộ tình cảm và ý thức thẩm mỹ của văn học hiện đại phương Tây vào Trung Quốc, đồng thời cũng là người kiên quyết dựa trên quan niệm này để tiến hành xây dựng hệ thống văn học sử Trung Quốc. Hai quyển sách Lịch sử văn học quốc ngữLịch sử văn học bạch thoại do ông biên soạn không chỉ bỏ tản văn chư tử, sử truyện, Hán phú v.v… ra khỏi phạm vi văn học sử, mà còn thẳng tay loại trừ cả Kinh thiSở từ. Phương pháp có phần cực đoan này khiến giới học thuật không thể đồng tình, và các nhà văn học sử sau này khi biên soạn sách cũng không ai noi gương Hồ Thích. Song, không thể phủ nhận cách nhìn của Hồ Thích chính là cách nhìn của văn hóa phương Tây hiện đại, cách làm rốt ráo của ông cũng là cách làm của người phương Tây hiện đại.

Tuy thế, ý thức tiềm tàng trong con người và thơ Hồ Thích vẫn là ý thức của những giá trị truyền thống. Trong cuộc vận động Ngũ Tứ, Hồ Thích đã lựa chọn “giản dị dễ hiểu” làm tiêu chí mỹ học cho thơ. Tiêu chí này không phải do ông sáng tạo nên, mà thực chất là sự tiếp bước trào lưu thơ bạch thoại từ đời Đường, với những đại biểu ưu tú như Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị… Bên cạnh đó, Hồ Thích đã dùng văn bạch thoại để biểu đạt những khái niệm, hình ảnh cổ điển quen thuộc, thậm chí có phần “nhàm”, trong văn học cổ Trung Hoa. Cống hiến của Hồ Thích cho phong trào thơ mới, xét theo một khía cạnh nào đó, vẫn là sự tiếp nối mạch thơ giản dị thuần phác từ Kinh thi.

Như trên đã nói, sự hiện đại hóa văn học Trung Quốc không đơn giản là kết quả từ sự tác động bởi các nhân tố bên ngoài. Việc học hỏi vay mượn về các tư tưởng, quan điểm, hoặc trường phái mới cũng không thể hình dung như một quá trình trực tiếp bứng gốc di dời vài giống cây tiêu biểu từ phương Tây sang trồng trên mảnh đất phương Đông. Nó là quá trình lựa chọn và thử nghiệm, là quá trình hấp thu và dung nạp.

Khi các nhà thơ Trung Quốc học hỏi nghệ thuật thơ phương Tây, họ phát hiện ra có sự giống nhau giữa thơ ca chủ nghĩa hiện đại của phương Tây với phong cách thơ của Ôn Đình Quân và Lý Thương Ẩn cuối đời Đường. Trong trường hợp này, sự vay mượn từ phương Tây đi đôi với sự kế thừa từ văn học truyền thống Trung Quốc, và yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến sáng tác thực tiễn của các tác giả mạnh mẽ hơn yếu tố đầu tiên gấp nhiều lần. Thơ ca cổ Trung Quốc đã cung cấp cho các tác giả nguồn tài nguyên dồi dào trong tầm tay, nó gần gũi quen thuộc hơn với tâm hồn và khả năng cảm thụ của họ. Điều này lý giải tại sao chủ nghĩa hiện đại trong thơ ca Trung Quốc cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX đạt đến độ chín sớm hơn và có được thành tựu nghệ thuật lớn hơn những thể loại khác, như tiểu thuyết hay kịch nói. Đó không phải là thắng lợi chớp nhoáng của hiện đại hóa văn học, mà là kết quả đóng góp của quá trình phát triển hàng nghìn năm của văn học truyền thống.

Thực tế đã chứng minh, muốn thật sự thành công trong việc hấp thụ các yếu tố ngoại lai, sự vận dụng khéo léo nền tảng truyền thống là yếu tố then chốt. Một giống cây trồng muốn ươm thành công trên mảnh đất mới, ngoài cây giống tốt ra, phải được tạo điều kiện để thích nghi cùng môi trường mới. Có thể nói, mảnh đất thơ truyền thống Trung Quốc vốn dĩ đã đầy đủ những yếu tố thích hợp với giống cây đến từ phương Tây, nên việc trồng trọt canh tác diễn ra thuận lợi.

