Văn học Nga

CHƯƠNG II  KHÁI QUÁT VĂN HỌC NGA THẾ KỈ XIX

 

I. NHỮNG ÐẶC ÐIỂM NỔI BẬT CỦA VĂN HỌC NGA THẾ KỈ XIX

  1. Văn học Nga thế kỉ XIX là một trong những nền văn học phong phú và tiên tiến nhất của nhân loại, là một trong những thành tựu rực rỡ nhất của nghệ thuật thế giới. Nó phát triển đến đỉnh cao với những ngôi sau chói lọi như Puskin, Ðôxtôiepki, Tuôcghênhep, Sêkhôp, Bêlinxki… Những tác phẩm của các tác gia này là những mẫu mực, tinh hoa của nền nghệ thuật hiện đại và có ảnh hưởng lâu dài, sâu rộng đến các nền văn học khác trên thế giới. Người ta có thể tự hào về tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình của Lep Tônxtôi, đó là một trong những tiểu thuyết được xem là hay nhất thế giới. Tiểu thuyết và truyện ngắn của Tuôcghênhep thì được xem là cổ điển và trầm lặng như những tác phẩm đặc sắc của phương Tây. Còn những tác phẩm của Ðôxtôiepki thì sâu sắc và đầy bão tố tâm hồn như những tiểu thuyết hiện đại…
  2. Văn học Nga thế kỉ XIX có tốc độ phát triêín phi thường và có sức sống mãnh liệt trong suốt thế kỉ XIX mà nhất là giữa sau thế kỉ XIX. Nó ra đời sau nền văn học phương Tây nhưng nhờ  mảnh đất hiện thực mầu mỡ của cuộc đấu tranh cách mạng và sự xuất hiện của các tài năng sáng chói mà văn học Nga đã đuổi kịp văn học phương Tây và phát triển đến đỉnh cao. Nếu như trước thế kỉ XIX, văn học Nga được ví như là một nữ sinh không thuộc bài đối với văn học phương Tây thì đến thế kỉ XIX, nhà văn Ðức Rôda Luxambua đã nhận xét  Nền văn học Nga đã bắt chiếc cầu nối liền phương Tây và nước Nga để trên đó xuất hiện không phải là một nữ sinh mà là một bà giáo. Gorki đã lí giải sức hấp dẫn của nền văn học nước mình như sau: Trong lịch sử phát triển của nền văn học châu Âu, nền văn học trẻ tuổi của chúng ta là một hiện tượng kì lạ ; tôi sẽ không phóng đại sự thật khi nói rằng không có nền văn học phương Tây nào ra đời với một khí thế mạnh mẽ, với một tốc độ thần kì trong một ánh hào quang rực rỡ của tài năng như nền văn học của ta. Ở châu Âu không có ai sáng tác được những cuốn sách lớn được cả thế giới hâm mộ như thế, và không có ai sáng tạo được cái đẹp thần diệu như vậy trong những hoàn cảnh không sao tả xiết. Ðó là kết luận không sao bác bỏ được rút ra từ viêc so sánh lịch sử các nền văn học phương Tây với lịch sử nền văn học của ta, không có nơi nào mà chỉ trong non một thế kỉ đã hiện lên cả một vầng sao rực rỡ của những tên tuổi vĩ đại như ở Nga và cũng không nơi nào đông đảo những nhà văn tuẫn đạo như ở nước ta…(1)

3.Văn học Nga thế kỉ XIX chứa đựng những tư tưởng tiên tiến của thời đại. Ðó là lòng yêu nước nhiệt thành, khát vọng tự do, dân chủ, tinh thần nhân đạo cao cả; tư tưởng phê phán, tố cáo xã hội sâu sắc. Chính những tư tưởng này đã tạo nên tầm vóc thế giới cho văn học Nga. Gorki viết Văn học Nga mãnh liệt vì có chủ nghĩa dân chủ, khát vọng say sưa mong muốn giải quyết những nhiệm vụ của đời sống xã hội, vì nó truyền bá tinh thần nhân đạo, vì nó có những bài ca ca ngợi tự do, quan tâm sâu sắc đến đời sống nhân dân, bộc lộ thái độ thuần khiết đối với phụ nữ…(2) Chúng ta có thể bắt gặp những tư tưởng tiên tiến này ở các nhà văn Nga và trong hầu hết tác phẩm của họ.

  1. Văn học Nga thế kỉ XIX luôn luôn gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng của nông nô Nga. Có thể nói chưa có nơi nào trên thế giới mà văn học lại gắn bó mật thiết với công cuộc vận động cách mạng như ở Nga. Chính phong trào cách mạng phát triển liên tục là mảnh đất màu mỡ cho văn học Nga ra đời, trưởng thành và phát triển. Ngược lại, văn học Nga đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc thức tỉnh nhân dân, thức tỉnh thời đại, trở thành một thứ vũ khí sắc bén, một diễn đàn công khai chống lại chế độ nông nô chuyên chế.

Ở Nga, các nhà văn luôn được nhân dân kính yêu quí trọng. Nhân dân gọi họ là nhà tư tưởng , lãnh tụ, thầy giáo, người bảo vệ nhân dân bởi vì họ là những người sẵn  sàng tuẫn đạo, sẵn sàng hi sinh vì nhân dân, vì đất nước, vì sự nghiệp cao cả của nhân dân.

Nước Nga thế kỉ XIX tiếp tục ghi thêm nhiều tên tuổi trên tấm bia tưởng niệm các nhà văn đã hi sinh vì sự nghiệp thiêng liêng. Rưlêep hi sinh dưới giá treo cổ. Gribôeđôp, Puskin, Lecmôntôp bị đày ải và sát hại. Secnưsepxki bị sỉ nhục và đày đi Xibiri. Gôgôn, Ðôxtôiepxki trải qua những cơn khủng hoảng tinh thần. Uxpenxki mắc bệnh tâm thần. Bêlinxki, Nhêcraxôp, Sêkhôp chết vì nghèo túng và bệnh tật. Tônxtôi bị nguyền rủa là kẻ dị giáo và phản chúa. Nhưng tất cả những bi kịch khủng khiếp đó không làm cho nhà văn xa rời nhân dân mà càng làm cho họ thêm gắn bó với phong trào cách mạng, với nhân dân, với nước Nga thân yêu của mình.

  1. Văn học Nga thế kỉ XIX với thành tựu cao nhất là chủ nghĩa hiện thực Nga là kết quả tất yếu của việc kế thừa văn học dân gian trong nhiều thế kỉ cùng với việc tiếp thu có chọn lọc nền văn học phương Tây, là kết quả của quá trình đấu tranh liên tục giữa các trào lưu văn học tiến bộ với trào lưu văn học bảo thủ, là kết quả của quá trình tiếp cận và phản ánh của văn học đối với hiện thực cuộc sống trong quá trình phát triển. Như vậy văn học Nga thế kỉ XIX không ngẫu nhiên xuất hiện mà nó trải qua một quá trình phát triển liên tục trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nó không có những thời kì thoái trào, hồi phục mà phát triển liên tục trong thế đấu tranh thay thế của các trào lưu tiến bộ đối với các trào lưu lạc hậu, bảo thủ. Sự thắng thế của dòng văn học hiện thực đối với các dòng văn học khác chính là biểu hiện cao nhất của sự phát triển văn học trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực cuộc sống.

6.Văn học Nga thế kỉ XIX có những cống hiến to lớn và ảnh hưởng sâu rộng đối với nền văn học thế giới. Những tác phẩm của nền văn học Nga được bạn đọc phương Ðông và phương Tây hết sức hâm mộ và yêu thích. Chính những tác phẩm này đã làm rung động hàng triệu trái tim con người trên toàn thế giới. Nó được dịch ra rất nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Mĩ, Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam…  và có mặt ở hầu hết các tủ sách gia đình, các thư viên lớn nhỏ.

Những cống hiến của văn học Nga thế kỉ XIX về tiểu thuyết, về văn xuôi, về nghệ thuật miêu tả phân tích tâm lí nhân vật, về việc xây dựng những nhân vật tích cực, về phương pháp sáng tác… đã góp phần làm phong phú thêm nền văn học thế giới cả về sáng tác lẫn lí luận phê bình.

  1. Ðội ngũ các nhà văn Nga trong thế kỉ XIX có những đặc điểm riêng biệt.

