Phùng Hoài Ngọc
CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC HUYỀN ẢO TRONG VĂN HỌC MĨ LA TINH
Chuyên đề năm thứ 4 Đại học Ngữ văn
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trước đây, chương trình Ngữ văn đại học và cao đẳng chưa đề cập các nền văn học châu Mĩ Latin. Đến những năm 80 thế kỉ XX, những tác phẩm xuất sắc, độc đáo từ các nền văn học này mới thu hút giới nghiên cứu phê bình văn học các châu lục khác và gõ cửa sinh hoạt văn học nước ta. Đề tài này được coi là một chưyên đề tự chọn của chương trình đào tạo Ngữ văn đại học.
Chuyên đề này nhằm hai mục đích
1. Bổ sung chương trình Lịch sử Văn học Phương Tây (Tây Âu thế kỉ XX và Hoa Kì)
2. Bổ sung Lý thuyết văn học (phần Phương pháp sáng tác)
Văn học khu vực Mĩ Latin có nhiều điều mới lạ gây chú ý cho công chúng thế giới từ nửa thế kỉ qua, Việt Nam từ 16 năm qua (đặc biệt từ năm 1986 khi cuốn Trăm năm cô đơn của G.G.Marquez được xuất bản do dịch giả Nguyễn Trung Đức dịch và nhà xuất bản Ngoại văn Hà Nội ấn hành…). Chúng tôi chọn “Văn học Mĩ La tinh” vào phần chương trình “mềm” cho SV Ngữ văn tiếp cận.
Cũng như mọi nền văn học chân chính, văn học Mĩ Latin đã phản ánh được tâm thức của con người dân tộc Mĩ Latin, nêu vấn đề của thời đại và sáng tạo một thành tựu nghệ thuật mới. Cụ thể họ đã thưc sự bàn đến những vấn đề cơ bản sau:
Nhu cầu liên kết của các nước nhỏ thành khối lớn hơn để đương đầu với nước lớn trong quan hệ chính trị kinh tế xã hội toàn cầu cũng đang đặt ra cấp bách. Nhà văn bằng tiếng nói nghệ thuật độc đáo của mình cũng tham gia vào quá trình đó với tiếng nói riêng.
Văn học Mĩ Latin góp phần đặt vấn đề và thử giải quyết hai vấn đề, đồng thời khẳng định dòng văn học hiện thực mang tính huyền ảo – một thành tựu văn học mới mẻ.
Một mâu thuẫn đang tồn tại trong lối sống Mĩ Latin cũng tồn tại trong nhân loại là: trong khi sự giao lưu hội nhập trên phạm vi thế giới càng tăng thì lối sống cô đơn khép kín, vị kỉ (hay nói cách khác là chủ nghã cá nhân) cũng có chiều hướng gia tăng.
Như vậy, văn học Mĩ Latin, đặc biệt là dòng tiểu thuyết mới, đã mang cả hai tính thời sự: thời sự của cuộc sống loài người nói chung và thời sự văn học nghệ thuật nói riêng. Một hiện tượng văn học nghệ thuật chân chính phải mang cả hai tính chất ấy.
Năm 2000 lần đầu tiên văn học Mĩ Latin được giới thiệu vào sách văn 12 tập 2, bộ sách hơp nhất. Phần giới thiệu văn học Mĩ Latin ở trang 118. Một đoạn trích tiểu thuyết nhà văn Jorge Amado, thuộc dòng văn học hiện thực nghiêm nhặt được soạn thành bài đọc thêm. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo được giới thiệu truyện ngắn của G.G. Marquez
Chúng tôi nghĩ rằng cần giới thiệu và trang bị cho sinh viên đại học ngữ văn một cách tiếp cận tương đối toàn diện về vùng văn học này bằng chuyên đề. Từ đó SV có thể tiếp tục nghiên cứu.
Cũng cần lưu ý rằng con mắt nghiên cứu của giới văn học Tây Âu vốn rất tự mãn, kiêu hãnh về sáu thế kỉ phát triển mạnh mẽ (từ thời Phục hưng thế kỉ 14 khi họ phát hiện ra thời cổ đại Hi Lạp).
Cả thế giới đều công nhận thành tựu lớn lao sâu sắc điển hình của văn học Tây Âu sáu thế kỉ đó kéo liền đến hiện tại từng gây ảnh hưởng mạnh khắp thế giới. Giới văn học Tây Âu (kể cả giới văn hoá) quen đánh giá thấp Đông Âu, châu Á và cả châu Mĩ nữa. Ngay cả văn học Hoa Kì ban đầu cũng bị coi thường (họ bảo Hemingway cũng chỉ viết theo phong cách châu Âu!). Vùng Mĩ Latin lại còn bị coi rẻ hơn cả Bắc Mĩ (gồm Canadavà Hoa Kì). Do đó trong bài này chúng tôi trình bày cả hai hướng nghiên cứu của Tây Âu, Bắc Mĩ – Mĩ latin để đối chiếu, sau đó trình bày hướng nghiên cứu của Francoise Perus (người Pháp, quốc tịch Mexico, người áp dụng phương pháp macxit, đồng thời bản thân bà là người sống với cả hai nền văn hoá Tây Âu và Mĩ Latin- một điều kiện đáng tin cậy nữa). Phần kết luận chúng tôi rút ra từ Từ điển thuật ngữ văn học ViệtNam làm quan điểm chính thức, bên cạnh đó nêu những quan điểm riêng bổ sung.
Tuy chưa đủ điều kiện nghiên cứu nhiều tác phẩm các thể loại, nhưng chúng tôi đã chọn hai tác phẩm tiêu biểu cho nền văn học Mỹ La tinh, đỉnh cao kết tinh phương thức sáng tác mới.
Biên giả
KHÁI QUÁT VĂN HỌC MĨ LA TINH
1.THỜI KỲ THUỘC ĐỊA (1492-1826)
1.1 Thời kỳ chinh phục (1492-1600)
1.2 Văn học thuộc địa
1.3 Văn học nổi dậy (1808- 1826)
2.THỜI KỲ HÌNH THÀNH VĂN HỌC MỸ LA TINH (1826-1910)
2.1 Văn học lãng mạn
2.2 Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên
2.3 Văn học hiện đại chủ nghĩa
3.VĂN HỌC THẾ KỶ XX
3.1 Văn học tiên phong
3.2 Văn học phản kháng xã hội
3.3 Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và các khuynh hướng mới
Văn học khu vực Mĩ La tinh gây chú ý cho công chúng thế giới từ nửa thế kỉ qua, Việt Nam từ hơn 20 năm qua (đặc biệt từ năm 1986 khi cuốn Trăm năm cô đơn của G.G.Marquez được xuất bản do dịch giả Nguyễn Trung Đức dịch và Nhà xuất bản Ngoại văn Hà Nội ấn hành).
Cũng như mọi nền văn học chân chính, văn học Mĩ La tinh đã phản ánh được tâm thức của con người dân tộc Mĩ La tinh, nêu vấn đề của thời đại và sáng tạo một thành tựu nghệ thuật mới. Cụ thể họ đã thưc sự bàn đến những vấn đề cơ bản sau:
Nhu cầu liên kết của các nước nhỏ thành khối lớn hơn để đương đầu với nước lớn trong quan hệ chính trị kinh tế xã hội toàn cầu cũng đang đặt ra cấp bách. Nhà văn bằng tiếng nói nghệ thuật độc đáo của mình cũng tham gia vào quá trình đó với tiếng nói riêng.
Văn học Mĩ La tinh góp phần đặt vấn đề và thử giải quyết hai vấn đề, đồng thời khẳng định dòng văn học hiện thực mang tính huyền ảo – một thành tựu văn học mới mẻ.
Một mâu thuẫn đang tồn tại trong lối sống Mĩ La tinh cũng tồn tại trong nhân loại là: trong khi sự giao lưu hội nhập trên phạm vi thế giới càng tăng thì lối sống cô đơn khép kín, vị kỉ (hay nói cách khác là chủ nghã cá nhân) cũng có chiều hướng gia tăng.
Như vậy, văn học Mĩ La tinh, đặc biệt là dòng tiểu thuyết mới, đã mang cả hai tính thời sự: thời sự của cuộc sống loài người nói chung và thời sự văn học nghệ thuật nói riêng. Một hiện tượng văn học nghệ thuật chân chính phải mang cả hai tính chất ấy.
Từ những năm 60, tiểu thuyết Mĩ La tinh xuất hiện như “quả bom” dội vang dư luận Âu Mỹ khiến người ta ngạc nhiên coi nó như một hiện tượng thần kì. Văn xuôi Mỹ La tinh nửa thế kỉ trước còn nằm ngoài rìa nền văn học lớn của nhân loại, nay đột ngột bước lên tiền đài của văn học thế giới . “Một châu lục không phát triển về mặt kinh tế và bị áp bức đã cung cấp cho loài người một nền văn học có chất lượng cao như thế, “đó là một sự ngạc nhiên”, nhà văn Ros Bastos ngườiParaguayđã nhận định như vậy.
Giới nghiên cứu văn học thấy cần phải tìm hiểu cơ chế nảy sinh ra “sự thần kì đó”. Họ muốn thấu hiểu đặc trưng nghệ thuật và xã hội của nó, từ đó mới có thể đánh giá một cách khách quan. Tiểu thuyết mới của Mĩ La tinh là cái gì? Đâu là những tiêu chí và ranh giới phạm vi của nó? Sự khác biệt của nó so với tiểu thuyết châu Âu và tiểu thuyết Tây Ban Nha là gì?
Fernandez Retamar, nhà phê bình văn học Cubađã trả lời câu hỏi đó một cách đơn giản nhất “bản thân hiện thực của châu lục về nhân chủng học, địa lí, xã hội là thước đo duy nhất nét đặc thù của văn xuôi Mĩ La tinh”. Nhà phê bình Antonio Portuondo (Cuba) cũng viết: “tiểu thuyết Tây Ban Nha – Mĩ bao giờ cũng được nuôi dưỡng chủ yếu bằng thực tại xã hội của chúng tôi.” Nhà phê bình văn học Hoa Kì Brotherston cũng ủng hộ quan điểm đó, ông cho rằng đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết Mĩ La tinh là sự phản ánh đặc trưng dân tộc của châu lục này.
Muốn nghiên cứu nắm vững văn học Mĩ La tinh, chủ yếu là văn xuôi và phương thức sáng tác hiện thực huyền ảo của nó, chúng ta cần phải xem xét quá trình hình thành châu Mĩ và đặc điểm đất nước, dân tộc, xã hội của vùng đất này.
3.1. Khái quát sự hình thành châu Mĩ và Mĩ La tinh
Năm 1492 một thuyền trưởng Tây Ban Nha người gốc Italia tên là Christoph Columbus-con người dũng cảm đầy nghị lực đã được vua Fernando và nữ hoàng Isabeila giao nhiệm vụ tổ chức một chuyến tàu biển đi về hướng tây của Đại Tây dương nhằm mục tiêu cập bến bán đảo Ấn Độ. Mục tiêu cụ thể của chuyến đi lịch sử này là gì?
Trong nhiều thế kỉ dưới chế độ phong kiến trung cổ, tầm nhìn của người châu Âu bị bó hẹp trong khu vực Địa Trung Hải. Đại dương mênh mông bao la ở kề bên chỉ làm họ sợ hãi hơn là gợi trí tò mò. Các giai cấp phong kiến Tây Âu quen xài nhiều hàng xa xỉ như tơ lụa, hương liệu, đồ châu ngọc mua từ Ấn Độ sang. Hàng hoá này thường phải mua lại qua tay giới lái buôn Ả Rập độc quyền … Vàng bạc xứ Trung Hoa và Nhật Bản cũng có sức hấp dẫn kì lạ đối với giới vua chúa châu Âu. Những con người đi sang phía Ấn Độ – Trung Quốc – Nhật gọi là “con đường tơ lụa” lại hay bị người dân Thổ Nhĩ Kì ngăn chặn cướp cạn. Người Tây Âu băn khoăn, liệu có thể tìm một con đường biển an toàn đi tới phương Đông nhất là xứ Ấn được không? Chính sự ham muốn nguồn tơ lụa châu báu hương liệu rẻ của xứ Ấn đã trở thành động cơ thúc đẩy giai cấp phong kiến châu Âu cố tìm con đường biển đi tới xứ đó.
Trước Columbus đã có tới ba cuộc thám hiểm đi tìm Ấn Độ. Lần 1 và 2 đi tới mũi châu Phi, lần 3 đi tới phía tây Ấn Độ. Nhưng cả ba lần đều thiệt hại năng nề mà không kết quả.
Cuộc hành trình của Columbus với 90 thuỷ thủ qua nhiều ngày lênh đênh gian truân trên mặt biển Đại Tây dương (Atlantic) đã tới vùng đảo Bahamas, Cuba và một số đảo khác. Thuyền trưởng tưởng lầm rằng đã tới xứ Nhật Bản nên kiếm được một ít vàng và đường mía rồi quay trở về.Columbuscòn đi tiếp ba chuyến nữa, lần chót tới được bờ biển phía Đông của vùng Nam Mĩ – nơi đây ông đã nhầm tưởng là xứ Ấn Độ và gọi thổ dân xứ này là người Anh điêng (Indien: người Ấn). Chiến lợi phẩm ít ỏi mang về không làm hài lòng triều đình Tây Ban Nha. Thuyền trưởngColumbusbi bỏ rơi trong nghèo khổ lãng quên, và chết năm 1506 .