Trong quá trình hiện đại hóa văn học, sự tác động của “ngoại lực” và khả năng dung nạp của “nội lực” thực chất không mâu thuẫn với nhau. Nội lực càng thâm hậu thì khả năng tiếp nhận ngoại lực càng lớn. Sự nhận thức và cọ xát không ngừng của văn học truyền thống với văn học thế giới giúp cho nền văn học có thể hoàn thiện chính mình, từ đó không ngừng phát triển. Quy luật này đúng với sự phát triển của nền văn học, đồng thời cũng đúng với các tác giả thuộc nền văn học ấy. Ví dụ về Lý Kim Phát và Đới Vọng Thư, hai nhà thơ hiện đại Trung Quốc, có thể minh chứng cho luận điểm trên. Cùng có xu hướng tiếp thu và vận dụng nghệ thuật thơ ca của nước ngoài: Lý Kim Phát học hỏi trường phái thơ tượng trưng của Đức, còn Đới Vọng Thư chú tâm vào mảng thơ chủ nghĩa hiện đại của phương Tây, nhưng thành tựu mà hai người đạt được hoàn toàn khác nhau: Lý Kim Phát mới dừng lại ở việc mô phỏng rập khuôn những sáng tác nước ngoài, tương đối xa lạ với tư duy truyền thống, còn Đới Vọng Thư đã viết nên những vần thơ vừa mang ý thức thời đại, lại vừa gần gũi với tâm tư tình cảm của độc giả Trung Quốc, xây dựng được chủ nghĩa hiện đại mang màu sắc Trung Quốc trong thơ mới. Nhiều lý do khách quan và chủ quan có thể đưa ra để giải thích cho vấn đề này, nhưng có một điều quan trọng không thể phủ nhận, đó chính là tầm hiểu biết về văn học truyền thống của hai tác giả hoàn toàn khác nhau. Lý Kim Phát du học từ rất sớm, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ tư tưởng học thuật phương Tây, sự hiểu biết về văn hóa truyền thống Trung Quốc còn hạn chế. Chính vì vậy mà ông không thể thổi hồn dân tộc vào những vần thơ của mình, thơ ông chỉ nổi bật về hình thức tân kỳ chứ chưa bứt phá được về mặt nội dung. Trong khi đó, Đới Vọng Thư mang trong mình nền tảng vững chắc về văn học cổ, trên cơ sở đó mới tiếp thu và “đồng hóa” những yếu tố nước ngoài. Khả năng nhận thức và lựa chọn được các yếu tố bổ khuyết cho phương thức biểu đạt truyền thống đã giúp ông sáng tác nên những vần thơ hiện đại đậm đà bản sắc dân tộc, giúp ông trở thành một trong những gương mặt nổi bật trong thơ ca hiện đại Trung Quốc.

Chỉ có tự giác nhận biết mình mới đánh giá đúng được những yếu tố bên ngoài, đánh giá điều gì trong những yếu tố đó thích hợp hoặc không thích hợp với bản thân, từ đó tận dụng được tối đa sức mạnh của cả nội lực và ngoại lực. Quá trình hiện đại hóa văn học Trung Quốc cũng là một quá trình để nền văn học Trung Quốc tự nhìn lại mình, chấp nhận những điểm mạnh và điểm yếu, đồng thời mượn những yếu tố bên ngoài để hoàn thiện chính mình.

Trong quá trình hiện đại hóa, văn học Trung Quốc đã có sự thay da đổi thịt rõ nét, nhưng xét cho cùng, phần sâu thẳm và cốt lõi của văn học vẫn là từ truyền thống, giống như da thịt có thể thay đổi, song xương cốt thì vẫn thế.

Kết luận:

Giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là giai đoạn bản lề trong lịch sử văn học Trung Quốc, điểm giao nhau giữa thời đại cũ và thời đại mới, giai đoạn mà hầu hết học giả cũng như văn nghệ sĩ đều hướng mắt ra thế giới bên ngoài, tiếp nhận những điều hoàn toàn mới mẻ và đầy thách thức. Chu Tác Nhân từng viết trong Dòng chảy văn học mới của Trung Quốc: “Từ sau cuộc chiến Giáp Ngọ, không chỉ nền chính trị Trung Quốc xuất hiện sự biến đổi lớn lao, mà ngay trên phương diện văn học cũng đang lay động, đang biến hóa không ngừng, giống với sự kết thúc một thời đại và sự bắt đầu một thời đại tiếp theo. Lý do khiến thời đại mới vẫn chưa thể kịp thời hình thành, thì như trong Tam quốc diễn nghĩa từng viết: “Muôn sự đủ cả, chỉ thiếu gió Đông”.” “Thời đại mới” ở đây được hiểu là thời đại Ngũ Tứ, thời kỳ mang đầy đủ tính chất tinh thần hiện đại. Thêm vào đó, Chu Tác Nhân cũng chỉ rõ: “Cái gọi là “gió Đông” ở đây đáng ra nên đổi thành “gió Tây”, tức những tư tưởng khoa học, triết học, văn học… phương Tây.”[17] Từ đó thấy rằng, quá trình hiện đại hóa của văn học Trung Quốc không thể tách khỏi luồng gió văn học phương Tây mạnh mẽ và tươi mới. Tuy nhiên, nếu luồng gió ấy thổi trên một cánh đồng không, thì bản thân nó cũng chẳng thể tạo ra một giá trị nào đặc biệt. Luồng gió Tây đã đến kịp lúc để thổi căng cánh buồm trên con thuyền văn học Trung Quốc vốn chờ đợi từ lâu, và con thuyền ấy được đóng từ những chất liệu trong văn học truyền thống.