Thứ nhất, họ xuất thân từ những gia đình quý tộc, quyền quý và giàu có; họ có trình độ văn hóa cao, biết nhiều ngoại ngữ, hội họa, âm nhạc, khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Thứ  hai, những nhà văn Nga ngoài việc viết văn, làm nghề văn, họ còn là những sĩ quan, thầy giáo, thầy thuốc, viên chức làm việc trong các công sở của chính quyền Nga hoàng. Thứ ba, các nhà văn Nga thường đi nhiều, tiếp xúc nhiều, trải nghiệm nhiều và được tôi luyện trong thực tế cho nên họ có cuộc sống phong phú. Ðiều đó giúp nhiều cho sáng tác. Thứ tư, trong số các nhà văn Nga, có nhiều người đã tham gia các hoạt động chính trị đấu tranh cách mạng và đã bị bắt, bị đày ải và sát hại như Rưlêep, Raepxki, Kiukhenbeke, Bextugiep, Ôđôepxki…

Trước thế kỉ XIX, đội ngũ các nhà văn Nga thưa thớt và không có gì đáng kể, nhưng đến thế kỉ XIX đội ngũ các nhà văn Nga đột ngột tăng nhanh về số lượng lẫn chất lượng, đặc biệt là có nhiều tên tuổi đã trở thành những nhà văn thế giới như Puskin, Ðôxtôiepxki, Tuôcghênhep, Tônxtôi, Sêkhôp…

  1. PHÂN KÌ LỊCH SỬ NGA THẾ KỈ XIX

Phong trào giải phóng ở Nga trải qua ba giai đoạn chủ yếu, đó là:

  1. Thời kì quý tộc từ 1825 đến 1861 do những người quý tộc tiến bộ lãnh đạo.
  2. Thời kì trí thức bình dân hay thời kì dân chủ tư sản từ 1861 đến 1895 do những người trí thức bình dân lãnh đạo.
  3. Thời kì vô sản từ 1895 trở đi do giai cấp vô sản lãnh đạo.

Trên cơ sở  sự phát triển của lịch sử và bản thân nền văn học Nga, người ta đã chia văn học Nga thế kỉ XIX thành ba giai đoạn lớn, đó là :

  1. Từ đầu thế kỉ XIX  đến giữa những năm 50 là giai đoạn mở đầu của nền văn học mới. Ðây là thời kì đấu tranh gay gắt giữa các trào lưu văn học. Chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa tình cảm ra đời từ thế kỉ XVIII đã bộc lộ nhiều hạn chế nhưng vẫn còn tồn tại. Chủ nghĩa lãng mạn xuất hiện với hai dòng bảo thủ và cách mạng. Chủ nghĩa hiện thực ra đời từ 1825 bắt đầu phát triển mạnh mẽ, liên tục và đạt được những thành tựu rực rỡ. Các tác gia tiêu biểu trong giai đoạn này là Puskin, Lecmôntôp, Gôgôn, Bêlinxki.
  2. Từ giữa những năm 50 đến giữa những năm 90 là giai đoạn toàn thắng của chủ nghĩa hiện thực với những thành tựu rực rỡ của nó. Các tác gia tiêu biểu của giai đoạn này là Secnưsepxki, Nhêcraxôp, Tuôcghênhep, Ðôxtôiepxki, Tônxtôi, Sêkhôp.
  3. Từ giữa những năm 90 trở đi là giai đoạn nảy sinh nền văn học vô sản, thời kì đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa hiện thực với các trào lưu suy đồi, phản động. Nổi bật trong thời kì này là các sáng tác của nhà văn Gorki.

Do sự phân  bố của chương trình văn học Nga I, bài Khái quát văn học Nga thế kỉ XIX chỉ đề cập đến hai giai đoạn văn học lớn trong thế kỉ XIX, đó là:

  1. Giai đoạn từ đầu thế kỉ đến giữa những năm 50 ( tương ứng với Văn học Nga nửa đầu thế kỉ XIX).
  2. Giai đoạn từ giữa những năm 50 đến giữa những năm 90 ( tương ứng với Văn học Nga nửa sau thế kỉ XIX).

            

1.Văn học Nga nửa đầu thế kỉ XIX  

            

1.1 Bối cảnh lịch sử và sự phát triển tư tưởng xã hội

Cuối thế kỉ XVIII đầu thê úkỉ XIX ở châu Âu là thời kì tan rã của chế độ phong kiến trước sức tấn công mãnh liệt của cách mạng tư sản. Lúc này nước Nga dưới sự cai trị của Alechxan I  có tiến hành một số cải cách nhưng vẫn  là một nước nông nghiệp lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chỉ mới bắt đầu phát triển.

Năm 1812 cuộc chiến tranh vệ quốc của Nga chống lại sự xâm lược của Pháp nổ ra. Quân đội và nhân dân Nga dưới sự chỉ huy của danh tướng tài ba  Kutudôp đã đánh bại Napôlêông giải phóng hoàn toàn nước Nga, đồng thời góp phần giải phóng châu Âu.

Trong và sau cuộc chiến tranh vệ quốc 1812, tinh thần dân tộc, tinh thần cách mạng của nhân dân Nga được khơi dậy và dâng cao. Lúc này những phần tử ưu tú của giai cấp quý tộc bắt đầu thành lập những tổ chức cách mạng bí mật. Ðáng chú ý là tổ chức Nam xã ra đời năm 1821 và Bắc xã ra đời 1822.

Ngày 14 tháng Chạp năm 1825, nhân sự kiện Nicôlai I làm lễ đăng quang lên ngôi thay cho Alechxan I vừa chết, những người quý tộc cách mạng đã dựa vào một số đơn vị bộ đội tiến hành khởi nghĩa vũ trang với mục đích lật đổ Nga hoàng.

Cuộc khởi nghĩa tháng Chạp nổ ra trong một thời gian ngắn và nhanh chóng bị Nga hoàng dập tắt. Những người lãnh đạo và tham gia khởi nghĩa bị đàn áp dã man. Rưlêep bị treo cổ. Những người khác bị đàn áp và sát hại. Sau  khi lên ngôi, Nicôlai I đã ra sức củng cố nhà nước chuyên chế. Những cuộc khởi nghĩa của nông dân bị đàn áp khốc liệt; chế độ cảnh sát hà khắc, bóp chết dư luận được thiết lập khắp mọi nơi. Tuy vậy trong thời kì này, những cuộc khởi nghĩa của nông dân vẫn diễn ra thường xuyên, liên tục trên khắp nước Nga.

Thời kì này còn có những sự kiện đáng chú ý là Nga hoàng đem quân sang dập tắt cách mạng ở Hungari; giúp Pháp đàn  áp cách mạng 1848 ở Pari; gây chiến  ở phía Nam nhằm mở rộng lãnh thổ ( chiến tranh Crum 1854-1856).

Năm 1855, Nicôlai I chết, kết thúc một giai đoạn đen tối trong lịch sử nước Nga.

Nửa đầu thế kỉ XIX, ở Nga đã diễn ra mâu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp thống trị ( địa chủ, quý tộc) và giai cấp bị trị ( nông nô, nông dân). Mâu thuẫn này đã làm nảy sinh cuộc đấu tranh gay gẳt trên lĩnh vực tư tưởng bên cạnh những cuộc đấu tranh bạo động của nông dân.

Sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa tháng Chạp, Nga hoàng mà đại diện là Bộ trưởng Bộ giáo giục Uvarôp đã ra sức tuyên truyền khẩu hiệu phản động Chế độ chuyên chế, chính giáo và tính nhân dân. Khẩu hiệu này thực chất là muốn che giấu bộ mặt thối nát của chế độ chuyên chế, bảo vệ ngôi vị của Nga hoàng, đánh lừa dư luận. Tuy nhiên nó đã bị dư luận đương thời, nhất là những người cách mạng công kích quyết liệt.

Ðấu tranh xã hội và đấu tranh tư tưởng  diễn ra quyết liệt và chuyển sang một giai đoạn mới. Các tổ chức bí mật- một hình thức hoạt động cách mạng- ra đời hàng loạt với sự tham gia của cả thanh niên trí thức quý tộc lẫn thanh niên trí thức bình dân. Họ đấu tranh trên báo chí, trong các trường đại học, ở các tổ chức hợp pháp lẫn bất hợp pháp.

Trường Ðại học tổng hợp Matxcơva lúc này đóng một vai trò quan trọng. Nơi đây được xem là nơi đào tạo, giáo dục lòng yêu nước, truyền bá chủ nghĩa duy vật, truyền thụ tri thức khoa học, đào tạo ra những con người ưu tú có tinh thần cách mạng cho nước Nga.

Trong những năm 30-40 của thế kỉ XIX, vấn đề vận mệnh nước Nga được đặt ra gay gắt. Những người quý tộc và giới trí thức Nga ráo riết đi tìm một con đường phát triển cho nước Nga. Lúc này xuất hiện hai phái đối lập và đấu tranh lẫn nhau. Ðó là phái Sùng phương Tây và phái Sùng Slavơ.