Về sau, nhà hàng hải người Tây Ban Nha (gốc Italia) là Amerigo tiếp tục đi thám hiểm theo lộ trình củaColumbus. Đến bờ biển Châu Mĩ, ông xem xét và kết luận đây không phải là xứ Ấn Độ . Nó là vùng đất hoàn toàn mới lạ đối với người châu Âu. Người ta đặt tên cho châu lục mới này là Amerigo, về sau đổi lại là “America” cho thống nhất với cách gọi tên các châu lục khác (Europa – châu Âu, Africa – châu Phi và Asia – châu Á) .
Năm 1519, cuộc thám hiểm vĩ đại của Magellant – nhà khoa học người Bồ Đào Nha (đang phục vụ triều đình Tây Ban Nha) đã đi trọn vòng quanh thế giới và qua Nam Mĩ. Họ xác định một cách chắc chắn: có một châu lục mới – châu Mĩ, và vẽ vùng đất này vào bản đồ thế giới.
Đầu thế kỉ 16 những đoàn quân Tây Ban Nha vượt đại dương đi chinh phục miền Trung và Nam Mĩ .
Đến giữa thế kỉ 16, những đoàn vũ trang người Pháp tiến sang Bắc Mĩ, chiếm đấtCanada.
Sang thế kỉ 17, người Anh kéo sang chiếm miền duyên hải Bắc Mĩ, thiết lập các bang trên lãnh thổ Hoa Kỳ, sau đó mở rộng lên miền Tây sau những cuộc đổ xô đi tìm vàng…Cùng lúc đó người Ireland, Thuỵ Điển, Hà Lan, Đức …cũng kéo tới hội cư.
Chúng ta cần dõi theo quá trình xâm nhập và khai thác thuộc địa của người Tây Ban Nha (sau đó thêm người Bồ Đào Nha) trên vùng đất Trung Nam Mĩ và sự hình thành khu vực văn hoá Mĩ La tinh.
Trước khi người châu Âu đặt chân tới xứ sở mà họ gọi là lục địaAmericathì nơi đây đã có một nền văn minh cổ xưa riêng biệt. Chủ nhân của nền văn hoá đó là những người thổ dân đang sống trong giai đoạn phát triển cao của xã hội thị tộc. Ba quốc gia – bộ tộc Maya, Azteques và Incas đã có trình độ văn minh khá cao. Những nông dân thành thạo trồng trọt. Thợ thủ công khéo tay sáng chế đồ vật bằng vàng, đồng, đá và kéo sợi dệt vải. Những thành trì cung điện rực rỡ, đền đài đồ sộ. Đây là những quốc gia độc lập có tôn giáo và nền văn hoá riêng trước khi người Tây Ban Nha đến.
Quân Tây Ban Nha chủ trương chiếm dần từng vùng, xoá bỏ hẳn từng quốc gia, biến thành thuộc địa. Mới đầu họ tiến hành “mua bán”, “trao đổi” những thứ mang theo như chai lọ thuỷ tinh, kiếng soi … và hàng xấp Kinh thánh Gia Tô để đổi lấy vàng bạc, đồ trang sức. Sau đó, họ tàn phá cung điện, đền đài, huỷ diệt tôn giáo bản địa, cướp bóc đồ vật quí hiếm. Họ bắt thổ dân đóng thuế bằng sản vật địa phương …
Trong cuộc chinh phục qui mô của thực dân, các giáo sĩ Thiên chúa giáo đã cộng tác đắc lực với giai cấp thưc dân. Họ ép dân bỏ tôn giáo cũ theo Thiên chúa giáo. Dưới bóng cây thánh giá, chúng đã thiêu sống nhiều người và đốt cháy nhiều làng mạc của bộ tộc da đỏ. Đứng đầu các “quốc gia mới” là các “phó vương Tây Ban Nha” – ông vua mới của vùng Mĩ La tinh.
Những đoàn thuyền Tây Ban Nha liên tục chở vàng bạc kim cương về nước. Sau khi vơ vét “của nổi”, bọn thưc dân tìm cách đào bới “của chìm”. Họ tìm cách khai mỏ, như mỏ bạc ởBoliviamỗi năm đào được 300 tấn bạc. Chúng cưỡng bách dân địa phương lao động quá sức và tàn sát những người chống đối. Hàng triệu người chết vì kiệt sức hoặc bị giết hại…Để tăng thêm lao động, bọn thực dân tổ chức tìm bắt hoặc “mua ép” người da đen ở châu Phi (vốn đang là thuộc địa của Tây Âu) đưa sang châu Mĩ làm nô lệ. Nhiều tháng trời lênh đênh trên mặt biển, những người châu Phi bị nhét dồn dưới hầm tàu, thiếu ăn uống và khí trời, khi tới châu Mĩ họ bị dồn vào các hầm mỏ và đồn điền mía, cà phê, ca cao…
Ngày càng nhiều dân chúng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha chuyển sang lập nghiệp ở châu Mĩ (vùng Trung Nam Mĩ). Chế độ cai trị thuộc địa bắt đầu. Người đàn ông thực dân kết hôn với phụ nữ bản xứ, lập nghiệp lâu dài hoặc định cư luôn. Qúa trình trộn huyết giữa các màu da trắng đỏ đen tạo ra nhiều sắc dân đa dạng hơn xưa. Đồng thời quá trình pha trộn các nguồn văn hoá Âu, Phi và bản địa cũng diễn ra. Trong khi đang sản sinh những yếu tố văn hoá mới, người dân Mĩ La tinh vẫn xem văn hoá châu Âu là nguồn chính, tiếp tục là nguồn sữa nuôi dưỡng các nền văn hoá Trung Nam Mĩ. Người dân gốc lục địa Âu vẫn hướng về quê cũ để học tập, cho con cái về “du học” ở xứ sở cội nguồn. (f)
Khi các quốc gia thuộc địa ở châu Mĩ hình thành thì liên tục xảy ra những cuộc đấu tranh giành độc lập khỏi ách cai trị của thực dân Tây Âu (thực ra là đấu tranh ly khai với mẫu quốc), đấu tranh dai dẳng hàng thế kỉ.
Mở đầu thành công là sự thành lập Hiệp chủng quốc Hoa Kì 1776 (The United States of America) rồi đến Cannada tiếp tục lan rộng khắp Trung và Nam Mĩ. Thuộc vùng Bắc Mĩ, nền văn hoá Hoa Kì phát triển mạnh, có nhiều thành tựu văn học tuy đã có phong cách riêng nhưng vẫn mang tính Âu châu khá rõ nét.
Khu vực Mĩ La tinh (do việc truyền giáo dùng văn tự La tinh nên vùng trung nam Mĩ được gọi là Mĩ La tinh) bao gồm 24 quốc gia sau: Argentina, Bahamas, Bollivia, Brasil, Cuba, Costa Rica, Colombia, Chile, Ecuador, Elsanvado, Guatemala, Grenada, Guyana, Haiiti, Honduras, Jamaika, Mexico, Nicaragua, Panama, Paraguay, Tobago, Trinidad, Uruguay, và Venezuela. Tất cả nói tiếng Tây Ban Nha, riêng vùng Brasil nói tiếng Bồ.
Nước Cubasau khi thoát khỏi ách thực dân Tây Ban Nha đã tiến thẳng lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hầu hết các nước khác chọn con đường tư bản chủ nghĩa với tư tưởng tư sản dân tộc (chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa Peron chống phụ thuộc và chống bành trướng Hoa Kì). Tư tưởng Mác- Lê nin cũng đã thâm nhập vùng này. Nhiều đảng cộng sản hoạt động hợp pháp ở một số nước. Có thể nói vùng Mĩ La tinh chứa đựng hầu hết những hệ ý thức tư tưởng của nhân loại, chủ nghĩa đa nguyên tư tưởng về chính trị là một đặc điểm của vùng đất này. Có thể tin rằng lục địa Mĩ La tinh là một “bảo tàng sống” những mô hình lịch sử nhân loại. Nơi đây vẫn còn tồn tại phương thức sống thời nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư bản và xã hội chủ nghĩa. Trong một nước cũng chứa đựng cả những hệ tư tưởng trái ngược nhau. Những thành phố lớn hiện đại tiện nghi cao cấp, sang trọng cách không xa là những bộ lạc sống gần như hoang dã, nghèo khổ, mông muội và man rợ. [Chẳng hạn một nghi lễ tín ngưỡng như sau còn tồn tại: nghi lễ tế thần mùa Xuân ở vùng trung du Colombia. Đầu vụ trồng trọt chăn nuôi, dân làng chọn một đôi nam nữ khoẻ mạnh xinh đẹp làm vật tế thần. Ngày lễ, dân làng tập trung quanh một bãi cỏ rộng, phẳng lì, ai nấy cầm sẵn dao, mác trên tay. Đôi trai gái ưu tú “được chọn” bị dẫn vào giữa bãi cỏ, trút bỏ quần áo và giao hoan trước sự chứng kiến của mọi người. Đến một thời điểm nào đó, người chỉ huy đứng kề bên đôi trai gái hô lên một mệnh lệnh. Đám dân chúng reo hò xông vào đâm chém vằm nát hai con người hạnh phúc kia. Phút chốc họ trở thành đám thịt nhão đầm đìa máu. Mỗi người dân giành lấy một nắm chạy đi rải vào đồng ruộng, chuồng gia súc để cầu mong mọi vật sinh sôi nảy nở nhiều.]
Về mặt dân tộc học, người ta rút ra vài đặc tính đáng chú ý: dân Mĩ La tinh ít bảo thủ, nhạy bén, khí chất nồng nàn mãnh liệt đến độ bạo liệt, vừa “hiện sinh” lại vừa “cô đơn”, vừa hâm mộ khoa học lại vừa sùng tín đạo Thiên chúa, kể cả những nhà khoa học.
3.2 HAI DÒNG VĂN HỌC THẾ KỶ XX Ở VÙNG MĨ LA TINH
3.2.1 Dòng văn học theo chủ nghĩa hiện thực nghiêm nhặt, tiếp nối truyền thống Tây Âu thế kỉ XIX
Khuynh hướng văn học này nối tiếp văn học hiện thực phê phán của Tây Âu thế kỉ XIX, tất nhiên phản ánh được hiện thực Nam Mĩ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Truyện ngắn, đặc biệt tiểu thuyết có lối viết trong sáng, ngắn gọn, trực tiếp với lối viết quen thuộc. Nó miêu tả hiện thực Mĩ La tinh khá chính xác về chi tiết, bám sát địa bàn và sự kiện có thật, tất nhiên vẫn có hư cấu như mọi tiếu thuyết. Tiêu biểu là tiểu thuyết “Nô tì Isaura” của nhà văn Bernador, “Những con đường đói khát”, “Đất dữ”, “Ca cao”, “Miền đất quả vàng”, “Tereza” của George Amado. Bên cạnh đó, còn có những tác phẩm tiêu biểu của Gabriel Gaccia Marquez (Ngài đại tá chờ thư, Trăm năm cô đơn…), nhà văn Cuba Carpentier với truyện “Vương quốc trần gian”, thơ ca của Pablo Neruda v.v…
Nhìn chung, dòng văn học hiện thực phê phán Mĩ La tinh chưa có những cách tân đáng kể về thi pháp nhưng cũng có giá trị trình bày hiện thực tàn khốc của vùng đất và con người xứ sở này.
Nội dung chính là trình bày dòng văn học thứ hai: dòng văn học hiện thực huyền ảo cùng với phương thức sáng tạo nghệ thuật của nó.
Jorge Amado – vị hoàng đế của văn học Brazil
Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức và cũng có không ít kẻ thù . Nhà văn nổi tiếng nhất Brazilvới hơn 40 tác phẩm được dịch ra 54 thứ tiếng trên thế giới đã từ trần tại thành phố quê hương Salvador, bangBahia, thọ 88 tuổi.
Nhân vật chính là nhân dân: hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phốSalvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazilcho đến năm 1763.
Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17. Hàng năm, hàng ngàn, hàng vạn người hâm mộ ông vẫn hành hương tới đây để được sống trong không khí mà nhà văn đã mô tả rất sống động trong các cuốn tiểu thuyết của ông. Năm 1989, trong một lần trả lời phỏng vấn, Jorde Amado bộc bạch: Các cuốn sách của tôi đều nhằm tái tạo thực tếBrazil, tái tạo cuộc sống của nhân dân. Tất cả các chủ đề đều phát sinh từ thực tế. Các nhân vật của tôi đều từ nhân dân mà ra.
Là một nhà văn cộng sản kiên cường, hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên Đất nước ngày hội Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Sertao, Cacao (1933), Mồ trôi (1934), Jubiala (1935), Biển chết (1936), Xứ Bahia của những vị thánh (1935) v.v… Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravoe Canela (1958) hoặc Dona Flor và hai người chồng (1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện.
Là nghị sĩ cộng sản của bang Sao Paulo, Amado đã nhiều lần bị cầm tù và phải sống lưu vong nhiều năm ở nước ngoài, lần đầu tiên tại Argentina trong những năm đầu 1940, lần thứ hai năm 1946 và năm 1948 sang Paris, nơi đây ông gặp các nhà văn Pháp J. P. Sartre, Aragon và danh họa Tây Ban Nha Picasso. Năm 1950, ông sang Tiệp Khắc viết tác phẩm Thế giới và Hòa bình đoạt giải thưởng Hòa bình Quốc tế. Ông còn được nhiều giải thưởng khác trong đó có giải thế giới Cinodel Luca năm 1990.