Nhìn theo một khía cạnh khác, những tư tưởng, quan niệm mới từ phương Tây không tự nhiên mà tới, cũng không tới bất ngờ như một ngọn gió. Nó có cơ hội đến với tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ Trung Quốc vì chính họ đang mang trong mình những mâu thuẫn, những dằn vặt, cũng như sự không thỏa mãn với hiện trạng văn hóa, văn học nước nhà. Nhu cầu bức xúc về một hướng đi mới đã khiến họ dốc lòng tìm kiếm, và tiếp nhận một cách có chọn lọc những giá trị mới. Nếu không có tầm nhìn xa của các học giả, các nhà tư tưởng, đặt điểm nhấn của cuộc vận động đổi mới trước hết vào việc chuyển đổi ngôn ngữ từ Hán cổ sang bạch thoại, thì cách mạng văn học Ngũ Tứ sẽ không thể mang tầm ảnh hưởng lớn đến vậy trong lịch sử, cũng không thể gặt hái được thành công lớn đến vậy trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Khi các tác giả Trung Quốc tiếp thu văn hóa và văn học phương Tây, những quan niệm, tư tưởng mới bắt đầu tác động lên lớp quan niệm, tư tưởng mà họ vốn có, sự chuyển biến tự thân trước hết xảy ra trong mỗi cá thể, sau đó mới thể hiện ra ngoài, hợp thành sức mạnh tập thể biến đổi nền văn học của một thời đại.

Chính vì vậy, nhận định văn học hiện đại Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi văn học nước ngoài, chẳng bằng nói đó là kết quả của việc chủ động lựa chọn học hỏi những yếu tố ngoại lai trong quá trình “tìm kiếm chân lý” để hiện đại hóa bản thân. Quá trình hiện đại hóa văn học Trung Quốc vừa mang xu thế tự giải phóng, đột phá khỏi văn học truyền thống, lại vừa mang xu thế hướng ra thế giới để tìm kiếm hình ảnh mới dựa trên những giá trị truyền thống của chính mình. Chính nhờ sự kết hợp này mà sự hiện đại hóa văn học Trung Quốc đã trở nên uyển chuyển và mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Tài liệu tham khảo:

1. Lương Khải Siêu, Ẩm băng thất hợp tập (Văn tập thứ 10, quyển 2), Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh 1989.

2. Chu Tác Nhân, Dòng chảy văn học mới của Trung Quốc, Nhà xuất bản Hiệu sách Nhân văn, 1934.

3. Lỗ Tấn, Lỗ Tấn toàn tập, Nhà xuất bản Văn học Nhân dân, 1973.

4. Hồ Thích, Lịch sử văn học bạch thoại, Nhà xuất bản văn nghệ Bách Hoa, tháng 1 năm 2002.

5. Hồ Thích, Hồ Thích văn tồn (quyển 1), bản thứ 13, Nhà xuất bản thư viện Đông Á, Thượng Hải, 1930.

6. Hồ Thích, Thưởng thí tập, Nhà xuất bản văn học Nhân dân, Bắc Kinh, 1998.

7. Hồ Thích, Học thuật văn tập – cuộc vận động văn học mới, Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, 1993.

8. Thư Vu, Trần Nhĩ Đông, Chu Thiệu Lương, Vương Lợi Khí (biên soạn), Tuyển tập văn luận cận đại Trung Quốc (thượng), Nhà xuất bản Nhân dân, Bắc Kinh, 1999.

9. Trần Bình Nguyên – Hạ Hiểu Hồng (biên soạn), Tư liệu lý luận tiểu thuyết Trung Quốc thế kỷ XX (quyển 1), Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh, Bắc Kinh, 1997.

10. Thiệu Bá Châu chủ biên, Lịch sử văn học hiện đại Trung Quốc giản lược, Nhà xuất bản Nhân dân Thiên Tân, 1986.

11. Lưu Dũng chủ biên, Văn học hiện đại và văn học đương đại Trung Quốc, Nhà xuất bản Đại học Nhân dân, Bắc Kinh, 2006.

12. Lưu Dũng, Trâu Hồng chủ biên, Lịch sử văn học hiện đại Trung Quốc, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Bắc Kinh, Bắc Kinh, 2006.