Phái Sùng Slavơ khẳng định nước Nga phải phát triển theo con đường độc đáo, riêng biệt của phương Ðông. Họ bảo vệ chính giáo, bảo vệ chế độ quân chủ. Họ muốn sửa đổíi nhưng không muốn đụng chạm đến nguồn gốc của nó.  Ðại diện của phái này là Kômiacôp, Kipeepxki.

Phái sùng Tây phươngkhẳng định nước Nga phải đi theo con đường của Tây phương. Họ ca ngợi chế độ quân chủ lập hiến, ca ngợi trật tự tư sản. Họ lấy Anh, Pháp làm kiểu mẫu cho nước Nga. Họ đấu tranh đòi xóa bỏ chế độ nông nô nhưng bằng con đường cải lương tự do chủ nghĩa. Ðại biểu các nhóm này là các nhà khoa học Granôpxki, Cavelin; các nhà văn Botkin, Catcôp…

Sai lầm cơ bản của hai phái này là quá xa rời với những đòi hỏi của nhân dân, thời đại.

Vượt lên trên cả hai phái này là Bêlinxki và Ghecxen. Ðây là hai nhà tư tưởng lớn nhất của thời đại sau cách mạng tháng Chạp.

Chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Bêlinxki là nhóm Pêtơrasepxki hoạt động ở Pêtecpua từ 1845 đến 1848. Nhóm này thường xuyên thảo luận về chủ nghĩa xã hội của Purie, về trình trạng bất bình đẳng xã hội, về các quyền tự do dân chủ… Tham gia nhóm này có các nhà văn Ðôxtôiepxki, Xantưcôp, Sêđrin.

1.2.Tình hình văn học

  1. Hoạt động của báo chí và các hình thức sinh hoạt văn học tiêu biểu

– Hoạt động của báo chí:

Báo chí Nga đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh giải phóng của nông nô Nga thế kỉ XIX. Hoạt động báo chí lúc này diễn ra sôi nổi với sự tăng vọt về số lượng và nội dung phản ánh. Trong thập kỉ đầu tiên Matxcơva đã có thêm 22 tạp chí, Pêtecpua có thêm 19 tạp chí. Sang thập kỉ thứ hai Matxcơva có thêm 8 tạp chí và Pêtecbua có thêm 21 tạp chí. Báo chí càng lúc càng phản ánh đầy đủ các mặt của đời sống như chính trị, xã hội, văn hóa, khoa học, nghệ thuật, sáng tác, dịch thuật, phê bình, lí luận…Nó luôn luôn được cải tiến về hình thức, chất lượng nội dung và  được xuất bản đều đặn. Sự phát triển của báo chí đã kéo theo sự tăng vọt về số lượng độc giả, tạo nên dư luận  rộng lớn trong các tầng lớp nhân dân và nước ngoài.

Báo chí có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển văn học. Chính trên mặt báo, các nhà văn trẻ, các tác phẩm đầu tay đã ra mắt bạn đọc. Tiểu thuyết Nhân vật của thời đại chúng  ta xuất hiện lần đầu trên báo với tư cách là những truyện ngắn được in lần lượt. Những tác phẩm của Gôgôn cũng xuất hiện lần đầu tiên trên báo Kí sự Tổ quốc. Tên tuổi của Puskin cũng gắn liền với Văn học báo và Người cùng thời. Những tên tuổi như Secnưsepxki, Ghecxen, Nhêcraxôp… cũng không tách rời sự nghiệp báo chí. Báo chí đã bồi dưỡng nhà văn về tư tưởng, thẩm mĩ… đồng thời nó hướng độc giả đến những lí tưởng thẩm mĩ mới, tư tưởng mới, nền văn học mới…

Chúng ta điểm qua một số tạp chí nổi tiếng đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển văn học Nga nửa đầu thế kỉ XIX như sau:

+ Tạp chí Người thông tin châu Âu tồn tại từ 1802 đến 1830, lúc đầu do Caramdin lãnh đạo là một tạp chí tiến bộ và có nhiều đổi mới. Tạp chí đã đề cập đến nhiều sự kiện của đời sống xã hội, văn  hóa, chính trị và đăng tải những tinh hoa của  văn học thế giới. Trong thời gian Giucôpxki lãnh đạo tạp chí có nhiều cải tiến mới mẻ. Ông đã cho đăng hơn  70 tác phẩm do ông sáng tác và dịch  của nước ngoài. Cũng trên tạp chí này, Puskin lần đầu tiên xuất hiện với 5 bài thơ vào năm 1814 cùng với các bạn làm thơ ở trường Lixê.

Vào những năm cuối cùng (1825- 1830) tạp chí đi vào khuynh hướng bảo thủ, phản động và mất dần  ảnh hưởng.

+  Tạp chí Người con của Tổ quốc ra đời ở Pêtecbua từ tháng 10 – 1812 là tiếng nói của lòng yêu nước chống kẻ thù xâm lược bảo vệ tổ quốc, đấu tranh giải phóng nông nô khỏi ách thống trị của địa chủ. Những năm sau tạp chí có quan hệ mật thiết với phong trào tháng Chạp. Nội dung của tạp chí có liên quan đến những cuộc luận chiến xung quanh vấn đề chủ nghĩa lãng mạn, tính nhân dân trong  văn học. Tạp chí thường xuyên đăng tải những tác phẩm của Bextugiep, Rưleep, Muraviep, Crưlôp, Puskin…

Sang năm 1825 tạp chí dần dần trở thành cơ quan ngôn luận phản động và không còn được tín nhiệm.

+  Tạp chí Sao bắc cựctồn tại từ 1823 đến 1825 do Rưlêep và Bextugiep sáng lập. Tạp chí này đã thức tính lòng yêu nước, tinh thần công dân, nghĩa vụ đối với đất nước trong thời kì mới. Sao bắc cực đã đăng tải các bài phê bình của Bextugiep, thơ của Puskin, Kiukhenbeke, văn của Bextugiep, Glinka và được hoan nghênh nhiệt liệt.

Sau sự kiện 14 tháng12 năm 1825 tạp chí ngừng hoạt động.

+ Tạp chí Ðiện tín Matxcơva tồn tại từ 1825 đến 1831 do Pôlêvôi lãnh đạo là một tạp chí tiến bộ. Nội dung tạp chí gồm nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, lịch sử, khoa học, văn học. Tạp chí chú trọng đặc biệt đến văn xuôi và phê  bình.

+ Văn học báo ( 1830 – 1831) tập hợp các nhà thơ nhà văn như Ðenvich, Ðavưđôp, Puskin, Gôgôn… Những người này đấu tranh chống lại những quan điểm bảo thủ, phản động trong văn học. Báo ra năm ngày một lần nhưng không được đăng tin tức, bình luận chính trị. Báo chủ yếu đăng thơ văn, phê bình, tư liệu văn học, khoa học. Lo sợ trước ảnh hưởng của báo, phòng Ba đã đình chỉ hoạt động của báo.

+  Tạp chí Người cùng thờixuất hiện năm 1836 tập hợp các nhà văn tiến bộ nhất đương thời. Báo đã đăng tải các tác phẩm của Puskin , Gôgôn. Sau khi Puskin mất năm 1937 tạp chí mất dần ảnh hưởng. Ðến 1847 tạp chí phục hồi và trở thành cơ quan ngôn luận tiến bộ. Tạp chí đã đăng các tác phẩm Bút kí người đi săn của Tuôcghênhép , Ai có tội  của Ghecxen , thơ và trường ca của Nhêcraxôp, phê  bình của Bêlinxki .

– Hoạt động của các nhóm, hội văn học

Bên cạnh các hoạt động báo chí đang diễn ra sôi nổi, ở các thành phố lớn như Matxcơva và Pêtecbua còn xuất hiện các nhóm hội văn học. Các nhóm, hội văn học xuất hiện do nhu cầu giải quyết những vấn đề lí luận và sáng tác trong thời kì mới.

Lúc này những người có tâm huyết và quan tâm tới thời cuộc muốn gặp gỡ và trao đổi lẫn nhau nhằm tìm ra câu trả lời thích đáng những vấn đề xã hội. Trên cơ sở đó hình thành các văn đoàn , các phòng khách văn học , các sinh hoạt văn học định kì và không định kì . Các nhóm, hội  văn học này họat động rất sôi nổi và lôi cuốn, tập hợp rất nhiều tầng lớp tham gia . Có thể điểm qua một số nhóm, hội văn học sau:

+ Năm 1801, tại Matxcơva, Tuôcghênhep đã thành lập Hội ái hữu văn học. Hội họat động khá tích cực và chỉ trong một thời gian ngắn đã tổ chức đến 17 lần sinh hoạt.