Các tác phẩm hiện thực XHCN kiểu Braziltố cáo những bất công xã hội mà Amado tâm đắc có Những vùng đất tận cùng thế giới và bộ tiểu thuyết 3 tậpHầm ngầm của tự do. Đó là những tác phẩm tâm huyết của Amado mà mọi sự hành hạ về thể xác và tinh thần của chế độ độc tài vẫn không thể làm nhà văn nhụt chí.
Đã nhiều lần được đề cử giải, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Giải duy nhất cho đến nay dành cho một nhà văn tiếng Bồ Đào Nha là ông José Saramago. Năm 1998, đất nướcBrazilcủa Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sáchParistrong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Sự có mặt của vị hoàng đế thành phốSalvadortại hội chợ được coi là một sự kiện có ý nghĩa. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ởBrazil.
Những tác phẩm tiêu biểu của Amado đã được dịch được sang tiếng Việt. Đúng như lời nhà văn Ilya Ehrenburg Liên Xô từng nói: Tất cả chúng ta đều yêu mến Jorge Amado. Chúng ta hết sức tôn trọng ông. Độc giả Xô viết coi tác phẩm Hầm ngầm của tự do như bộ tiểu thuyết Chiến tranh và Hòa bìnhcủa Lev Tolstoi. Nhà văn Pháp Albert Camus (1913 – 1960), tháng 4-1939, từng đánh giá cuốn Xứ Bahia của tất cả các vị thánh của Amado là một bộ tiểu thuyết hoành tráng làm ngây ngất lòng người. Camus viết thêm: “Điều cuối cùng tôi muốn nói là Jorge Amado viết tác phẩm này khi mới 23 tuổi”. Với cuốn Dona Flor và hai người chồng, ông Camus viết “Nó đã vượt qua câu chuyện đạo đức, câu chuyện tình yêu của nàng Dona Flor để trở thành cuộc chiến khủng khiếp giữa tinh thần và vật chất như chính lời Jorge Amado đã nói”.
Giới thiệu tiểu thuyết “Đất dữ”.
Đất vốn hiền từ nhẫn nại nuôi sống con người từ thuở sơ khai, sở dĩ trở thành đất dữ bởi sống trên đó là những con người tham lam, sẵn sàng giết nhau vì thứ phúc lợi mà đất mang lại cho con người. Đất dữ của H.Amađô thuật lại tấn bi kịch của nền kinh tế cao, quá trình chiếm đất của bọn chủ đất phong kiến hồi đầu thế kỷ. Chính bọn chúng đã đẩy những cuộc tranh giành lãnh địa thành những cuộc chiến đẫm máu, nhưng nạn nhân cuối cùng lại là những người dân nghèo. Đất dữ còn là thông điệp của tác giả gửi tới loài người: Con người chỉ có thể sống tự do và bình đẳng khi mọi phúc lợi vật chất trên thế gian này đều được phân phối một cách công bằng.
3.2.2. Dòng văn học theo chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mĩ La tinh
Trong mấy thập kỉ cuối thế kỉ XX, giới nghiên cứu văn học châu Âu và vùng Mĩ La tinh đã có nhiều công nghiên cứu với những quan điểm lí giải khác nhau. Dưới đây chúng tôi lựa chọn một số ý kiến tiêu biểu.
Nhà phê bình P. Trigo (Venezuela) đánh giá văn xuôi Mĩ La tinh bằng công thức: “khát vọng hướng tới hiện thực được chuyển thành khát vọng hướng tới ngôn ngữ”. Nghĩa là, nhà văn muốn thâm nhập vào thực chất của sự vật thông qua hình thức của chúng. Họ hướng tới tính quái dị và tính siêu thực của chúng. Tiểu thuyết Mĩ La tinh đầy sức sống, không hướng tới nhân vật mà hướng tới tình huống, hoàn cảnh.
Nhà phê bình James Joy (Bắc Ailen) phác thảo ra 7 đặc điểm của văn xuôi Mĩ
La tinh trong sự so sánh với tiểu thuyết hiện thực Tây Âu:
Nhà văn muốn và có ý thức tách khỏi tiếu thuyết Tây Âu thế kỉ XIX .
Họ tìm tòi táo bạo và thể nghiệm tác phẩm trong những tình huống đa dạng nhất, họ sử dụng lối kết cấu đa thanh, bố cục của nghệ thuật điện ảnh, dòng ý thức, lối đối thoại cùng một lúc.
Từ bỏ truyền thống ngôn ngữ vì phê bình chúng là bất lực và chỉ biết nhái lại thực tiễn, họ biến đổi ngôn ngữ văn xuôi rất mạnh dạn.
Nhà văn không chỉ đặt ra những vấn đề tư tưởng mà còn nêu ra những vấn đề thẩm mĩ nữa.
Theo họ, không có sự đối lập giữa thành thị và nông thôn.
Các nhân vật của họ không có tính định trước theo khuynh hướng hẹp hòi.
Nhà văn cố gắng miêu tả hình tượng hiện thực một cách trọn vẹn.
Nhà nghiên cứu Emir Rodrigues (Uruguay) thì nhận xét một cách thất vọng: “tiểu thuyết mới Mĩ La tinh là một cái không đồng nhất và không thể định nghĩa một cách rành rọt về lí luận”. Ông cho rằng tiểu thuyết Mĩ La tinh đi theo “chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa hiện đại” (những khuynh hướng văn học Tây Âu nửa đầu thế kỉ XX hoặc “chủ nghĩa tự nhiên” cuối thế kỉ XIX).
Những năm cuối thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu Âu Mĩ có nhiều cố gắng làm sáng tỏ đặc trưng của “tiểu thuyết mới Mĩ La tinh”. Nhà phê bình Ferandez Retama (Cuba) đã tuyên bố: “càng ngày càng thấy rõ rằng, không thể lí giải nó bằng những khái niệm cũ của những nền văn học khác”.
Và nhiều nhà nghiên cứu đã nêu lên những khái niệm mới “barokko mới” và “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” (hoặc huyền diệu).
Năm 1975, giảng bài tại Trường Đại học Tổng hợp Karakas (Venezuela), giáo sư nhà văn Cuba Carpentier đã cố gắng trình bày ngắn gọn hai khái niệm “tính barokko” và “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” và khẳng định đó là hai nhân tố quan trọng xác định một cách dứt khoát tính chất và nội dung của nghệ thuật Mĩ La tinh. Carpentier so sánh “Khác với phong cách Gotique, phong cách Roman và chủ nghĩa cổ điển vốn là những phong cách nghệ thuật có tính nhất thời về mặt lịch sử nghệ thuật, barokko mang tính phi thời gian, có tính tuyệt đối”. Chống lại những ý kiến nói về bản chất suy đồi của barokko, giáo sư nhấn mạnh: “Đó là nghệ thuật của sự vận động, của sự xung đột, nghệ thuật phục tùng sự ly tâm. Nó xuất hiện ở nơi nào có sự chuyển hoá và đổi mới.” Giáo sư đánh giá cao thánh đường Vasilij Blazhenyj ở nước Nga, “đó là một trong những mẫu mực tuyệt tác nhất của nghệ thuật Borokko Nga”.
Châu Mĩ là miền đất hứa của tính barokko vì châu lục này luôn luôn ở trong trạng thái vận động. Mỗi sự cộng sinh, mỗi cuộc lai giống đều trở thành mảnh đất màu mỡ cho sự nảy nở phong cách barokko. Có thể nói bản thân hiện thực Mĩ La tinh có tính barokko nên nghệ thuật của nó cũng mang tính barokko.
Tính Barokko mới là gì ?
Barokko tiếng Bồ Đào Nha là tên một thứ ngọc trai có hình thù kì dị. Nhìn từ các góc độ khác nhau thấy bề mặt rậm rạp, lấp lánh huyền ảo và kì thú.
Từ thế kỉ 16 và 17 ở Tây Âu đã xuất hiện trào lưu nghệ thuật tạo hình (kiến trúc, hội hoạ) gọi là Baroque nhằm chống lại lối kiến trúc Gothique. Nếu kiến trúc của Gothique có tính chất đường bệ cân đối vững chắc hài hoà lộng lẫy tĩnh lặng và vĩnh cửu thì kiến trúc Baroque coi trọng bề mặt, ưa tạo đường cong xoáy ốc, gợi ra sự vận động linh hoạt…Từ nghệ thuật kiến trúc, Baroque lan dần sang văn chương, âm nhạc, từ Tây Âu qua Nga tới Ấn Độ. Văn chương Baroque xuất hiện yếu ớt ở Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Pháp…và chưa đủ sức trở thành một trào lưu và phương thức sáng tác đáng kể. Tuy vậy, khi mới bắt đầu nhen nhóm tính Baroque trong văn học thì văn học lãng mạn đi tiên phong với nhà văn Lope de Vega, Kalderon, Gogonru…mà theo Carpentier:
“Các nhà lãng mạn là những người hành động, những người tấn công, những người có sự vận động của ý chí, của sự tự khẳng định và phẫn nộ. Cảm hứng lãng mạn của Baroque là sự thể hiện cực kì phong phú của nền văn minh, nó bay bổng và bộc lộ cảm xúc mãnh liệt”.
Những tư tưởng của Carpentier được đa số giới phê bình nghiên cứu ủng hộ. Người ta tin rằng tính Baroque là một đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết Mĩ La tinh. Đề tài “barokko và barokko mới” đã được thảo luận tại phiên họp đầu tiên của Hội nghị lần thứ 27 của Viện Văn học thế giới (Mĩ) với hơn 50 bản tham luận. Mỗi người tham dự đưa ra một khái niệm Barokko theo ý riêng, do đó chưa thống nhất được.
Khuynh hướng phê phán chỉ trích “tiểu thuyết mới” thì cho rằng “hiện thực được phản ánh trong tiểu thuyết rất lộn xộn và do đó mang tính Baroque. Rằng đó là ví tác giả đã đem cấu trúc phi logic và phản thực tế, phá vỡ những mối liên hệ nhân quả và tuyến thời gian. Dẫn chứng các tiểu thuyết “Gia đình xa xôi” của Fuentaz, “Buổi hoà nhạc Barokko” của Carpentier và “Kí sự về một cái chết được báo trước” của G.Marquez.
Chưa có một nhà tiểu thuyết nào đã thể hiện được một cách đầy đủ tính cách của người công dân Tân thế giới (New World – châu Mĩ).
Nhà phê bình Natalia (người Mĩ) đã nêu được một hệ thống dấu hiệu tính Barokko của tiểu thuyết Mĩ La tinh như sau:
Sự tìm tòi tất cả những cái mới và cái lạ thường
Cường điệu phóng đại, ngoa dụ
Sự hư cấu và rối rắm về tư tưởng, hướng tới một thiểu số trí tuệ.
Cảm thụ rất chủ quan đối với hiện thực.
Sự rắc rối của phong cách
Văn thể hiện sự mất cân bằng về tinh thần, sự hư vô và sự thất vọng, bi quan.
Nhìn chung, đa số nhà nghiên cứu vẫn khẳng định giá trị của “Barokko mới”, như bà Rumb nhà nghiên cứu – giáo sư Đại học tổng hợp California – đã coi việc nắm bắt hiện thực trong toàn bộ chỉnh thể sâu sắc của nó là đặc điểm chủ yếu của barokko Mĩ La tinh. Bà khẳng định rằng “tính barokko đó không chỉ là sự coi trọng “sự vận động””. Thực chất, đó là một cái gì lớn lao hơn thế. Ý đồ nắm bắt dòng hiện thực sống động, mãnh liệt trong tính toàn vẹn của nó đã thôi thúc Carpentier, ông quan tâm đến cuộc sống trong mọi biểu hiện của nó. Ông đã đoạn tuyệt với cách viết tiểu thuyết hiện thực truyền thống.
Những quan niệm khác nhau về chủ nghĩa hiện thực huyền ảo
Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (CHHTHA) là phương pháp, khuynh hướng, trường phái, thế giới quan hay phong cách? – Chưa có được một lời giải đáp thoả đáng cho những câu hỏi đó. Tuy vậy, nó vẫn được sử dụng trong phê bình văn học, thậm chí còn rộng rãi hơn trước. Mọi công trình nghiên cứu về các tác gia lớn như Carpentier (Cuba), GG.Marquez (Colombia), Ros Batoz (Brasil) đều phải dùng thuật ngữ “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” (Magic realisme).
Vinh dự phát minh ra thuật ngữ này thuộc về nhà nghiên cứu nghệ thuật người Đức là Frans Roh. Năm 1925 ông đã dùng thuật ngữ này nói về hội hoạ của chủ nghĩa biểu hiện. Ở châu Mĩ La tinh, thuật ngữ này lần đầu tiên được sử dụng trong văn học là năm 1948 do nhà phê bình nổi tiếng Uslar Retri (người Venezuela) khi phân tích một trong những truyện ngắn. Ông nêu lên tính chất tổng hợp lạ thường giữa cái hiện thực và cái huyền ảo / bí ẩn. Nhà phê bình viết rằng: “Đó là cái không thể gọi bằng từ nào khác chủ nghĩa hiện thực huyền ảo”.
Nhà văn giáo sư Carpentier lại thôi thúc mạnh mẽ nhằm truyền bá thuật ngữ đó hơn ai hết. Trong Lời nói đầu cuốn tiểu thuyết Vương quốc trần gian của mình (năm 1949) ông đã nói đến cái “tính hiện thực của cái kì diệu” hoặc “hiện thực thần kì” .