13. Long Tuyền Minh, Sự chuyển đổi hiện đại hóa của văn học truyền thống, văn học phương Tây và văn học Trung Quốc, Nguyệt san Học thuật, tháng 8/1998.

14. Thẩm Quang Minh, Lưu học sinh và sự hiện đại hóa văn học Trung Quốc, Hình Châu sư phạm học viện học báo, kỳ 3 năm 2003 (bản Khoa học xã hội).

[1] Hồ Thích, Luận về kiến thiết cách mạng văn học, Tân thanh niên số 4 quyển 5, 1918.

[2] Chương Bá Hòa – Chương Trọng Hòa, Bạch thoại báo tiểu dẫn, Diễn nghĩa bạch thoại báo, số 1, 11-1897.

[3] Hồ Thích, Lịch sử văn học bạch thoại, Nhà xuất bản văn nghệ Bách Hoa, tháng 1 năm 2002.

[4] Hồ Thích, Lời bàn thô sơ về việc cải tiến văn học, Tân thanh niên số 5 quyển 2, 01-01-1917.

[5] Hồ Thích, Hồ Thích văn tồn (quyển 1), bản thứ 13, Nhà xuất bản thư viện Đông Á, Thượng Hải, 1930, trang 7-8.

[6] Hồ Thích, Luận về kiến thiết cách mạng văn học, Tân thanh niên số 4 quyển 5, 1918.

[7] Lỗ Tấn, Tập ngoại tập – Qua sông và dẫn đường (Tân thanh niên số 5 quyển 5, 15-11-1918), Lỗ Tấn toàn tập (Quyển 7), Nhà xuất bản Văn học Nhân dân, 1973; trang 34.

[8] Phó Tư Niên, Làm sao để làm văn bạch thoại, Tân Trào số 2 quyển 1, 1919; trang 181.

[9] Lương Khải Siêu, Ẩm băng thất hợp tập (Văn tập thứ 10, quyển 2), Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh 1989; trang 6.

[10] Xem trong Trần Bình Nguyên – Hạ Hiểu Hồng (biên soạn), Tư liệu lý luận tiểu thuyết Trung Quốc thế kỷ XX (quyển 1), Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh, Bắc Kinh, 1997; trang 12.

[11] Vương Vô Sinh, Luận về mối quan hệ giữa tiểu thuyết với cải cách xã hội, xem trong Thư Vu, Trần Nhĩ Đông, Chu Thiệu Lương, Vương Lợi Khí (biên soạn), Tuyển tập văn luận cận đại Trung Quốc (thượng), Nhà xuất bản Nhân dân, Bắc Kinh, 1999 ; trang 224.

[12] Hồ Thích, Luận về kiến thiết cách mạng văn học, Tân thanh niên số 4 quyển 4, 15-04-1918; trang 303-305.

[13] Chu Tác Nhân, Sự phát triển của tiểu thuyết Nhật Bản trong ba mươi năm nay, Tân thanh niên, số 1 quyển 5, 1918; trang 41,42.

[14] Úc Đạt Phu, Lời nói đầu phần Tản văn, Trung Quốc tân văn học đại hệ (Tản văn tập 2), Công ty sách Lương hữu, Thượng Hải, 1935.

[15] Hồ Thích, Hồ Thích văn tồn (quyển 1), bản thứ 13, Nhà xuất bản thư viện Đông Á, Thượng Hải, 1930; trang 119.

[16] Hồ Thích, Lời nói đầu cho bản in thứ tư, Thưởng thí tập, Nhà xuất bản văn học Nhân dân, Bắc Kinh, 1998; trang 5.

[17] Chu Tác Nhân, Dòng chảy văn học mới của Trung Quốc, Nhà xuất bản Hiệu sách Nhân văn, 1934; trang 101.

Phan Thu Vân, Quá trình hiện đại hóa văn học Trung Quốc cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX: sự tương tác giữa những chuyển biến tự thân với các ảnh hưởng từ thế giới bên ngoài, Hội thảo quốc tế về Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản và các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc (từ cuối TK.XIX đến đầu TK.XX) của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (ĐHQG TP.HCM), tháng 3 năm 2010.

Phan Thu Vân, Quá trình hiện đại hóa văn học Trung Quốc cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX: sự tương tác giữa những chuyển biến tự thân với các ảnh hưởng từ thế giới bên ngoài, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 5(459), tháng 5 năm 2010, trang 117-129.

http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/qua-trinh-hien-dai-hoa-van-hoc-trung-quoc-cuoi-tk-xix-dau-tk-xx-su-tuong-tac-giua-nhung-chuyen-bien-tu-than-voi-cac-anh-huong-tu-the-gioi-ben-ngoai