+ Năm 1801, tại Pêtecbua, một  số giáo sư, trí thức đã thành lập Hội tự do của những người yêu văn học, khoa học và nghệ thuật . Hoạt động của hội diễn ra xung quanh các vấn đề về chính trị, xã hội, triết học, lịch sử, văn học… Hội quan tâm đến các tác phẩm của Ðiđơrô, Vônte, Môngtexkiơ. Một số ấn phẩm của hội được xuất bản như Hợp tuyển thơ ca , Tuyển tập Rađisep.

+ “Hội tọa đàm” do Siscôp (1754-1841) sáng lập. Ông là người bảo hoàng, bảo thủ. Hội tập hợp những người quyền quí, các triều thần , các phu nhân ở kinh đô. Họat động của hội chủ yếu phục vụ cho mục đích chính trị phản động của Nga hoàng.

+ “Hội Acdamat ” do những người ủng hộ Cíaramdin và Giucôpxki thành lập chủ trương chống lại “Hội tọa đàm” của Siscôp. Hoạt động của hội là tìm tòi những cái mới trong sáng tác của Caramdin và Giucôpxki, đấu tranh chống lại phái bảo thủ, đấu tranh  cho  sự phát triển tự do của văn học.

+ “Hội đồng minh hạnh phúc ” của những người tháng Chạp chủ trương đấu tranh cho một  nền văn học tiến bộ. Trong số hội viên của hội có Bextugiep, Rưlêep, Kuikhenbeke. Hội đã họp phiên đặc biệt tiễn Puskin đi phương Nam và hoạt động cho đếïn ngày khởi nghĩa tháng Chạp.

Bên cạnh các nhóm, hội văn học , trong thời kì này còn có các phòng khách văn học thu hút nhiều người thuộc những khuynh hướng khác nhau đếïn tham dự. Có thể kể đến phòng khách của Ôlênhin ở Pêtecbua, phòng khách của bà Elaghina,  bà Dinaiđa Vôncônxkicaia ở  Matxcơva.

Những đêm văn học hàng tuần cũng là một hình thức sinh hoạt văn học quan trọng của thời kì này. Ở đây, các nhà văn, nhà thơ có dịp gặp gỡ nhau, cùng nhau trao đổi và bàn bạc các vấn đề văn học, xã hội…

  1. Quá trình đấu tranh và phát triển của các trào lưu văn học

– Chủ nghĩa cổ điển Nga trong những năm đầu thế kỷ XIX:

Chủ nghĩa cổ điển Nga xuất hiện từ giữa thế kỷ XVIII là một khuynh hướng văn học tiến bộ. Những người theo chủ nghĩa cổ điển chủ trương hướng tới nội dung xã hội lớn lao. Họ hướng về lịch sử dân tộc, truyền thống cha ông, phê phán thái độ lai căng. Họ phát triển nhiều thể loại văn học mới mẻ, mang tính chuẩn mực. Những thành tựu đó đã góp phần đáng kể cho sự phát triển của nền văn học Nga.

Tuy nhiên trong hoàn cảnh mới khi mà quan niệm thẩm miî, lí tưởng thẩm mĩ đã thay đổi người ta mong muốn được tự do sáng tạo, phát triển tài năng, khi mà đất nước đang đòi hỏi văn học phải phản ánh những vấn đề bức thiết của xã hội thì chủ nghĩa cổ điển không còn thích hợp nữa. Sự tồn tại của nó trở thành trở lực cho sự phát triển văn học và xã hội. Yêu cầu đổi mới lúc này trở thành một yêu cầu tất yếu và chủ nghĩa tình cảm đã dần dần thay thế chủ nghĩa cổ điển.

Nhưng chủ nghĩa cổ điển không ngừng hoạt động ngay mà những đại biểu lớn của nó như Ðecgiavin, Khêraxcôp vẫn còn sáng tác. Các thể loại như tụng ca, anh hùng ca không chỉ được các nhà thơ lão thành sử dụng mà ngay các nhà thơ trẻ cũng sử dụng nhằm thể hiện nội dung mới. Puskin và Giucôpxki thường sử dụng thể loại này để diễn đạt những nội dung trang trọng, đẹp đẽ. Nhà hát vẫn giữ truyền thống cũ tuy có đổi mới. Lúc này có những tác phẩm lí luận bảo vệ chủ nghĩa cổ điển như Từ điển thơ ca cũ và mới của Ôxtôlôpôp (1821), Giáo trình lí luận văn học của giáo sư Medơliacôp. “Hội tọa đàm” lúc này vẫn còn hoạt động nhằm bảo vệ cái cũ.

Năm 1816, “Hội tọa đàm” ngừng hoạt động, chủ nghĩa cổ điển đi đến chỗ kết thúc với sự thắng thế của chủ nghĩa tình cảm.

– Sự thắng thế của chủ nghĩa tình cảm trước chủ nghĩa cổ điển; sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn:

Chủ nghĩa cổ điển xuất hiện ở Nga vào giữa thế kỷ XVIII là một bước tiến của văn học Nga. Ðến cuối thế kỷ XVIII một khuynh hướng văn học mới là chủ nghĩa tình cảm xuất hiện đánh dấu thêm một bước tiến quan trọng của nền văn học. Trong 15 năm đầu của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tình cảm phát triển song song với chủ nghĩa cổ điển và dần dần thay thế chủ nghĩa cổ điển. Nó đã bác bỏ những quy tắc sáng tác nghiêm ngặt, gò bó của chủ nghĩa cổ điển, phát huy những mặt tiến bộ như: quan tâm đến quyền sống cá nhân, đến tình yêu đôi lứa, đến tình bạn thủy chung, đến tình yêu thiên nhiên của con người trần tục.

Tuy nhiên, chủ nghĩa tình cảm Nga không phải chỉ có những ưu điểm. Bản thân nó tồn tại những nhược điểm không thể khắc phục do nó gắn liền với giai cấp quý tộc. Nhược điểm của nó là nặng tính chất ôn hòa, bảo thủ, thi vị hóa cuộc sống nông thôn, tô điểm thực tại đen tối, xóa mờ những quan hệ áp bức bóc lột giữa nông dân và địa chủ. Chủ nghĩa tình cảm chỉ quan tâm đến tình cảm, đến đời sống trái tim của riêng tư cá nhân mà quên thực tại đời sống nhân dân. Tuy chủ nghĩa tình cảm có quan tâm đến sự phát triển ngôn ngữ dân tộc, nhưng đó cũng chỉ là những cải cách cải lương, kém triệt để và thiếu dân chủ.

Ðại biểu lớn nhất của chủ nghĩa tình cảm là Caramdin; cùng với ông còn có Ðmitơriep (1760 – 1873), nhà thơ ngụ ngôn Giucôpxki  thời trẻ, Vaxili Livôvits Puskin (1767-1830), nhà viết kịch Ôdêrôp (1769-1816)

Sự đấu tranh giữa khuynh hướng cổ điển với khuynh hướng tình cảm gắn liền với những cuộc tranh luận về ngôn ngữ trong 15 năm đầu thế kỉ XIX. Siscôp cầm đầu phái thủ cựu đã đứng ra bảo vệ cái cũ, chống lại việc sử dụng những từ ngữ mới, những lối diễn đạt mới do chủ nghĩa tình cảm đề xướng. Những người bảo thủ chủ trương lấy ngôn ngữ cổ của nhà thờ làm ngôn ngữ văn học. Trong khi đó, Caramdin và phái mới đã kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái mới. Macarôp viết Ngôn ngữ phải luôn luôn vị khoa học, vị nghệ thuật, vị giáo dục, vị phong tục tập quán. Sẽ đến một lúc mà ngôn ngữ hiện nay phải già cõi, những bông hoa ngôn ngữ sẽ tàn héo giống như mọi loại hoa khác. Thực chất cuộc tranh luận giữa hai khuynh hướng văn học này là vấn đề tiến bộ hay bảo thủ. Ðương nhiên, chủ nghĩa tình cảm thay thế chủ nghĩa cổ điển là xu thế tất yếu của lịch sử.

Sau cuộc chiến tranh vệ quốc 1812, nhân dân Nga là người chiến thắng quân xâm lược, điều này giúp họ ý thức được sức mạnh và quyền lợi chính đáng của mình, nhưng thực tế của cuộc sống  nông nô và sự ngột ngạt của chế độ chuyên chế tàn bạo đã đi ngược lại những yêu cầu chính đáng của họ. Aío tưởng về sự hòa hợp giữa quý tộc địa chủ và nông dân, nông nô không còn phù hợp với thực tế. Trong hoàn cảnh mới, quan niệm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, tư tưởng xã hội đã cơ bản thay đổi dẫn đến sự hình thành một khuynh hướng văn học mới. Chủ nghĩa lãng mạn bắt đầu được hình thành, kế tục và thay thế cho chủ nghĩa tình cảm không còn phù hợp với thực tế lịch sử. Chủ nghĩa lãng mạn ra đời trong cao trào yêu nước sau chiến tranh vệ quốc và trở thành một sự kiện văn học nổi bật trong 15 năm đầu thế kỷ, đánh dấu một bước phát triển quan trọng của nền văn học Nga thế kỷ XIX.