Những công trình nghiên cứu văn học Mĩ La tinh gần cuối thế kỉ 20 về CNHTHA gồm 3 nhóm chính:
Nhóm thứ nhất
Nhóm ý kiến được phổ biến rộng hơn cả, cho rằng CHHTHA là một khuynh hướng văn học được phát triển trực tiếp từ chủ nghĩa siêu thực của văn học Pháp đầu thế kỉ 20. Bà Auor Ocampo – nhà nghiên cứu văn học người Mexico không những đã đặt cơ sở văn học sử mà còn đặt cơ sở sinh lí học cho CNHTHA. Trong bài tham luận, bà đưa ra những lời xác nhận của các bác sĩ thần kinh, tâm thần về vai trò chủ yếu của giấc mộng trong hoạt động cơ thể, rằng “giấc mộng là một trong những nhịp điệu chủ yếu của hoạt động sống”. Từ đó tác giả kết luận: “cả chủ nghĩa siêu thực lẫn CNHTHA đều nảy sinh trên mảnh đất của nó, đều là biểu hiện tính hiện thực của sự tồn tại con người. Khác nhau ở chỗ, chủ nghĩa siêu thực phù hợp với cái vô thức của cá nhân và tư tưởng Freud còn CNHTHA thì phù hợp với cái vô thức của tập thể và tư tưởng triết học Jung”. Nhà nghiên cứu Langovski nêu ra ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực đối với toàn bộ tiểu thuyết Mĩ La tinh hiện đại, gồm các nội dung:
- Tinh thần “nổi loạn” chống lại những quy tắc của tiểu thuyết Tây Âu.
- Khát vọng tìm kiếm cái kì diệu khi đi sâu vào cái vô thức
- Tính ẩn dụ nổi bật và tính hình tượng kèm theo sự rối rắm về cú pháp
- Sự sùng bái tính phi lí của “hài hước đen”
- Lối tự sự biến hiện thực thành phi hiện thực (thủ pháp)
- Những biện pháp tu từ đặc biệt (hồi cố, montage / chồng chéo kiểu điện ảnh)
- Việc sử dụng thời gian không tuyến (nhiều loại thời gian, đảo lộn, chồng chéo hình ảnh).
Nhóm thứ hai
Việc lí giải CNHTHA là sự kêu gọi trả lại ý nghĩa đúng đắn cho tiểu thuyết Mĩ La tinh và chỉ áp dụng thuật ngữ đó cho Mĩ La tinh. Nhóm này phát triển ý kiến của Caperntier (không chấp nhận ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực Pháp với tính hiện thực của cái kì diệu) rằng “thế giới của cái kì diệu, khi người ta định đưa nó vào cuộc sống với thái độ không tín ngưỡng như các nhà siêu thực đã làm bao nhiêu năm nay, đã và sẽ chỉ là một ảo thuật văn học”. James Roy và Pedro Trigo cho rằng: “tính hiện thực của cái kì diệu là là thuộc tính riêng của tiểu thuyết Mĩ La tinh chứ không phải sự vay mượn những khám phá của chủ nghĩa hiện đại”. Đáng chú ý là cuốn sách của nhà nghiên cứu nhà văn Antonio Bravo (Peru) nêu lên tám bộ phận hợp thành của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo gồm tựu trung hai nhân tố:
Niềm tin: người ta tin vào một cái gì đó mang tính siêu nhiên, nó giao kết với tín đồ. Sự giao kết ấy là cái kì diệu (niềm tin của nhà văn, của người đọc và của nhân vật vào cái kì diệu ấy).
Cảnh vật, lịch sử, các sự kiện được bao phủ bằng tấm màn bí ẩn huyền diệu. Antonio lại chia chúng ra ba phần:
1. Phong cảnh môi trường huyền bí.
2. Nhân vật:
– Có những phẩm chất siêu nhân
– Có hành động khác thường
– Những người quan sát cái kì diệu và những người có niềm tin vào cái kì diệu.
3. Những sự kiện phi thường.
Tiếp đó tác giả lại áp dụng sơ đồ ấy vào ba cuốn tiểu thuyết tiêu biểu: “Trăm năm cô đơn” của G.G. Marquez, “Vương quốc trần gian” của Carpentier và “Pedro Paramo” của J. Russo. Antonio cho rằng đi theo chiều hướng “tính hiện thực của cái kì diệu” nhà văn không chỉ kết hợp cái có thực và cái kì diệu mà còn “đấu tranh với tính hiện thực”. Tác giả nhấn mạnh rằng “phóng đại, cường điệu là thủ pháp chủ yếu của cuộc đấu tranh với hiện thực, tức là cải tạo hiện thực bằng nghệ thuật”. Theo ông, tất cả những chủ đề chính của tiểu thuyết Mĩ La tinh hiện đại gồm: cái chết, tình yêu, du ngoạn, lòng căm thù, chính trị và sự cô đơn đều được xử lý bằng thủ pháp cường điệu phóng đại.
Nhóm thứ ba
Đây là cách tiếp cận “dân tộc học” được thể hiện trong luận án tiến sĩ của nhà nghiên cứu Ortiz Aponte (Puertorico) với tên đề tài là “CÁI SIÊU NHIÊN TRONG VĂN XUÔI MĨ LA TINH”. Nhà nữ nghiên cứu đã xuất phát từ một tiền đề hoàn toàn hợp lí: “nếu như trong tiểu thuyết Mĩ La tinh chứa đầy những cái kì diệu chính là vì trong thực tế có nhiều điều kì diệu”. Nhưng khác với Carpentier và những môn đồ của ông, bà quan niệm về những phạm trù “hiện thực” và “kì diệu” không phải với tất cả vẻ dị dạng của nó mà là rất hẹp như một tầng nền của những tín ngưỡng cụ thể, những nghi lễ, huyền thoại, những cách thờ cúng còn giữ lại được cho đến ngày nay. Chính những tầng văn hoá còn được tồn tại ấy đã thăng hoa trong văn học dưới hình thức “chủ nghĩa hiện thực huyền diệu”. Luận án tiến sĩ này đã kết hợp phương pháp và tư liệu của hai bộ môn khoa học “dân tộc học” và “ngữ văn”. Phần đầu, tác giả điểm lại một cách tổng quát dưới dạng dân tộc học những phong tục thờ cúng đa dạng lưu truyền trên lãnh thổ châu Mĩ. Phần hai, bà thử đem chúng đối chiếu với những tác phẩm của các nhà văn tiêu biểu ở Mĩ La tinh.
Một tuyển tập luận văn của tác giả Francoise Perus (người Pháp quốc tịch Mexico) vừa được xuất bản được chú ý đặc biệt và được trao giải thưởng của nhà xuất bản Cuba Casa de Las America. Cuốn sách có vẻ biệt lập khác những công trình đã trình bày ở trên, được coi là theo khuynh hướng macxit – duy vật biện chứng trong công việc nghiên cứu văn học Mĩ La tinh. F. Perus xuất phát từ luận điểm cho rằng: trong lĩnh vực phê bình hiện đại vẫn đang diễn ra cuộc đấu tranh không ngừng giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật. Luận điểm này đã dẫn bà tới cuộc bút chiến. Theo bà, những trào lưu duy tâm tập hợp xung quanh hai quan niệm chính: quan niệm thứ nhất dựa trên sự tuyệt đối hoá vai trò của cá tính sáng tác và phạm sai lầm tách chủ thể ra khỏi khách thể và tách ý thức cá nhân ra khỏi ý thức xã hội. Quan niệm thứ hai thì dựa trên sự tuyệt đối hoá phong cách, hình thức, ngôn ngữ của tác phẩm văn học.
Tranh luận với những nhà phê bình thiên về lối nhìn đặc điểm folklore của tác phẩm văn học tách rời sự tồn tại lịch sử, Perus khẳng định luận điểm “trong văn học không có những giá trị và những nhận định vĩnh cửu bất biến”, bà quả quyết rằng: tất cả những thông số thẩm mĩ của văn chương đều do tính cụ thể và gắn liền với một thời đại nhất định.
Từ quan điểm đó tác giả nhìn nhận đặc trưng của tiểu thuyết Mĩ La tinh hiện đại. Cao trào của văn học mới ở vùng này được bà giải thích bằng những nhân tố xã hội – chính trị và gắn với cách mạng: “sự nở rộ của văn chương Mĩ La tinh đã gắn bó mật thiết với thắng lợi của cách mạng Cuba – cuộc cách mạng làm thay đổi cơ bản vai trò của Mĩ La tinh trên vũ đài quốc tế. Nó cũng được tạo ra bởi sự đoàn kết của lực lượng dân chủ và chống đế quốc khiến người ta nhận ra rằng: số phận của họ trực tiếp gắn liền với cuộc đấu trang giải phóng dân tộc của các nước dang phát triển (trang 11)
Vấn đề xác định đặc trưng của Tiểu thuyết mới Mĩ La tinh vẫn còn tiếp tục. Chừng nào thiết lập được cơ sở vững chắc cho việc khái quát về mặt loại hình tác phẩm của văn xuôi Mĩ La tinh hiện đại thì những thuật ngữ như “barokko mới, hiện thực huyền ảo”, “tính hiện thực của cái huyền diệu” sẽ được chọn hoặc thay thế.
Tuy nhiên chúng tôi cũng chọn lấy những quan niệm tương đối phổ biến hiện nay để trình bày thành tựu văn học Mĩ La tinh thế kỉ 20.
Quan niệm hiện thực và cảm hứng chủ đạo của nhà văn
Theo nhà văn Mĩ La tinh, hiện thực là tất cả cuộc sống thực tại bao gồm mọi hoạt động của con người, kể cả đời sống tâm linh (niềm tin tôn giáo, mộng mị, thần giao cách cảm, trí nhớ di truyền, lời nguyền…). Tóm lại, hiện thực là tất cả những gì mà cảm giác, trí tuệ con người có thể thu nhận được.
Do gắn bó sâu sắc với cộng đồng và thời đại, người trí thức luôn luôn bị giày vò đau khổ về tình trạng lạc hậu và chia xẻ phân tán của các dân tộc hỗn tạp vùng Mĩ La tinh. Họ vừa bất bình vừa lo sợ tình cảnh đất nước ngày càng bị phụ thuộc vào các ông chủ Mĩ.
Họ lại buồn nản vì thấy nhiều người đang bị tha hoá, sa đoạ trong đời sống tinh thần sinh hoạt, kiếm sống và vô chính phủ về mặt chính trị. Họ tin rằng sự chia rẽ chính là nguyên nhân gây ra tình trạng trì trệ Mĩ La tinh. Văn chương của họ giàu triết lí v6è số phận con người, số phận dân tộc và cả châu lục Mĩ La tinh.
Mặc khác, tôn giáo Cơ Đốc giáo tuy mới tồn tại vài trăm năm ở lục địa Mĩ La tinh nhưng đã gây dấu ấn sâu đậm nơi đây tới tận tầng lớp trí thức khoa học. Cái “mặc cảm khải huyền” là tinh thần cơ bản của Kinh Thánh đang chế ngự cuộc sống tinh thần của dân chúng vùng Trung Nam Mĩ. “Mặc cảm khải huyền” là mặc cảm về ngày tận thế – ngày phán xét cuối cùng của nhân loại. Mặc cảm đó lại gặp gỡ tinh thần tư duy biện chứng khiến nhà văn nảy sinh mặc cảm nỗi ám ảnh về ngày cáo chung của hình thái kinh tế – xã hội tư bản tư hữu và dự cảm ngày khởi thuỷ của một hình thái kinh tế – xã hội mới và con người mới. (Đó là chủ nghĩa xã hội hay là một cái gì khác?). Trong tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn”, thi pháp thời gian nghệ thuật thể hiện một tâm trạng đợi chờ lo lắng khắc khoải một tương lai không rõ buồn vui sắp đến.
Theo cảm hứng đó, nhà văn hiện thực huyền ảo muốn đi ngược thời gian nghệ thuật truyền thống. Họ miêu tả nhân vật và sự kiện trong những kết cấu thời gian lạ lùng như: thời gian đa chiều, thời gian ngược chiều, thời gian đồng hiện, thời gian – không gian – thời gian…
Ở cấp độ chi tiết nghệ thuật, họ không ngần ngại miêu tả cả những chi tiết phi lý, hoang đường.
Về tư tưởng-nghệ thuật, họ tự mâu thuẫn khi vừa tiếp thu chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng lại vừa “nổi loạn” bài bác chống lại nó. Có lẽ cần phải có một tư tưởng mĩ học mới cho thời đại.
Họ chủ trương văn học phóng túng, chống giáo điều tôn giáo nhưng họ cũng rất sùng tín.
Họ ca ngợi, ước ao cuộc sống vật chất dồi dào và khoáng đạt tinh thần cho con người đồng thời lại kêu gọi cuộc sống khắc kỉ theo lí trí.
Trên đây chúng tôi đã tóm tắt, chọn lọc những ý kiến, quan điểm đánh giá và xác định đặc trưng nền văn học mới Mĩ La tinh trong vài chục năm cuối thế kỉ 20. Đặc biệt khi cuốn tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” của Marquez (Colombia) được trao giải 1982 thì sự khẳng định của giới nghiên cứu văn học về một dòng tiểu thuyết Mĩ La tinh theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo mang bản sắc riêng độc đáo cũng được thừa nhận như MỘT BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC.