– Dòng văn học châm biếm tiếp tục phát triển mạnh mẽ

Bên cạnh sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa cổ điển từ giữa thế kỷ XVIII, đến nửa sau thế kỷ XVIII dòng văn học châm biếm cũng hình thành và phát triển mạnh mẽ với những tên tuổi như Nôvicôp, Phônvidin, Crưlôp. Ðến đầu thế kỷ XIX, cùng với hai dòng văn học là chủ nghĩa tình cảm và chủ nghiã cổ điển đang đấu tranh lẫn nhau, dòng văn học châm biếm cũng không ngừng phát triển với tên tuổi Crưlốp. Crưlốp đã sáng tác 120 bài thơ ngụ ngôn với nội dung là cuộc sống lầm than đen tối của người nông dân. Ngoài Crưlôp, một viên chức nghèo có tên là Naregiơnưi cũng có những tiểu thuyết miêu tả cuộc sống nghèo khổ của nông dân. Có thể nói rằng , sự phát triển của dòngvăn học này là một sự chuẩn bị tích cực cho khuynh hướng hiện thực ra đời trong những năm 20 của thế kỷ XIX.

Tóm lại : Trong 15 năm  đầu thế kỷ XIX ở Nga tồn tại hai khuynh hướng văn học đấu tranh lẫn nhau. Ðó là chủ nghĩa tình cảm và chủ nghĩa cổ điển . Kết quả của cuộc đấu tranh này là sự thắng thế của chủ nghĩa tình cảm .Nhưng rồi chủ nghĩa tình cảm cũng không tồn tại lâu dài do hoàn cảnh xã hội thay đổi liên tục. Lúc này chủ nghĩa lãng mạn dần dần định hình với sự xuất hiện của hai nhà văn tiêu biểu Giucôpxki và Bachiuscôp. Bên cạnh đó , chúng ta cũng phải kể đến sự phát triển song song của dòng văn học châm biếm với đại biểu tiêu biểu Crưlôp. Ðây là dòng văn học chuẩn bị trực tiếp cho chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ XIX .

– Sự phân hóa và phát triển  của chủ nghĩa lãng mạn ;dòng văn học lãng mạn tích cực trở thành dòng văn học chủ yếu.

Chủ nghĩa lãng mạn là một trong những trào lưu văn học lớn nhất Âu- Mỹ xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Ở Nga chủ nghiã lãng mạn xuất hiện vào đầu thê úkỷ  XIX là một biến cố văn học  quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đến tiển  trình phát triển của văn học Nga thế kỷ XIX.

Vào đầu thế kỷ XIX, sau cuộc chiến tranh ái quốc 1812, hòan cảnh xã hội của Nga thay đổi nhanh chóng kéo theo sự thay đổi lớn lao về tư tưởng xã hội. Quan điểm nghệ thuật của chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa tình cảm không còn phù hợp với thực tế xã hội trở nên lỗi thời và phản động.  Lúc này ,  các nhà thơ đã kinh qua những truyền thống văn học cổ điển và tình cảm bắt đầu đi tìm một khuynh hướng mới cho văn học. Họ không chấp nhận những hạn chế của văn học truyền thống . Có thể nói, đến lúc này sự bất bình với lối sống tư sản, sự chống lại cái dung tục, tầm thường , không tình nghĩa và ích kỉ của những  quan hệ tư sản đã sớm được thể hiện  trong chủ nghĩa tình cảm đến các nhà văn sáng tác theo chủ nghĩa lãng mạn càng trở nên gay gắt . Chính trong hoàn cảnh này, Giucôpxki đã sáng lập ra chủ nghĩa lãng mạn Nga

Chủ nghĩa lãng mạn ở Nga ra đời do ảnh hưởng từ chủ nghĩa lãng mạn phương Tây  và do kế thừa những truyền thống văn học trước nó.  Nhưng sự ra đời của nó chủ yếu là do văn học đã phản ánh thực tại Nga trước khởi nghĩa tháng Chạp, phản ánh tinh thần cách mạng quý tộc của thời đại, phản ánh những xu hướng mới trong đời sống xã hội nhằm chống chế độ phong kiến, giải phóng nông nô.

Chủ nghĩa lãng mạn Nga phát triển qua nhiều gia đọan và không thuần nhất một dòng. Giữa các nhà thơ lãng mạn cùng một giai đoạn, giữa các nhà thơ lớp trước và lớp sau luôn khác nhau ; ngay một nhà thơ cũng biến  chuyển qua nhiều thời kì.

Chủ nghĩa lãng mạn Nga ra đời một thời gian thì phân hóa thành hai khuynh hướng khác nhau . Ðó là chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực  và chủ nghĩa lãng  mạn tích cực. Gorki đã phân tích hai khuynh hướng văn học này như sau:. Chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực tìm cách làm cho con người bằng lòng với thực tế (..) lôi kéo họ về với những suy tưởng , về những bí ẩn thiên định cuả cuộc đời , về tình yêu, về cái chết, là những cái huyền bí vốn không giải thích được bằng con đường tư biện  (..). Chủ nghĩa lãng mạn tích cực cố làm vững thêm ý chí ham sống của con người, khơi dậy trong con người một ý chí quật khởi chống lại thực tế ….

Giucôpxki và Bachiuscôp là người sáng lập ra chủ nghĩa lãng mạn nhưng cũng là đại biểu cho khuynh hướng lãng mạn tiêu cực.

Giucôpxki (1783-1852) là học trò tài năng của Caramdin nhưng ông đã lãng mạn hóa chủ nghĩa tình cảm và trở thành nhà thơ lớn đương thời. Hai tuyển tập thơ Giucôpxki ra đời năm 1815 và 1818 là hai sự kiện quan trọng đánh dấu thành tựu của chủ nghĩa lãng  mạn Nga. Về sau, những sáng tác của Giucôpxki thoát li thực tế, đắm đuối trong những suy tưởng huyền bí . Tuy vậy Bêlinxki đã viết Không có Giucôpxki  có lẽ chúng ta không có Puskin , chính Puskin là người đã phát huy những mặt mạnh của Giucôpxki và đưa văn học Nga vào một quỹ đạo.

Cùng với Giucôpxki , Bachiuscôp (1787- 1855) nổi lên rực rỡ với loại thơ nhẹ . Thơ ông ca ngợi tuổi trẻ , tình yêu , niềm tin vào tương lai tổ quốc. Tập những thể nghiệm thơ và văn xuôi của ông ra đời 1817 là một sự kiện văn học đương thời . Về sau Bachiuscôp trở nên bi quan, mắc bệnh tâm thần . Ông đã gieo những vần  thơ bi quan, tuyệt vọng:

Người ta sinh ra là nô lệ,

Nằm xuống mồ vẫn là nô lê

Từ trong khuynh hướng lãng mạn nảy sinh dòng văn học lãng mạn mới, tích cực, khác với dòng lãng mạn của Giucôpxki và Bachiuscôp. Ðó là dòng văn học lãng mạn tích cực. Ðại diện cho dòng văn học này là nhà thơ Puskin và các nhà thơ tháng Chạp như Rưlêep, Kiukhenbeke, Raeppxki, Bextugiep, Ôđôepxki. Bên cạnh đó còn có các nhà thơ như Viademxki, Iadưcôp, Ðavưđôp, Ðenvich, Baratưxki.

Raepxki (1795 – 1872) là hội viên hội Ðồng minh hạnh phúc và Nam xã, bạn thân với Puskin. Ông bị Nga hoàng bắt giam 6 năm, sau đày đi Xibia. Trong tù, ông sáng tác thơ chống lại bọn vua quan, địa chủ.

Kiukhenbeke (1797 – 1846) là hội viên Bắc xã, bạn học cùng trường với Puskin. Ông tham gia cuộc khởi nghĩa 14.12.1825 và bị kết án tử hình, sau bị đày đi Xibia. Ông vừa là nhà thơ, nhà phê bình, nhà soạn kịch. Ông đánh giá rất cao những sáng tác của Puskin, Lecmôntôp, Gôgôn…

Bextugiep (1797 – 1837) phụ trách tạp trí niên giám Sao bắt cực cùng với Rưlêep. Ông vừa là nhà thơ vừa là nhà phê bình. Ông tham gia cuộc khởi nghĩa 14 tháng 12 năm 1825 và bị bắt giam, sau bị đày làm lính và hy sinh trong chiến đấu.

Ðavưđôp (1784 – 1839) là một anh hùng nổi tiểng trong chiến tranh vệ quốc và là hội viên hội Acdamat. Thơ văn của ông đã nói lên tinh thần anh hùng, lòng yêu nước chân chính của nhân dân Nga.

Viademxki (1792 – 1878) là hội viên hội Acdamat. Lúc đầu thơ ông hướng về lí tưởng tự do, nhưng về sau ông chuyển sang lập trường phản động.

Trong những năm 1815 – 1825, nổ ra những cuộc tranh luận  chung quanh vấn đề tính nhân dân trong văn học, vấn đề thơ balát của Catênin, vấn đề trường ca của Puskin và nhiều vấn đề khác. Thực chất của những cuộc tranh luận này là sự đấu tranh giữa chủ nghiã lãng mạng tích cực với các trào lưu lạc hậu khác, giữa khuynh hướng cách mạng và bảo thủ.

Sự kiện nổi bật về văn học trong thời kỳ này là sự xuất hiện bản trường ca Ruxlan và Liutmila (1820) và những bản trường ca phương Nam như Người tù Capcadơ, Lệ đài Bakhơsixarai, Ðoàn người Sưgan của nhà thơ Puskin. Có thể thấy, những sáng tác của Puskin trong thời kỳ này không những đánh dấu sự toàn thắng của chủ nghĩa lãng mạn trước chủ nghĩa tình cảm và chủ nghĩa cổ điển nói chung, mà nó còn đấnh dấu sự thắng lợi của dòng văn học lãng mạn tích cực trước dòng văn học lãng mạn tiêu cực, bảo thủ.

Sau khi cuộc khởi nghĩa tháng Chạp thất bại, nước Nga rơi vào một thời kì cực đen tối. Những nhà thơ có liên quan đến phong trào tháng Chạp bị đàn áp dã man. Văn học lúc này gắn bó với thực tại hơn và bắt đầu phê phán thực tại. Phương pháp sáng tác hiện thực bắt đầu hình thành với những sáng tác của Puskin và Gôgôn.

– Chủ nghĩa hiện thực trở thành dòng văn học chính

Chủ nghĩa hiện thực là thành tựu cao nhất của văn học Nga thế kỷ XIX. Nó xuất hiện trên cơ sở kế thừa, phát huy những truyền thống văn học trước nó và đấu tranh lẩn nhau giữa các trào lưu trong việc phản ánh những điều kiện lịch sử  xã hội cụ thể.

Thế kỉ XVIII là thế kỉ đã chuẩn bị cho chủ nghĩa hiện thực ra đời và trong 25 năm đầu thế kỉ XIX công việc được tiến hành khẩn trương hơn với dòng văn học châm biếm; trong khi đó chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa tình cảm, chủ nghĩa lảng mạn song song tồn tại ở  những mức độ khác nhau.

Dòng văn học châm biếm phát triển mạnh mẽ trong 25 năm đầu thể kỉ XIX với hàng loạt bài thơ ngụ ngôn, những vở kịch hiện thực của Crưlôp. Chính Crưlôp đã vượt qua các nhà văn cổ điển lỗi thời, vượt qua các nhà văn tình cảm thoát li hiện thực, vượt qua Giucôpxki và Bachiuscôp đang lúng túng, bất lực trước những yêu cầu mới. Ông đã chuẩn bị trực tiếp cho chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỉ XIX .

Năm 1825 có một số tác phẩm đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực Nga tác phẩm đầu tiên phải kể đến là tiểu thuyết thơ Êpghênhi Ônhêghi. Tháng 2 năm 1825, chương đầu tiên của tác phẩm này được in thành sách. Bêlinxki đã gọi tác phẩm này là Cuốn sách bách khoa về đời sống Nga.Puskin đã miêu tả chân thực, điển hình lớp thanh niên quý tộc trước cách mạng tháng Chạp. Những nhân vật trong tác phẩm không còn là những nhân vật tượng trưng, ước lệ mà trở thành những nhân vật vừa điển hình vừa sinh động, cụ thể. Cũng trong năm 1825 Puskin viết vở kịch lịch sử Bôrix Gôđunôp. Cuối năm 1825 ông viết truyện thơ Bá tước Nulin. Tập thơ trữ tình của Puskin cũng được in vào cuối năm 1825.

Bằng những tác phẩm trên, Puskin đã mở ra con đường mới cho văn học Nga. Chủ nghĩa hiện thực từ đây được hình thành và các nhà văn đã lấy thực tại cuộc sống thời đại làm đối tượng khám phá, sáng tạo. Từ đây, chủ nghĩa hiện thực trở thành một phương pháp sáng tác, kết thúc quá trình hình thành, mở đầu cho quá trình phát triển rực rỡ về sau.

Bên cạnh những tác phẩm của Puskin xuất hiện 1825, chủ nghĩa hiện thực còn được khẳng định bởi vở kịch Khổ vì trí tuệ của ngôi sao sớm tắt Gribôeđôp. Nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật Satski đại diện cho người chiến sĩ tháng Chạp. Ðó là một tính cách điển hình, đa dạng, có tính lịch sử cụ thể, vừa có tính khái quát vừa có tính cá biệt, cụ thể .

Năm 1825, trong khi những tác phẩm hiện thực của Puskin, Gribôeđôp ra đời thì đồng thời cũng xuất hiện những tác phẩm lãng mạn của Rưlêep, Côdơlôp. Ðặt biệt có cả những nhà thơ vừa sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn, vừa sáng tác theo khuynh hướng hiện thực như Puskin .

Cuộc khởi nghĩa tháng Chạp đã thất bại, hoàn cảnh sau cách mạng đã đổi thay, nhưng Puskin vẩn tiếp tục tinh thần tháng Chạp trong hoàn cảnh mới. Nhà thơ công dân tiếp tục đưa những thành tựu của chủ nghĩa lãng mạn tích cực lên đỉnh cao, đồng thời xây dựng chủ nghĩa hiện thực thêm vững chắc.

Cùng lúc với sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực, các lực lượng phản động ra sức công phá phương pháp sáng tác mới. Phòng Ba, Burigarin, Grets, Xencôpxki tìm mọi cách chống phá phong trào cách mạng, chống chủ nghĩa hiện thực, công  kích Puskin, Gôgôn. Bọn chúng chê bai Epghênhi Ônhênghin, hạ thấp giá trị Quan thanh tra và Những linh hồn chết.

Cùng với Puskin, Gôgôn, Lecmôntôp và Bêlinxki đã đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa hiện thực cả hai phương diện lý luận,  phê bình và sáng tác.

Lecmôntôp (1814 – 1841) vừa là nhà thơ lãng mạn vừa là nhà văn hiện thực. Năm 1840 cuốn tiêủ thuyết Nhân vật của thời đại chúng ta của Lecmôntôp ra đời đánh dấu một thắng lợi mới của chủ nghĩa hiện thực. Trong tác phẩm, nhà văn đã phát triển khuynh hướng tâm lý, đi sâu vào nội tâm nhân vật, chuẩn bị cho những nghệ sĩ tâm lý bậc thầy sau này như : Ðôxtôiepxki, Tônxtôi, Sêkhôp.

Gôgôn (1809 – 1852) là người khẳng định sự thắng lợi dứt khoát của chủ nghĩa hiện thực Nga qua tác phẩm Những linh hồn chết (1842). Trong tác phẩm này chúng ta bắt gặp hàng loạt những nạn dân của chế độ nông nô, những con người nhỏ bé dưới đáy xã hội, nhũng mảnh đời bất hạnh triền miên; những kẻ thù của nhân dân, những tính cách ích kỷ, thấp hèn,nhỏ mọn của bọn địa chủ qúy tộc.

Thành tựu văn xuôi của Gôgôn có ý nghĩa rất lớn, Gôgôn đã tập hợp xung quanh mình rất nhiều nhà văn trẻ như Ghecxen, Ðôxtôiepxki, Tuôcghênhep, Gônsarôp. Chính họ đã tạo nên trường phái Gôgôn trong những năm 40 của thế kỉ XIX. Những tác phẩm của họ như  Những người cùng khổ (1846), Bút ký người đi săn(1847), Ai có tội(1846 – 1847), Ôblômôp (1849 –1859) đãí khẳng định sự thắng lợi toàn diện của chủ nghĩa hiện thực.