Hướng dẫn học tập
So sánh với chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX Tây Âu, chúng ta nhận thấy CNHTHA Mĩ La tinh cố gắng vượt thoát ra khỏi vòng ảnh hưởng của nó nhằm đáp ứng nhu cầu mới của thời đại- thế kỉ XX đầy biến động phức tạp và dữ dội.
So sánh với chủ nghĩa hiện thực có mức độ của Hoa kì (E.Hemingway) như một cố gắng chấp nhận thực tại tư sản ở châu Mĩ. Nhà văn Hoa kì không đi sâu lí giải tận cùng bản chất của chủ nghĩa tư bản theo hướng bi quan như nhà văn Tây Âu thế kỉ XIX (Balzac). Theo họ, chủ nghiã tư bản phát triển vẫn tồn tại chứ không “giãy chết” như quan điểm mac-xit. Điều cần sửa đổi chỉ là phạm vi đạo đức.
Văn học Mĩ La tinh vẫn có một dòng tiếp tục CNHT Tây Âu- đó là chủ nghĩa hiện thực nghiêm nhặt, tiêu biểu như nhà văn George Amado (Brasil).
Thực ra CNHTHA Mĩ La tinh cũng có tiếp thu kế thừa dòng văn học siêu thực Tây Âu đầu thế kỉ XX mặc dù họ không thừa nhận.
SV cần ôn lại đặc điểm của chủ nghiã hiện thực thế kỉ XIX.
Từ đó thấy cố gắng của nhà văn hiện thực huyền ảo là mở rộng phạm vi hiện thực, thay đổi quan điểm về hiện thực.
PHẦN HAI
Phần này giới thiệu hai tác phẩm tiêu biểu của dòng văn học “hiện thực huyền ảo” Mĩ Latin. Đó là tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” và truyện ngắn “Biển của thời đã mất” của nhà văn Gabriel Gacia Marquez.
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN
(Cien anos de solidad)
Tác giả Gabriel Gacia Marquez – nhà văn Colombia
Người dịch: Nguyễn Trung Đức, Phạm Đình Lợi, Nguyễn Quốc Dũng.
Nhà Xuất Bản Văn hoc, Hà Nội 1986.
1. CỐT TRUYỆN VÀ ĐỀ TÀI
Tểu thuyết kể câu chuyện về dòng họ Buendya tồn tại được bảy thế hệ (khoảng 100 năm), người đầu tiên bị trói vào gốc cây và người cuôí cùng bị kiến ăn. Đó là một dòng họ tự lưu đày đến cõi cô đơn để chạy trốn tội loạn luân.
Tội loạn luân phát sinh do việc tên cướp biển Francis Dark tấn công vùng Rioacha khiến cho các cụ tổ của bà Ucsula Igoaran phải chuyển đi lập nghiệp ở một làng hẻo lánh. Nơi đây họ gặp gỡ dòng họ Hose Accadio Buendya cũng đến đây sinh sống bằng nghề trồng thuốc lá. Hai dòng họ này kết thân và hôn nhân chồng chéo suốt ba thế kỉ. Cuộc hôn nhân cuối cùng là một thảm hoạ: đẻ ra đứa bé có cái đuôi lợn. Tấm gương khủng khiếp ấy khiến cha mẹ của chàng trai Buendya và cha mẹ của Ucsula tìm cách ngăn cản con trai con gái hai dòng họ lấy nhau. Không có sức mạnh nào ngăn cản nổi hai người đến với nhau. Khi làm đám cưới, Mẹ cô dâu Ucsula tìm cách trì hoãn việc ăn ở của con gái bằng cách may cho cô “chiếc đai trinh tiết” dặn cô sử dụng để ngăn chặn thảm hoạ. Mới đầu sợ hãi, cô nghe lời mẹ trước khi đi ngủ nhớ mặc “chiếc quần trinh tiết”. Sự giữ gìn ấy kéo dài một năm, dân làng ngạc nhiên tò mò và đồn đại anh chồng bị bệnh bất lực. Buendya tyên bố: “dù có đẻ ra con kỳ nhông anh cũng cóc cần”. Bị một người bạn thua đá gà chế giễu, Buendya nổi nóng giết chết anh ta, rồi phá đai trinh tiết của vợ. Cuộc hôn nhân của họ không còn được thanh thản, từ đây càng thêm lo lắng. Họ rủ rê nhiều cặp trai gái khác bỏ làng ra đi, tìm đến một nơi xa xôi hẻo lánh, lập ra làng Macondo. Họ chấp nhận tự lưu đày ở cái làng cô đơn tách rời quê hương suốt một trăm năm. Nơi đây, những con trai,con gái cháu trai, gái lần lượt ra đời với nỗi cô đơn, thấp thỏm phạm tội loạn luân.
Bà cụ tổ Ucsula càng già càng cố sống lâu để nhắc nhở, canh chừng, ngăn cản lũ con cháu tránh chung đụng xác thịt, tỉnh táo nhận rõ họ hàng dòng họ, tránh loạn luân để khỏi rơi vào thảm hoạ sinh con có đuôi lợn. (Một gã đàn ông người làng quê cũ khi bị bà Ucsula từ chối tình yêu đã nguyền rủa độc địa rằng: nếu chúng mày loạn luân thì rồi sẽ lại đẻ đứa con có đuôi lợn và lúc ấy cả dòng họ mày sẽ tuyệt diệt. Từ đó bà lo sợ suốt đời). Nhưng bà không thể sống mãi để ngăn cản cô cháu gái đời thứ 5 là Amaranta kết hôn với đứa cháu trai đời thứ 6. Đôi trai gái này là hai dì cháu nhưng họ không được người lớn cho biết (vì người lớn ngoại tình sinh ra họ nên cố tình giấu giếm). Cụ bà chỉ ra sức ngăn cản nhưng không dám nói sự thật. Hai người yêu nhau mãnh liệt. Khi chàng tìm ra gốc gác của mình thì đã trễ: nàng sinh đứa con trai có đuôi lợn. Con vật huyền thoại này đã kết liễu dòng họ Buendya – Ucsula cùng với cả làng Macondo bị một cơn bão lốc khủng khiếp cuốn đi. Thế là cuộc chạy trốn tội loạn luân của họ đã không thoát khỏi sự trừng phạt.
Sự loạn luân của hai người, kéo theo lũ con cháu cũng bị loạn luân đã mở đầu và kết thúc thiên truyện làm nên cốt lõi của câu chuyện dài trăm năm. Tuy vậy thiên truyện còn miêu tả số phận của cái làng Macondo nữa.
Lúc đầu Macondo là một làng quê hiền hoà toàn những người trẻ tuổi. Làng chưa có người già chưa có trẻ con, không có nghĩa địa. Trình độ văn hoá của dân làng còn rất thấp, cuộc sống theo kiểu bộ lạc. Đứng đầu làng là chàng trai Hose Accadio Buendya được coi là tộc trưởng. Anh đã lãnh đạo dân làng theo kiểu công xã nông thôn. Dân chúng sinh sôi nảy nở, sống hiền lành, không phạm tội. Họ không cần quan cai trị hành chính và cũng không cần linh mục để săn sóc phần hồn. Mặc dù sống biệt lập với thế giới bên ngoài, dân chúng Macondo cũng biết xây dựng làng thành một miền quê trù phú và yên vui.
Những người di gan cùng với tiếng chim hót và tiếng nhạc đồng hồ đã tìm đến làng Macondo. Họ mang theo nhiều thứ mới lạ dân làng chưa từng biết. Nghề thủ công và buôn bán bắt đầu hình thành. Họ lập ra phố xá kiểu Thổ Nhĩ Kì. Macondo trở thành thị trấn. Chính phủ trung ương phái tới làng một quan thanh tra – ông Don Apoline Mocote. Sự có mặt của quan thanh tra khiến cho cuộc sống vốn thanh bình của Macondo trở nên xáo trộn. Những cuộc nội chiến liên miên ở đất nước này giữa phái Bảo Hoàng và phái Tự Do đã lan tới nhiều phen tàn phá làng Macondo khiến dân chúng vô cùng điêu đứng. Đây là lúc thế hệ thứ hai của dòng họ Buendya sinh ra và trưởng thành – nổi bật là ngài đại tá Aureliano Buendya. Ngài đã từng phát động 32 cuộc chiến tranh và đều thất bại. Ngài buộc phải kí hiệp định đình chiến Neclandia – thực chất là sự đầu hàng của phái Tự Do trước phái Bảo Hoàng.
Nhờ có đường xe lửa chạy ngang qua, làng Macondo tăng cường giao lưu với thế giới bên ngoài rộng rãi. Phim ảnh, máy phát điện, máy dĩa hát, khách du lịch và gái điếm tràn ngập làng Macondo. Công ty Chuối (thực tế là Công ty hoa quả Mĩ) cũng đến đây lập ra đồn điền chuối. Dân tứ xứ đổ về Macondo. Cuộc sống vùng này sầm uất hẳn lên. Thế hệ thứ tư của dòng họ Buendya là hai anh em sinh đôi: Aureliano Segundo và Hose Accadio. Người anh, Aureliano, to khoẻ, sống mãnh liệt kiểu hiện sinh, hết mình với cõi thế tục. Người em mảnh khảnh yếu ớt rất thông minh, đã tham gia lãnh đạo công đoàn công ty Chuối, phát động đấu tranh chống giới chủ đòi cải thiện sinh hoạt và tăng lương. Ông chủ công ty – ngài Brown người Mĩ rất xảo quyệt tráo trở tìm mọi cách từ chối yêu sách của công dân. Khi cuộc đấu tranh lên cao trào, người Mĩ đã tắm máu công nhân bằng một vụ thảm sát tất cả những người có mặt ở sân ga và sau đó dùng một đoàn tàu dài hai trăm toa chở xác chết ném xuống biển như khi chúng đổ chuối thối.
Công ty Chuối đành rút khỏi thị trấn Macondo. Bằng phép thuật, Công ty Chuối đã làm trận mưa kéo dài “bốn năm mười một tháng hai ngày” dìm ngập làng Macondo sau đó lại rang khô cái làng đáng thương này trong nắng hạn kéo dài mười một năm. Macondo xơ xác tiêu điều. Cỏ dại, sâu bọ sinh sôi nảy nở nhanh chóng và hung hãn tấn công con người ngày càng quyết liệt. Và một ngày kia, đứa con thế hệ thứ 7 vừa sinh ra có đuôi lợn đã bị đàn kiến dữ ăn thịt, một trận cuồng phong nổi lên xoá sạch làng Macondo khỏi mặt đất này.
2. KẾT CẤU VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
Khi đọc đến đoạn chót: Aureliano Babilonia giải được mã của tấm văn bản viết trên tấm da thuộc của ông già Menkyadez để lại, chúng ta nhận thấy tiểu thuyết kể về dòng họ Buendya theo phương thức thời gian đồng hiện với một kết cấu chặt chẽ phức tạp. Tiểu thuyết có hai văn bản:
Văn bản một: là văn bản chúng ta đọc từ trang đầu đến trang cuối.
Văn bản hai: là văn bản do ông già di gan làm nghề ảo thuật tên Menkyadez viết trên tấm da thuộc. Văn bản hai làm nền tảng cho văn bản một.
Tương ứng với hai văn bản trên là hai người kể chuyện. Một là nhà văn.Hai là ông già Menkyadez. Văn bản hai do ông già kể bằng thứ chữ lạ lùng khiến cho nhân vật Aureliano đời thứ sáu tốn nhiều năm học tới năm sáu ngoại ngữ mới mò ra được vào cuối thiên truyện – nó là chữ Phạn – (Sanskrit – một thứ chữ cổ Ấn Độ). Văn bản hai chính là gia phả dòng họ Buendya mà khi Aureliano đọc hiểu được thì đã quá muộn. Hai văn bản chồng chéo lên nhau theo kết cấu sau: người kể chuyện thứ nhất sau khi đã thuộc lòng câu chuyện (văn bản hai) trên tấm da thuộc, với tư cách nhà thông thái hiểu biết tất cả, theo sở thích của mình kể lại cho bạn đọc nghe những chuyện ấy theo cách tập trung mọi sự kiện, sự việc để làm nổi bật tính cách của nhân vật.
Có hai thời gian sau đây tương ứng với hai người kể chuyện:
a – Thời gian của người kể chuyện thứ nhất:
Thời gian này tương ứng với văn bản một. Tuỳ ý bắt đầu giới thiệu một nhân vật, chẳng hạn đại tá Aureliano thế hệ thứ hai, hồi tưởng về thời gian quá khứ, rồi lại tiến tới một quá khứ gần hơn : “Rất nhiều năm sau này, đứng trước đội hành hình, đại tá nhớ lại buổi chiều xa xưa ấy, cái buổi chiều cha chàng dẫn chàng đi xem nước đá”. Nhưng sự kiện đứng trước đội hành hình thực sự xảy ra ở chương 7, còn sự kiện cha chàng dẫn chàng đi xem nước đá lại được kể ở chương 1. Chương 1 lại kể các sự kiện ở giữa và cuối đời nhân vật. Câu văn trên đã chỉ ra ba thời điểm khác nhau cách xa nhau. Người đọc dễ bị lạc lối trong kết cấu thời gian phức tạp như thế. Đây là một thi pháp thời gian nghệ thuật. Nhà văn dẫn nhân vật đi ngược chiều thời gian chẳng phải vô cớ, mà để miêu tả nỗi hoài nhớ quá khứ và quê hương hoặc thể hiện sự “vô ý thức” về thời gian của nhân vật. Nó thuộc loại thời gian tâm lý.
b- Thời gian của người kể chuyện thứ hai
Thời gian này gắn với văn bản thứ hai. Đây là thời gian của cuốn gia phả (a family tree) của dòng họ Buendya từ khi ra đời qua thịnh vượng tới khi tuyệt diệt. Thời gian này chuyển động vòng tròn – là thời gian cốt truyện – thời gian thực tại, tồn tại độc lập với thời gian của người kể chuyện thứ nhất.