Trên mặt trận liï lụân, phê bình, Bêlinxki (1811 – 1848) là người chủ xướng, người giương cao ngọn cờ liï luận, phê bình chống lại những kẻ thù của chủ nghĩa hiện thực. Những bài viết của ông có tính cách phát hiện những tài năng văn học mới, những bước phát triển mới của văn học Nga. Chính ông đã khẳng định vai trò to lớn của Puskin  trong việc mở đầu một khuynh hướng sáng tác mới; khẳng định Lecmôntôp, Gôgôn trong việc đánh dấu sự thắng lợi của chủ nghĩa hiện thực Nga.

Tóm lại, đến nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa hiện thực Nga đã có đầy đủ thực tiễn sáng tác và cơ sở lí luận để phát  triển vững chắc và liên tục. Từ đây, dòng văn học hiện thực trở thành dòng văn học chủ yếu và bắt đầu đạt được những thành tựu rực rỡ. Văn học Nga từ đây thực sự hướng về đời sống nhân dân và phong trào cách mạng đang ngày càng phát triển sâu rộng .

2. Văn học Nga nửa sau thế kỷ XIX  

 

2.1. Bối cảnh và sự phát triển tư tưởng xã hội

Sau khi thất bại trong cuộc chiến tranh Crưm (1854 – 1856) nước Nga càng lúc càng lún  sâu vào cuộc khủng hoảng không thể cứu vãn. Những khó khăn do các cuộc khởi nghĩa của nông dân, do sự suy sụp về kinh tế, do những thất bại về quân sự… đã buộc Nga hoàng phải tiến hành cải cách từ trên xuống. Ngày 19 – 2 – 1861 Nga hoàng ra sắc lệnh bãi bỏ chế độ nông nô, giải phóng hàng chục triệu người.

Tuy nhiên, thực chất đây là một cuộc cải cách không triệt để. Chính giai cấp phong kiến thống trị đã cấu kết với giai cấp tư sản nhằm lẩn tránh các cuộc bạo động của quần chúng. Sau cuộc cải cách số phận của hàng chục triệu nông dân vẫn không hề được cải thiện. Ðiều này đã dẫn đến sự bùng nổ của hàng chục ngàn cuộc bạo động của nông dân trên khắp 90% các tỉnh nước Nga.

Tuy có những hạn chế như vậy, nhưng việc bãi bỏ chế độ nông nô vẫn là một bước ngoặc trong quá trình phát triển xã hội Nga. Nó đã tạo cơ sở tốt cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhanh chóng, đồng thời đưa nước Nga từ một nước quân chủ phong kiến trở thành một nước quân chủ tư sản.

Nước Nga sau cuộc cải cách nông nô bộc lộ hai đặc điểm nổi bật của nền kinh tế tư bản. Ðó là quyền lực đồng tiền và sự phân hóa nông dân. Nông dân lúc này phân hóa thành hai bộ phận: Giai cấp tư sản có số lượng ít nhưng lại vững mạnh do địa vị kinh tế của nó  và giai cấp vô sản nông thôn.

Cùng với hai đặc điểm nổi bật, lúc này nền đại sản xuất công nghiệp cũng ra đời kéo theo sự xuất hiện và lớn dần của giai cấp vô sản công nghiệp. Ðây là một hiện tượng tiến bộ. Song giai cấp tư sản Nga không phải là giai cấp cách mạng như ở các nước phương Tây, mà nó cấu kết với giai cấp địa chủ, quý tộc nhằm tiến hành bóc lột nông dân.

Như vậy, nước Nga nửa sau thế kỷ XIX vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu ở châu Âu. Nông dân vẫn chiếm đến 90% dân số, vẫn chìm trong đêm dài nô lệ, vẫn chịu sự bóc lột tàn nhẫn của bọn địa chủ – tư sản, quan lại –  nhà thờ. Nước Nga trong nửa đầu thế kỷ XIX đã rơi vào khủng hoảng đến bây giờ càng rơi vào bế tắc, không còn lối thoát.

            Trong suốt nửa sau thế kỷ XIX, nước Nga đã diễn ra mâu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp thống trị và quần chúng bị trị. Mâu thuẫn này đã tạo nên cơn khủng hoảng gay gắt trầm trọng chỉ cần cơ hội là bùng nổ dữ dội. Lúc này, vấn đề giải quyết ruộng đất cho nông dân trở thành vấn đề trung tâm của thời đại và có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển tư tưởng xã hội và văn học nghệ thuật.

Cuộc cải cách nông nô 19 – 2 – 1861 đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử nước Nga. Thời đại đã sản sinh ra hai trào lưu tư tưởng lớn: một bên là phái tự do chủ nghĩa nổi bật vào những năm 1860 – 1870, một bên là phái dân chủ cách mạng. Hai phái này được xem là những người đại diện cho hai xu hướng lịch sử quyết định trong cuộc đấu tranh giải phóng của nông dân Nga.

Phái tự do chủ nghĩa muốn giải phóng nước Nga ra khỏi tình trạng bế tắc, khủng hoảng nhưng họ không muốn hủy bỏ chế độ nông nô mà chỉ nhượng bộ theo tinh thần của thời đại. Thực chất đây là phái của những nhà tư tưởng thuộc giai cấp tư sản. Họ không chấp nhận chế độ nông nô nhưng lại sợ cách mạng và phong trào của quần chúng lật đổ chế độ quân chủ. Ðại biểu cho khuynh hướng này trong văn học là Tuôcghênhep, Ôxtrôpxki, Gônsarôp.

Phái dân chủ cách mạng phần lớn thuộc trí thức bình dân. Họ chủ trương tiêu diệt chế độ nông nô Nga hoàng bằng vũ lực, đưa xã hội Nga tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua công xã nông thôn. Mặc dù họ chỉ dừng lại ở chủ nghĩa xã hội không tưởng nhưng họ cũng đã góp phần thức tỉnh, giáo dục tư tưởng cách mạng cho nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên lúc bấy giờ. Ðại biểu cho khuynh hướng này trong văn học là: Bêlinxki, Secnưsepxki, Nhêcraxôp, Ðôbrôliubôp, Xantưcôp, Xêđrin.

Song song với hai khuynh hướng trên, vào những năm 80 của thế kỉ XIX, chủ nghĩa Mác được truyền vào Nga bên cạnh sự lớn mạnh của giai cấp công nhân. Sang những năm 90, Lênin bắt đầu hướng đến việc thành lập một chính Ðảng kiểu mới. Lúc này, trong văn học xuất hiện những con người lao động mới – những người vô sản. Một thời đại mới sắp bắt đầu.

2.2. Tình hình văn học:

Ðến nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa hiện thực nước Nga bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ với những tên tuổi vĩ đại như: Secnưsepxki, Tuôcghênhep, Ðôxtôiepxki, Tônxtôi, Sêkhôp… Lúc này nền văn học Nga gắn bó mật thiết với phong trào cách mạng và càng lúc càng phản ánh đầy đủ hơn những mâu thuẩn xã hội và tinh thần của thời đại. Ðiều này được thể hiện ở tất cả các bình diện của văn học như: nhà văn, chủ đề, nội dung, quan điểm mĩ học, phương pháp, ngôn ngữ, thể loại…

Ðến nửa sau thế kỷ XIX các nhà văn Nga càng lúc càng gắn bó với nhân dân và phong trào cách mạng. Người ta phân họ thành ba nhóm sau:

Nhóm thứ nhất gồm những nhà phê bình lý luận. Họ vừa là người dẫn đường cho văn học vừa những nhà lãnh đạo phong trào cách mạng đương thời. Nhóm này gồm những tên tuổi tiêu biểu như Bêlinxki, Secnưsepxki, Ðôbrôliubôp, Pixarep, Nhêcraxôp.

Nhóm thứ hai bao gồm những người không trực tiếp hoạt động cách mạng nhưng họ lại giương cao ngọn cờ liï tưởng tự do bằng cách phát ngôn cỗ vũ cho những tư tưởng tiên tiến qua các tác phẩm của mình. Ðại diện cho nhóm này là: Xantưcôp, Xêđrin, Glep Uxpenxki, Kôrôlenkô.

Nhóm thứ ba bao gồm những nhà văn như Lep Tônxtôi, Ðôxtôiepxki, Tuôcghênhep, Ôxtrôpxki, Nhêcraxôp, Sêkhôp.. Những nhà văn này không tìm được phương hướng giải quyết, không nhìn thấy tương lai nước Nga nhưng với lòng nhân đạo cao cả họ đã miêu tả chân thật nổi khổ triền miên của nhân dân, đặt ra những câu hỏi cấp bách cho thời đại, nói lên những khát vọng mơ ước cháy bỏng của nhân dân lao động.

Càng về cuối thế kỷ, văn học nghệ thuật càng trở thành một diễn đàn văn học mà những nhà văn phải là những người công dân đấu tranh cho sự nghiệp thiêng liêng. Kể từ đây hàng loạt các nhà văn đã bị Nga Hoàng bắt giam, lưu đày, sát hại. Secnưsepxki phải chịu 20 năm khổ sai; Ðôxtôiepxki, Sêkhôp, Kôrôlenkô bị lưu đày hàng chục năm ở Xibiri ; Ghecxen, Tuôcghênhep phải bỏ ra nước ngoài; Glep Uxpenxki bị điên loạn vì quá uất ức trước đau khổ của nhân dân.

Tuy nhiên, nhìn chung các nhà văn trí thức tiến bộ trong thời kỳ này còn quá xa rời nhân dân. Họ chỉ dừng lại ở niềm say mê nhiệt thành mà chưa chịu thâm nhập vào phong trào cách mạng của quần chúng lao động.

Bên cạnh sự phát triển của đội ngũ nhà văn, chủ đề của chủ nghĩa hiện thực Nga nửa sau thế kỷ XIX cũng thể hiện một bước phát triển của văn học hiện thực trong việc phản ánh hiện thực. Lúc này tên và nội dung của những tác phẩm như: Những người cùng khổ, Ai có tội? Ai sống sung sướng trên đất Nga? Làm gì? không những là những câu hỏi quyết liệt, gay gắt; những vấn đề nóng hổi của thời đại mà đất nước và nhân dân Nga đòi hỏi phải trả lời, mà nó còn là những chủ đề quán xuyến, xuyên suốt toàn bộ nền văn học hiện thực mà các nhà văn Nga luôn trung thành thể hiện trong các tác phẩm của mình.

Trên bình diện quan điểm mĩ học, thời kì này các nhà cách mạng dân chủ mà nhất là Secnưsepxki đã kế thừa quan điểm mĩ học của Bêlinxki và đã xây dựng được một hệ thống mĩ học hoàn chỉnh. Bản luận văn nổi tiếng Những quan hệ thẩm mĩ giữa nghệ thuật và hiện thực ra đời 1855 đã mở ra một bước ngoặc lịch sử trên quá trình phát triển mĩ học Nga và nhân loại. Kể từ bây giờ, các nhà văn phải nhận thức được rằng cái đẹp là cuộc sống, mỗi tác phẩm của mình phải là một cuốn sách giáo khoa về cuộc sống. Các nhà văn không chỉ có nhiệm vụ giương cao ngọn cờ lí tưởng yêu nước, nhân đạo, dân chủ, tự do mà còn phải lên án mọi bất công và tất cả những gì chà đạp lên quyền sống của con người.

Bên cạnh việc hoàn thiện quan điểm mĩ học, văn học thời kỳ này còn có những thành tựu to lớn trong việc thâm nhập vào thế giới tâm hồn muôn hình muôn vẻ của nhân vật. Ði sâu vào tâm lý, tâm hồn nhân vật không những là một thủ pháp, nguyên tắc nghệ thuật phổ biến, mà nó còn là một phương thức nghiên cứu bắt buộc nhằm tìm hiểu tính cách con người thời đại và các quan hệ xã hội phức tạp đương thời.

Thành tựu quan trọng nhất khẳng định sự toàn thắng của chủ nghĩa hiện thực Nga thời kỳ này là việc khẳng định được vị trí của con người nhỏ bé trong xã hội, nhìn thấy được vẻ đẹp bên trong của lớp người đó cùng với việc bóc trần mọi thứ xấu xa của xã hội, đồng thời tố cáo mạnh mẽ thế lực của đồng tiền đã chà đạp lên luân thường đạo đức. Lúc này, các nhà văn như Tônxtôi, Ðôxtôiepxki đã tái hiện những thân phận hèn mọn bị sỉ nhục, bị lăng mạ của đông đảo quần chúng lao động, đồng thời miêu tả họ với những vẻ đẹp, với hình tượng của nhân dân kỳ diệu, quần chúng lao động. Song song với việc miêu tả con người nhỏ bé bằng tấm lòng nhân đạo cao cả, các nhà văn còn tố cáo gay gắt xã hội, tố cáo chủ nghĩa tư bản Nga đang mưu sắp xếp lại xã hội, điều khiển xã hội bằng quyền lực và sức mạnh của đồng tiền. Những vấn đề này, nhất là vấn đề thế lực và sức mạnh đồng tiền được các nhà văn Ðôxtôiepxki, Ôxtrôpxki hình tượng hóa vào các tác phẩm của mình một cách chân thật và sinh động.

Văn học Nga nửa sau thế kỷ XIX nổi bật lên với vấn đề xây dựng nhân vật tích cực. Ðây là một thành tựu quan trọng của chủ nghĩa hiện thực Nga trong việc gắn liền văn học với phong trào cách mạng. Nó thể hiện sự tiến bộ của văn học. Lúc này, các nhà văn dân chủ cách mạng đã dũng cảm xây dựng những nhân vật tích cực sinh động hoàn chỉnh mà lịch sử văn học nhân loại hàng ngàn năm về trước chưa hề đạt tới. Ðó là hình ảnh : những con người mới từ hiện thực cuộc sống đấu tranh đã bước vào văn học với tư thế hiên ngang dũng cảm như loài chim báo bão báo hiệu một cơn bão thời đại sắp diễn ra dữ dội. Hình ảnh những con người mới này tập trung ở hai nhân vật tiêu biểu, đó là Rakhmêtôp và Badarôp.

Trên bình diện thể loại, thời kỳ này do văn học phải phản ánh toàn diện những vấn đề cấp bách và phức tạp của thời đại cho nên văn học có sự thay đổi khá lớn về thể loại. Thời kỳ này thơ ca vẫn phát triển đa dạng nhưng đặc biệt văn xuôi phát triển mạnh mẽ và đạt đến tính mẫu mực, hoàn chỉnh. Nó trở thành thể loại chủ yếu trong việc thể hiện và đăng tải các nội dung xã hội trong nửa sau thế kỷ XIX. Có thể thấy, các thể loại văn xuôi như tiểu thuyết anh hùng ca, truyện vừa vào lúc này phát triển rất mạnh và giữ địa vị thống trị so với các thể loại khác.Tiêu biểu cho thể loại này là các sáng tác của Ðôxtôiepxki, Tônxtôi.

Song song với sự phát triển của thể loại tiểu thuyết, kịch vào lúc này cũng phát triển mạnh mẽ. Nhà viết kịch Ôxtrôpxki và Sêkhôp đã sáng tác và dịch hàng trăm vở kịch với nhiều thể loại khác nhau. Ðặc biệt là Ôxtrôpxki, ông đã viết và dịch gần 80 vở kịch gồm các thể loại khác nhau về hàng loạt đề tài mới, nội dung mới, nhân vật mới thuộc lớp bình dân. Ông được xem là người cha của nền kịch Nga, sánh ngang với Sêcxpia của nước Anh. Môlie của Pháp, Sile của Ðức và Gônđani của nước Ý.

Thời kỳ này còn có sự phát triển rực rỡ của truyện ngắn và ký sự. Tập truyện ký Bút ký người đi săn của Tuôcghênhep đã mở ra một chân trời rộng lớn cho thể loại này phát triển. Truyện ngắn Chiếc áo khoác của Gôgôn cũng là một sự khẳng định thể loại truyện ngắn. Ðến Sêkhôp, truyện ngắn đạt đến đỉnh cao  của sự hoàn thiện.

Cùng với sự phát triển của truyện – ký văn học, ký chính luận báo chí là một thể loại báo chí được phát triển mạnh mẽ với tên tuổi của Ghecxen. Ðương thời và mãi về sau ông được coi là nhà văn hoạt động kì diệu ưu tú nhất của văn học Nga.

Sự phát triển của ngôn ngữ văn học Nga cũng là một đặc điểm nổi bật trong thời kỳ này. Nếu như ở giai đoạn trước Puskin là người có công xây dựng và khẳng định được nền văn học và ngôn ngữ văn học dân tộc thì đến nửa sau thế kỷ XIX, công lao phát triển ngôn ngữ thuộc về đội ngũ đông đảo các nhà văn, nhà thơ, nhà nghệ sĩ ngôn từ đã cống hiến hết mình vì nền văn học dân tộc.

Tóm lại, văn học Nga nửa sau thế kỷ XIX đã phát triển đến đỉnh cao nhất của chủ nghĩa hiện thực phê phán. Công lao ấy ngoài những tên tuổi tiêu biểu như Secnưsepxki, Nhêcraxôp, Tuôcghênhep, Ðôxtôiepxki, Tônxtôi, Sêkhôp còn có sự góp sức của hàng loạt những tên tuổi khác. Họ đã cùng vai sát cánh tạo nên một nền văn học tiên tiến và bất hủ cho nhân loại.

http://websrv1.ctu.edu.vn/coursewares/supham/vhnga/ch2.htm

You Might Also Like