Hai loại thời gian này đan lồng hoà quyện với nhau, trong đó thời gian của người kể chuyện thứ hai giữ vai trò then chốt phản ánh hiện thực trì trệ chậm phát triển vùng Mĩ Latin qua sự vận động lẩn quẩn, dẫm chân tại chỗ.
Thời gian đa chiều này chính là thời gian nghệ thuật của “Trăm Năm Cô Đơn” là thành tựu đặc sắc của nhà văn Marquez.
Mặc khác, thời gian nghệ thuật chỉ đạt hiệu quả cao khi nó đi với một không gian tương ứng –làng quê Macondo xa xôi.
3. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
Làng quê Macondo là sản phẩm tuyệt diệu của hư cấu nghệ thuật. Người đọc có thể nhận ra làng Acatarata quê quán của nhà văn Marquez được làm nguyên mẫu cho tiểu thuyết. Người đọc nhận ra nhiều nhân vật có thật của làng Acatarata, trong đó có nhân vật Gabriel cùng họ tác giả và một số bạn bè của ông. Nhưng Macondo cũng là bất kì làng quê, thị trấn nào của đất nước Colombia và vùng Mĩ Latin. Macondo là một làng quê hư cấu nhưng nhưng đủ sức dung nạp mọi chuyện, từ chuyện có thật đến chuyện huyễn hoặc, hoang đường được nhà văn tưởng tượng theo gnuyên tắc hư cấu nghệ thuật truyền thống hoặc theo ngưyên tắc huyền thoại. Nhờ hư cấu, thực tại cuộc sống ùa vào chen chúc trong tác phẩm, rậm rạp chi tiết, phong phú đa dạng. Tạm phân loại các chi tiết như sau:
Cái có thực vốn là những sự kiện lịch sử xảy ra ở Colombia và Mĩ Latin được tái hiện đến từng chi tiết. Đó là những cụôc nội chiến triền miên khốc liệt giữa phái Bảo Hoàng và phái Tự Do.
Cái có thực vốn là sự lạc hậu cổ hủ của Mĩ Latin được tái hiện theo kiểu phúng dụ tạo ra giọng điệu hài hước trào phúng. Ví dụ đá nam châm, la bàn, kính lúp, thước đo góc, nước đá, máy dĩa hát, máy nổ, xe lửa, phim ảnh…là những thứ quen thuộc với thế giới bên ngoài nhưng lại là tân kì, kì diệu ở vùng Mĩ Latin.
Cái có thực mang tính kì diệu. Đó là khả năng ngoại cảm của đại tá Aureliano Buendya. Sự đồng cảm tuyệt vời giữa hai chú bé sinh đôi: khi người này uống nước chanh thì người kia vẫn nói đúng là nước chanh không pha đường.v.v…
Cái có thực được tưởng tượng theo nguyên tắc huyền thoại hoá. Ví dụ nhân vật Remediot – người đẹp bay lên trời. Cô là hiện thân của cái đẹp không thuộc về trần gian này. Vụ thảm sát hơn ba ngàn người ở Colombia xảy ra cuối những năm hai mươi thế kỉ 20 đã được huyền thoại hoá quái dị để tố cáo bản chất xấu xa đê tịên tàn bạo của tư bản Mĩ.
Cái không có thực do nhà văn dựa theo cảm quan trước thực tại xã hội mà tưởng tượng theo nguyên tắc huyền thoại hoá: cơn mưa hoa vàng trong đám tang của nhân vật Hose Accadio Buendya bộc lộ lòng xót thương của nhà văn trước một con người giàu nghị lực, thông minh, đam mê hiểu biết. Trận mưa lụt hơn bốn năm là cảm quan của nhà văn trước thực tại trì đọng của xã hội Mĩ Latin sắp đến ngày tận thế. Và cái đuôi lợn của thằng bé cuối cùng dòng họ Buendya là cảm quan của nhà văn về một con người chưa thành người, hoặc bị hạ cấp xuống thành con vật – đó là loại người sống ích kỉ trong cô đơn.
Thử so sánh GÍA TRỊ CỦA CÁI THỰC VÀ KHÔNG THỰC: chúng ta thấy cái không thực lại có ấn tượng mạnh mẽ và ý nghĩa sâu sắc hơn hẳn cái có thực. Tuy nhiên không thể thiếu cái có thực, vì nó đem lại niềm tin hiện thực cho độc giả.
4. NHÂN VẬT VÀ BẢN THÔNG ĐIỆP THỨ NHẤT
Thành công của nhà văn tạo ra không gian và thời gian nghệ thuật nói trên đã mở ra khả năng to lớn cho sự xây dựng nhân vật. Đó là nhân vật siêu mẫu (phi thường / dị thường). Tính siêu mẫu đã gây hứng thú hào hứng theo dõi của người đọc để rồi mãi mãi đọng lại trong tâm trí họ.
Trăm năm cô đơn có khoảng 60 nhân vật gồm cả chính phụ. Nhân vật nào cũng cá tính rất sống động trước mắt người đọc. Marquez đã vận dụng và nâng cao thủ pháp xây dựng nhân vật kể chuyện dân gian: chỉ chấm phá đôi nét, còn lại người đọc tha hồ tưởng tượng. Miêu tả tiếng khóc của chú bé Aureliano khi còn trong bụng mẹ để khắc hoạ tính ích kỉ của anh ta sau này. Remediot người đẹp đến tuổi trưởng thành vẫn thích sống trần trụi không y phục nhưng cô lại toả ra luồng khí độc làm chết những kẻ đam mê – đó là thủ pháp đeo mặt nạ phóng đại. Thiếu nữ Rebecca có nỗi nhớ tuổi thơ ấu – luôn mút ngón tay và bốc đất ăn khi đã 15 tuổi…Với những thủ pháp miêu tả đặc biệt ấy, Marquez giúp người đọc phân biệt được những nhân vật cùng tên trong dòng họ theo kiểu lấy tên người thế hệ trước đặt cho người thế hệ sau khác chi nhánh (tên anh đặt cho con gái của người em và ngược lại).
Tiểu thuyết có tới năm người tên Hose với tính cách khác nhau: Hose người lập làng Macondo ham mê vùi đầu nghiên cứu khoa học vô bổ, Hose Accadio kẻ đi vòng quanh thế giới, Accadio Hose một kẻ bạo ngược, Hose Accadio Segundo kẻ trầm tư lánh đời và Hose Accadio Acadio kẻ đi tu không đắc đạo.
Tiểu thuyết có những Aureliano rất khác nhau. Ngài đại tá Aureliano Buendya phát động 32 cuộc nội chiến. Aureliano Segundo kẻ trác táng ăn chơi. Aureliano Balonia thông minh, học ngoại ngữ liên miên cuối cùng đọc hiểu được văn bản tiếng Phạn trên tấm da thuộc và Aureliano cuối cùng – kẻ vừa ra đời thì bị kiến ăn thịt.
Những nhân vật của dòng họ này bao gồm hai loại người:
Những Aureliano có trí thông minh tuyệt vời nhưng trầm tư ủ dột lánh đời.
Những Hose khỏe mạnh, bạo gan, sống hiện sinh, chan hoà. Gộp lại đó chính là tính cách của ông tổ Hose Accadio Buendya được di truyền thành hai nhánh. Ông tổ này tuyền cho con cháu cả nỗi cô đơn, hoài cổ do lương tri bị dằn vặt bởi cái chết của Prudencio Anghilak bị giết bởi bàn tay Hose thế hệ 1 khi còn ở quê cũ. Tuy khoẻ mạnh thông minh có ý chí nghị lực nhưng tất cả những Hose và Aureliano đều phải thất bại, sống hết đời trong cảnh cô đơn.
Những sự giống nhau truyền đời ấy đã khiến bà lão Ucsula có cảm giác thời gian quay vòng tròn. Bà cứ nhầm lẫn Hose cháu với Hose con trai bà. Những sự lặp lại, tạo ra những vòng tròn nhỏ hợp lại thành vòng tròn lớn – dòng họ buendya chạy trốn tội loạn luân – đi lập làng mới – lại loạn luân – và bị tuyệt diệt. Vòng tròn tắt lịm.
Vì đâu họ cố gắng chạy trốn mà không thoát khỏi?
Vì các nhân vật Buendya càng ngày càng tách ra khỏi cộng đồng xã hội, sống trái tính trái nết. Thói sống đó khiến họ càng cô đơn và tách xa cộng đồng, nhỏ là gia đình, rộng hơn là làng xã và cả đất nước Colombia (kể cả cộng đồng Mĩ Latin). Người đầu tiên bỏ quê nhà đi lập làng mới, tách mình khỏi lịch sử và truyền thống văn hoá. Khi lập được làng mới, ông Hose lại khao khát nghiên cứu máy mò phát minh sáng chế và liên miên thất bại. Ông hoá điên dại đến nỗi gia đình phải xích ông vào gốc cây trong vườn nhà. Còn Hose Segundo sau khi chứng kiến vụ thảm sát rùng rợn những người công nhân đồn điền chuối ở sân ga đã quá hoảng sợ không dám đi tố cáo cho dân chúng biết mà chạy trốn về căn phòng của cụ già Menkyadez, tự giam mình trong đó, không tiếp xúc với ai ngoại trừ người em sinh đôi và thằng cháu họ.
Đặc biệt nhân vật Aureliano Buendya tách ra khỏi cộng đồng sống dị thường trở nên độc đoán chuyên quyền chẳng còn giống cái thời thơ trẻ đáng yêu. Khi có quyền hành, Buendya trở thành tên độc tài bạo chúa khát máu nhất là từ sau khi bị kết án tử hình chạy thoát. Với chức tổng tư lệnh quân đội, anh chỉ huy “trò chơi chiến tranh”. Anh chiến đấu không có mục đích lí tưởng cao cả nào hết. Anh chỉ chiến đấu cho bản thân mình, cho niềm kiêu hãnh cá nhân với phương châm xử thế “người bạn tốt nhất là người bạn vừa chết”. Anh không có bạn nữa, ngày càng cô đơn. Mọi người dần xa lánh, không cộng tác không bảo vệ anh. Anh ta lập chiến công cuối cùng bằng cách kí hiệp định đầu hàng chính phủ, được thưởng huân chương. Những người cách mạng, những người chiến sĩ tự do không tuân lệnh đầu hàng, họ vẫn tiếp tục chiến đấu khiến anh cảm thấy nhục nhã và từ chối nhận huân chương, trở về đoàn tụ gia đình, sống trong tình thương của bà mẹ – bà lão Ucsula Igoaran. Và giống như hồi nhỏ, anh nuôi cá vàng để khuây khoả. Cách sống này vẫn chỉ là ích kỉ cá nhân chẳng vì ai cả. Đó chính là cuộc đời bi kịch của đại tá Aureliano.
Chỉ có một người hiểu rõ tư chất ích kỉ của anh là mẹ anh – bà Ucsula. Đầu óc vẫn minh mẫn của bà già trên trăm tuổi còn nhớ cái tiếng khóc của Aureliano khi còn trong bụng mẹ. Tiếng khóc ấy là sự bất lực trước tình yêu, đó là sự cô đơn. Cụ già điểm lại lũ con cháu và và nhận ra bọn chúng đều trái tính trái nết ích kỉ – cái thói đáng sợ như hình ảnh cái đuôi lợn ám ảnh cụ suốt đời. Cái đuôi lợn báo hiệu con người đã mất hết tính người trở thành con thú.Bà nhận ra con cháu bà có đủ mọi phẩm chất tốt duy chỉ thiếu một thứ: tình yêu- trái tim yêu thương. Chỉ có cô bé Rebecca người không hề bú dòng sữa của cụ thì lại có trái tim yêu thương mãnh liệt vô tư. Tình yêu là cái cần thiết nhất cho dòng họ này. Chỉ có tình yêu thực sự và lòng chân thành mới làm cho cá nhân hoà hợp với cộng đồng và thoát khỏi cảnh cô đơn. Đó là lớp ý nghĩa triết học – mĩ học bộc lộ ra khi các nhân vật sắp đi vào cõi khác. Chỉ khi đứng trước mũi súng của bọn hành hình, Accadio Hose mới biết yêu thật sự nàng Rebecca Remediot. Chỉ đến khi hấp hối, Amaranta cô gái già (ế chồng vì khó tính) mới thật sự cởi mở lòng mình, sống cho người khác bằng hành động: hứa chuyển bức thư và lời nhắn của người sống cho vong hồn người thân cõi âm phủ.
Tư tưởng mĩ học về tình yêu còn được thể hiện ở nhân vật nửa huyền thoại Remediot “người đẹp”. Nhiều chàng trai say mê nàng và chết oan vì nàng. Kẻ thì rơi từ mái nhà tắm xuống chết tươi. Kẻ chết gục ngoài song cửa. Kẻ bị ngựa đá dập ngực chết. Có kẻ si mê quá hoá rồ dại… Phải chăng như lời dân chúng đồn đại nàng là cạm bẫy của tử thần. Nàng toả ra hơi độc khiến ai gần nàng đều phải tiêu vong ? Thật ra không hẳn như vậy. Những người đàn ông không biết cách mở cửa vào tâm hồn nàng. Họ chỉ biết tỏ tình theo những kiểu vụng về ngây ngô hoặc thô bạo điểu cáng. Qua những cách tỏ tình ấy, họ tỏ ra chỉ coi sắc đẹp của nàng là thứ cần hưởng thụ. Còn Remediot nàng tỏ ra là người biết yêu: “có lẽ chỉ cần một thứ tình cảm nguyên thuỷ và giản dị như tình yêu là đủ chinh phục nàng và tránh mọi nguy hiểm”. Nhưng nàng thất vọng, đành bỏ đi khỏi thế giới này.
Tư tưởng mĩ học về tình yêu còn được thể hiện ở hai nhân vật Aureliano Babilonia và Amaranta Ucsula. Hai người đã nhận ra những thất bại của dòng họ mình, và họ yêu nhau cuồng say với nguyện vọng sinh ra một Aureliano có thể chiến thắng ba mươi hai cuộc chiến, họ mong muốn tình yêu sẽ cải tạo nòi giống mình tốt hơn giỏi hơn. Tiếc thay cái tình yêu loạn luân diễn ra trong cảnh cô đơn cùng cực ấy chỉ đẩy nhanh thêm dòng họ Buendya đến giờ diệt vong kéo theo sự huỷ diệt của cả cộng đồng Macondo. Như vậy, thông điệp thứ nhất của “Trăm năm cô đơn” là kêu gọi mọi người hãy sống đúng bản chất người – tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Hãy vượt qua định kiến, thành kiến cá nhân và những hố sâu ngăn cách trong cộng đồng để cá nhân hoà hợp với gia đình. cộng đồng và xã hội. Vì lẽ đó, nhà văn GG. Marquez đã tuyên bố cuốn sách mà ông để cả đời sáng tác là “cuốn sách về cái cô đơn”. Qua đó, ông kêu gọi mọi người đoàn kết để đấu tranh, đoàn kết để chiến thắng tình trạng chậm phát triển của vùng Mĩ Latin, đoàn kết để sáng tạo ra một “thiên huyền thoại khác, định đoạt số phận ngay cả cái cách thức chết, nơi tình yêu có lối thoát và hạnh phúc là cái có khả năng thực sự và nơi những dòng họ bị kết án trăm năm cô đơn cuối cùng và mãi mãi sẽ có vận may lần thứ hai được tái sinh trên mặt đất này” [Phát biểu của tác giả trong buổi nhận giải Nobel tổ chức tại Viện Hàn Lâm Thuỵ Điển ].
Và còn những thông điệp thứ hai, thứ ba…mà nhà văn muốn gửi vào tiểu thuyết Trăm Năm Cô Đơn? Một bộ tiểu thuyết mênh mông đồ sộ chứa đựng khá nhiều vấn đề của lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hoá, lối sống và những nghi vấn kha học, tức là còn ẩn chứa nhiều bức thông điệp khác nữa mà người đọc tuỳ theo mức quan tâm có thể nhận ra.
(Nguyễn Trung Đức- Lời giới thiệu Trăm năm cô đơn, Nxb Văn học, Hà Nội, 1986)
BIỂN CỦA THỜI ĐÃ MẤT
Truyện ngắn của GG. MARQUEZ
[Bản dịch Nguyễn Trung Đức – NXB Ngoại văn Hà Nội 1987]
Các nhân vật chính:
Tobiats – chồng
Clotindez – vợ
Ông bà Jacob
Cha xứ
Herbert: một người Mĩ
Lão Catarino chủ quán
Một làng quê nghèo ven bờ biển. Không có ai thức đến sau tám giờ tối. Một đêm tháng ba, gió biển phả lên bờ một mùi hương hoa hồng. Tobias thức giấc, ngửi thấy mùi hoa, thịt da anh cũng thơm phức hấp dẫn loài cua biển bò lên, chui vào giường của anh. Anh mất ngủ cả đêm để xua lũ cua khỏi giường. Gần sáng mùi hoa hồng nhạt đi, anh mới ngủ yên được.
Buổi sáng hôm sau, anh thức dậy muộn hơn vợ. Clotindez đang nhóm lửa ngoài sân. Uống cà phê xong anh hỏi vợ có biết mùi hoa hồng đêm qua. Cô trả lời từ nhỏ đến giờ “chưa từng biết mùi hoa ấy”. Ở cái làng nghèo này, thỉnh thoảng có người từ xa tới mang những bó hoa hồng ném xuống biển – nơi đây chính là nghĩa địa của làng. Mỗi khi có người chết đều phải ném xuống. Anh bảo vợ – đó là mùi người chết. Mỗi khi thuỷ triều đưa rác rửi vào bờ, khi rút đi để lại những xác cá chết. Làng nghèo lại càng nghèo nữa.
Cùng buổi sáng đó, nhà vợ chồng ông bà Jacob. Bà lão dậy sớm hơn thường lệ, ngồi vào bàn ăn sáng, cáu kỉnh nói với chồng “nguyện vọng cuối cùng của tôi là được chôn sống”. Bà năn nỉ người chồng vốn yêu bà tha thiết, rằng bà cảm thấy mình sắp chết vì đêm qua ngửi thấy mùi hoa hồng “ông ơi, tôi muốn khi chết được chôn dưới đất như một người tử tế”. Ông an ủi rằng bà còn khoẻ mạnh…Nhưng ông cũng hứa với bà làm theo ý nguyện (được chôn sống). Ông xin bà ráng chờ ít bữa để chuẩn bị các thứ cần thiết. Ông lão rất lo lắng về thái độ của vợ.
9 giờ sáng, lão Jacob đi ra tiệm chơi cờ đam. Hỏi ông bạn có dám chôn sống vợ không. Ông kia trả lời tỉnh khô rằng có thừa can đảm làm việc đó. Và an ủi Jacob rằng nửa làng này ngửi thấy mùi hoa hồng. Jacob lang thang trong làng dò hỏi xem ai nữa ngửi thấy mùi hoa hồng. Gặp anh chàng Tobias, lão lôi anh tới nhà để làm chứng cho cho bà lão biết rằng anh cũng ngửi thấy hoa hồng. Bà lão Jacob đang ngồi may bộ đồ kiểu dành cho người đàn ông goá vợ. Bà nghe Tobias nói anh cũng ngửi thấy hoa hồng, bà không tin, cho rằng ông Jacob và Tobias nói dối bà.
Tobias thức canh nhiều đêm để chờ đợi theo dõi biển, còn Clotindez vợ anh ngủ say ngáy vang như sấm…Biển lặng lẽ hoặc sôi sục, ngầu bọt và rác, đổi màu, gầm gừ.
Tháng thám, bà lão Jacob chết ở trên giường. Cả làng đến dự an táng bà theo lệ thường: ném thi thể bà xuống biển mà không kèm vòng hoa viếng.
Mấy đêm sau, Tobias lại thức canh chờ mùi hương. Anh bừng tỉnh khi gió biển phả mùi hoa hồng. Anh gọi vợ thức dậy mà thưởng thức, Nhưng Clotindez ngái ngủ không chịu ra. Anh chạy bổ đi gõ cửa khắp làng, chỉ có một cụ già theo anh ra bãi biển để hít thở thưởng thức mùi hương ấy lâu lắm mới lại thấy kể từ sau cái chết của bà lão Jacob.
Tiệm giải khát và giải trí của lão Catarino đang mở dĩa hát phục vụ khách với những dĩa hát cũ. Mây đen kéo trùm mặt biển. Khách uống rượu và chơi cờ. Ông Jacob cũng mò tới, than phiền với bạn bè rằng cái mùi hương hoa hồng đã giết chết bà vợ yêu của ông. Lần này mùi hoa hồng từ biển thổi lên suốt mấy tuần liền, nhiều người ngửi thấy. Ông Jacob say mê chơi cờ với hy vọng rằng thì kiếm được 20 đồng pêsô đủ để bỏ làng ra đi. Ngày chủ nhật có nhiều người đến làng này trong đó có những phụ nữ vốn gốc dân làng này bỏ đi từ lâu khi làng điêu tàn. Bây giờ họ trở về béo tốt, giàu có, mang về nhiều dĩa hát mới, xổ số, sòng bạc, thuốc trường sinh bất tử bán rong…Người đến cuối cùng là một cha xứ. Dần dần cha xứ cấm đánh bạc, cấm nhạc mới và một số điệu nhảy (Mĩ Latin là nơi sinh ra nhiều điệu nhảy lạ khác hẳn châu Âu, gần đây như điệu Lambada cuối thế kỉ 20). Ngài giảng giải về mùi hoa hồng: “các con hãy cảm ơn Đức Chúa Trời, đó là mùi hương của Thượng đế. Trong Kinh Thánh, cái mùi hương này đã được nói và giải thích rõ. Chúng ta may mắn đang sống trong một làng được Chúa yêu quý”. Tobias dẫn vợ – Clotindez đi xem các trò chơi để cô làm quen với đồng tiền.
Một đêm kia, có người khách lạ xuất hiện ở làng – ngài Herbert một người Mĩ giàu có. Ngài mang theo hai thùng tiền lớn. Ngài rung chuông, dân chúng xúm xít lại lắng nghe:
– Ta là người giàu có nhất trần gian. Ta muốn chia tiền cho mọi người. Chia tiền mà không có lí do như thế sẽ chẳng có ý nghĩa gì hết.
Một người đàn ông bước ra xin ngài 48 đồng peso, ngài hỏi anh biết làm gì. Anh hót đủ 48 giọng chim hót khác nhau và ngài trao tiền cho anh. Mỗi ngày, ngài Herbert tiếp một người và cho họ tiền. Một cô gái xin 500 đồng. Ngài bảo cô phải tiếp khách đàn ông đủ 100 người ở phòng bên cạnh. Cô đồng ý. Ngài gọi 100 người đàn ông, cấp cho họ mỗi người 5 đồng lần lượt vào phòng cô gái…
Ông lão Jacob vác bàn cờ xin chơi với ngài Herbert. Lão thua liên miên, hết tiền phải ghi tiếp vào sổ nợ. Cuối cùng lão gán luôn ngôi nhà – cái tài sản duy nhất của lão cho ngài Hertbert.
Lần lượt, ngài Herbert chiếm đoạt nhẹ nhàng hầu hết nhà cửa và cái làng ven biển này. Ngài cho tổ chức một tuần lễ vui chơi có âm nhạc, pháo nổ và hoa. Ngài hứa với dân làng sẽ cho xây dựng một thành phố tương lai ở đây. Ngài đưa bức vẽ cho dân chúng xem. Họ mừng rơn với trái tim đau thương, họ cười ra nước mắt. Họ sống trong đám mây mù bảng lảng của niềm tin…Ngài lắc chuông kết thúc cuộc vui.
Rồi ngài lăn ra ngủ hết ngày này sang ngày khác. Nhiều ngày trôi qua, nhiều người đến xin ngài giúp đỡ nhưng chờ mãi ngài chưa thức dậy. Họ bỏ đi đào cua biển để sống. Cha xứ báo cho ông Jacob biết dân chúng đang dần dần bỏ làng đi nơi khác. Cha đề nghị xây một cái nhà thờ để giữ lòng tin cho dân chúng vùng này và cần phải nhờ ngài Herbert giúp đỡ. Ông Jacob nói phải chờ ngài. Hai người ngồi chơi cờ đam liên tục nhiều ngày mà ngài vẫn say ngủ. Cha xứ lú lẫn, đi lang thang khắp làng quyên tiền xây nhà thờ. Nhưng người ta cho rất ít tiền. Một ngày chủ nhật, cha dắt hai con la, một chở va li quần áo và một va li tiền, một con cha cưỡi lên và ra đi vĩnh viễn. Cha còn kịp nói với một số người, : “mùi hoa hồng sẽ không còn trở về nữa. Cần phải hiểu rằng cái làng này đã phạm tội chết”.
Khi ngài Herbert thức dậy, kêu đói. Ông Jacob bảo ngài đi đào cua nếu không chẳng có gì ăn. Ngài Herbert đi đào cát, sùi bọt mép mà chỉ được một ít con cua. Chiều đến, ngài rủ anh Tobias lặn xuống đáy biển kiếm thức ăn. Ngài bảo ở tầng đáy biển nơi ném nhiều người chết hẳn có nhiều rùa béo. Hai người nhảy xuống biển, lặn sâu tới tận nơi ánh sáng trời không thể lọt tới. Họ bơi qua một cái làng dưới đáy biển, nơi có nhiều đàn ông đàn bà cưỡi ngựa quanh những quán âm nhạc. Ngoài sân, hoa hồng rực rỡ tươi thắm. Ngài bảo: “cái làng này bị chìm vào một ngày chủ nhật – đó là một thảm hoạ”. Tobias nhìn thấy trong làng có nhiều hoa hồng, anh định bơi vào: “tôi muốn hái một bông đem về cho Clotindez để cô ấy biết thế nào là hoa hồng”. Ngài Herbert ngăn cản anh lúc khác hãy hái vì giờ này ngài đói gần chết rồi. Hai người bơi tiếp và gặp rất nhiều người chết, nằm ngửa bất động, tầng trên tầng dưới. Họ là những người bị bỏ quên – ngài nghĩ vậy – có lẽ họ đã chết hàng thế kỉ nên mới có trình độ nghỉ ngơi như thế…Vừa lúc đó có một người phụ nữ bơi qua trước mắt họ. Người ấy bơi nghiêng, hai mắt mở to, một dòng hoa trôi theo sau. Ngài Herbert dừng lại ngắm, bất động cho tới khi bông hoa cuối cùng lướt qua: “Đó là người đàn bà đẹp nhất trong đời ta được hân hạnh nhìn thấy”. Tobias nói: “Đó là bà vợ của ông Jacob đấy. Bà ấy trẻ lại đến năm mươi tuổi”.
Họ bơi tiếp tới đáy biển. Bóng tối phủ đầy. Họ nhìn thấy rất nhiều rùa, hàng ngàn con nằm úp thìa vào nhau im như hoá đá. Ngài Herbert bảo: “Chúng còn sống cả đấy, nhưng chúng đã ngủ hàng triệu năm”. Họ bắt về một số rùa. Ngài Herbert dặn Tobias: “Muốn tốt thì chớ có kể lại với ai. Anh nghĩ xem, thế gian sẽ loạn lên nếu mọi người biết rõ những cảnh tượng này”. Gần nửa đêm họ về tới làng. Họ đánh thức Clotindez đun nước làm thịt rùa. Ngài Herbert cắt tiết làm thịt con rùa. Khi moi tim con rùa, họ phải cầm dao giết chết trái tim bởi nó cứ giãy đành đạch ở ngoài sân.
Cả ba người xì xụp ăn không kịp thở. Ngài Herbert bảo: “mùi hoa hồng sẽ không bao giờ trở lại”. Tobias cãi: “nó sẽ trở lại, thưa ngài”. Clotindez nói chen vào: “Nó sẽ không bao giờ trở lại., bởi vì nó chưa bao giờ đến đây cả. Chính anh đã khuấy động cả thiên hạ”. Ngài Herbert khuyên hai anh chị hãy bỏ làng đi kiếm sống nơi khác rồi sau đó ngài từ biệt họ ra đi.
Clotindez gọi anh vào phòng đi ngủ. Nhưng anh không để ý. “Vào đây anh ngốc ơi, đã hàng thế kỉ chúng ta không đùa giỡn như những con thỏ”. Tobias đợi một hồi nữa. Khi anh vào phòng, Cltindez đã ngủ say. Anh thức cô dậy. Vì mệt mỏi ngái ngủ, họ nhầm lẫn lung tung. Cuối cùng họ cuốn vào nhau như những con giun. “Anh đang ngớ ngẩn nghĩ đến việc khác phải không?” – cô vợ cáu kỉnh hỏi. “Ừ, anh đang nghĩ về những việc khác”. Cô vợ đòi nghe những việc đó. Anh bắt cô hứa phải không được kể cho ai nghe. Cô hứa sẽ giữ kín.
– Ở dưới đáy biển có một làng gồm những ngôi nhà trắng có trồng hàng triệu bông hoa.
Clotindez giơ tay ôm lấy đầu: “Ôi anh Tobias, hãy vì tình thương của Thượng đế mong từ đây anh đừng làm những chuyện như thế nữa”.
Tobias thôi nói chuyện, lăn mấy vòng ra tận mép giường nằm chờ giấc ngủ. Anh vẫn không sao ngủ được cho đến sáng khi gió nhẹ đổi chiều và những con cua biển chịu để cho anh yên.
“Biển của thời đã mất” là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách “hiện thực huyền ảo”. Truyện tuy ngắn nhưng rậm rạp chi tiết, tầng tầng lớp lớp nhưng vẫn bảo đảm cốt cách truyện ngắn cổ điển là khép kín, không tản mạn ra nhiều hướng, không chệch hướng chính.
Một số nhân vật chính được miêu tả sinh động tự nhiên:
Nhân vật cha xứ: một chân dung biếm hoạ (kí hoạ biếm)
Nhân vật ngài Herbert: rất sinh động, uyên bác, năng động. Nhân vật bí ẩn như một nỗi e ngại, một lời cảnh báo.
Cặp vợ chồng già: ông bà lão Jacob và cặp vợ chồng trẻ Tobias – Clotindez. Đây là những nhân vật chính của thiên truyện. Đặc biệt Tobias được tập trung ánh sáng – anh là nhân vật lý tưởng của nhà văn. Anh luôn luôn băn khoăn trước cuộc đời có ý hướng thiện. Ông lão Jacob già hơn anh và bất lực hơn anh. Ông cũng có một chút yêu đời nhưng chỉ biết trông chờ vào trò cờ bạc.
Hai người phụ nữ. Bà Jacob chỉ nghĩ tới cái chết, mong được chôn sống trên đất liền như những ngày xưa đám tang có hoa hồng – cái thời xa xưa chỉ còn trong kí ức và nỗi hoài nhớ của người già. Thà rằng chết sớm mà có hoa hồng còn hơn bị ném xuống biển. Clotindez trẻ tuổi hơn, vô tư thảm hại, chưa từng biết và cũng chẳng muốn thưởng thức hoa hồng. Cô chỉ biết có ngày hôm nay và ban đêm bên cạnh người chồng là đủ. Bà Jacob vẫn bị ném xuống biển, nhưng bà không chịu chết. Bà trẻ lại và bơi cùng dòng hoa hồng. Bà sống ngược chiều thời gian, hướng về “biển của thời đã mất”. Tựa đề của thiên truyện có ý nghĩa gợi một thời êm đẹp đã qua của châu Mĩ Latin – thời có những bông hoa hồng cho cuộc sống và cái chết của con người. Thiên truyện là nỗi hoài nhớ khôn nguôi của người dân Mĩ Latin hướng về cái thời chưa có người thực dân châu Âu tới đây. Thiên truyện nhắc nhở con gnười hãy – cùng với anh Tobias thao thức – nghĩ tới một tương lai tích cực hơn.
Yếu tố “huyền ảo” trong văn học Mĩ Latin khác hẳn yếu tố “thần thoại” trong văn học dân gian của các dân tộc khác. Trong văn học dân gian, huyền thoại nhằm giải thích thế giới và ước mơ hạnh phúc, ước mơ công lý…Huyền ảo Mĩ Latin vừa là sự phản ánh tận cùng hiện thực, cũng là thủ pháp nghệ thuật gây ấn tượng mạnh mẽ làm cho tâm trí người đọc bị cuốn hút và không khỏi băn khoăn suy nghĩ nghiêm túc. Kể những chuyện huyền ảo nhưng văn học Mĩ Latin kéo người đọc trở về thực tại.
Tiểu thuyết Mĩ Latin có tham vọng chuyển tải bao trùm nhiều khoa học khác như triết học, lịch sử, địa lý, kinh tế, tâm lý học, xã hội học…với cố gắng tái tạo cái hiện thực rậm rạp bề bộn Mĩ Latin. Để thực hiện tham vọng ấy, tiểu thuyết Mĩ Latin vẫn chấp nhận phương pháp hiện thự truyền thống kiểu Tây Âu thế kỉ 19 như các tác phẩm đã trình bày trong phần chủ nghĩa hiện thực nghiêm nhặt (4.1)
Z
PHẦN KẾT
BÀN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HỌC MĨ LATIN Ở VIỆT NAM
Văn học Mĩ Latin với công chúng Việt Nam
Các tác phẩm đã dịch ở Việt Nam
Tiểu thuyết “Những con đường đói khát” của Jorge Amado (NXB Văn học 1960) là tác phẩm đầu tiên ra mắt bạn đọc ViệtNam.
“Thơ Pablo Neruda” do Đào Xuân Quý dịch (NXB Văn học 1961),
“Thơ Angeri-Cuba”.
“Đất dữ” xuất bản 1980,
“Bectilion 166” tiểu thuyếtCubacủa Puiger xuất bản 1962.
“Những người phu đốn gỗ” của Toravon (Mexico) – NXB Văn học, 1963.
. Tiểu thuyết “Ngài tổng thống” của Asturias (Guatemala) 1964, sau đó là “Dông tố”, “Giáo hoàng xanh”, “Mắt những người đã khuất” (Asturias cùng với Alejo Carpentier mở đường cho chủ nghĩa hiện thực kì ảo).
Tuyển tập truyện ngắnCubanhiều tác giả “Giờ thì em không còn sợ nữa” 1980.
Thơ Nicolas Guillen (NXB VN 1981).
“Ngài đại tá chờ thư” của GG. Marquez 1983,
“Ngôi nhà của những hồn ma” của Isabella,
“Tình yêu thời thổ tả” (GG. Marquez),
“Miền đất quả vàng” (J. Amado) 1985 và Biển cả và ái tình (J.Amado).
“Trăm năm cô đơn” lần đầu tiên được Nguyễn Trung Đức dịch từ tiếng Tây Ban Nha (lần đầu 1986, tái bản 1993),
Tướng quân trong mê hồn trận (G.G. Marquez),
Sự tráo trở của phương pháp (A. Carpentier) 1987,
Biển của thời đã mất (GG. Marquez) của Nhà xuất bản Ngoại văn 1987.
Văn học Mĩ Latin với nhà văn Việt Nam
Bài tuỳ bút đầu tiên giới thiệu vùng đất xa xôi Cuba là “Hiên ngang Cuba” của nhà văn Thép Mới đăng trong cuốn “Hiên ngang Cuba”, NXB Văn học 1962.
Nhiều tác phẩm của một số tác giả đã chấp nhận phương thức sáng tác hiện thực huyền ảo một cách tự nhiên, với các mức độ khác nhau.
Nghệ thuật huyền ảo Mĩ Latin đã mau chóng chứng tỏ sức mạnh của nó trên các lục địa. Trước hết nó lôi cuốn sự nhiệt tình hưởng ứng của cả châu Mĩ. Tiếp tục ảnh hưởng sang châu Âu, châu Á. Nhà văn cứ sáng tác bất chấp thái độ thận trọng e ngại của giới nghiên cứu phê bình. Ở Việt Nam, cái mốc đánh dấu sự ảnh hưởng của văn học Mĩ Latin khi cuốn tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” được dịch giả Nguyễn Trung Đức giới thiệu với bạn đọc Việt Nam. Có lẽ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là người đầu tiên vận dụng một vài biện pháp nghệ thuật huyền ảo vào sáng tác, như các truyện ngắn “Giọt máu”, “Kiếm sắc”, “Phẩm tiết”.
Chúng tôi thử so sánh hai cốt truyện của Marquez và Nguyễn Huy Thiệp:
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN (Marquez) |
Dòng họ Buendia, nhà giàu nhất làng Macondo. |
Trải qua bảy thế hệ, liên tục phạm tội loạn luân và cô đơn, kéo dài khoảng 100 năm. |
ọt lòng mẹ với cái đuôi lợn, bị |
kiến xúm lại ăn thịt, cả làng Macondo bị gió cuốn bay mất. |
GIỌT MÁU
(Nguyễn Huy Thiệp)
Dòng họ Phạm, một đại gia nổi tiếng, chủ họ là Phạm Ngọc Liên.
Các đời con cháu luôn luôn thủ ác, dâm loạn, lừa đảo, bị quả báo…
Đời chót, họ Phạm tán gia bại sản, cô vợ nhỏ tên Chiêm và thằng bé cuối cùng họ Phạm tìm về miền quê xa nương náu.
Truyện ngắn “Bụi trắng” của nhà văn Nguyễn Quang Thân (đăng báo Nhân Dân Chủ Nhật số ra ngày 15.7.1990) miêu tả số phận một chiếc huân chương chiến công của một liệt sĩ chống Mĩ nằm trong hành lý tư trang của cô sinh viên con gái liệt sĩ, đang học đại học ở thành phố Hồ Chí Minh. Huân chương tự huỷ thành “đám bụi trắng” khi cô nữ sinh sa ngã và thác loạn.
Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”, nhà văn Bảo Ninh đã vận dụng thủ pháp “thời gian đồng hiện và ngược chiều”. Một nhân vật người lính Trường Sơn – anh bộ đội cuối cùng của đơn vị trông coi binh trạm ở Trường Sơn đã bị quên lãng và lạc loài trong rừng sâu hàng chục năm. Khi đồng đội gặp lại, anh đã thành con vượn lẩn lút rừng sâu, nhút nhát sợ sệt tất cả…
Đặc biệt tiểu thuyết “Lời nguyền hai trăm năm” của Khôi Vũ (NXB Thanh Niên 1989) giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam. Câu chuyện kể về một nhân vật độc ác sống từ thời nhà Nguyễn cách đây khoảng hai trăm năm bị lời nguyền của kẻ thù: “khi nào dòng họ mi hết kẻ ác tâm thì sẽ phải tuyệt diệt”. Kẻ độc ác lo sợ triền miên cứ phải tiếp tục làm ác, trước khi chết không quên nhắc lại lời nguyền khủng khiếp đó cho con cháu. Suốt hai trăm năm, lời nguyền được chuyển tiếp qua các thế hệ sau khiến cả dòng họ bất đắc dĩ cứ phải làm điều ác để mong được tồn tại. Đến thế kỉ Hai Mươi một hậu duệ của dòng họ là một cán bộ cách mạng, ở một làng ven biển miền Nam Trung Bộ đã quyết chí hoá giải lời nguyền bằng cách quyết tâm tránh việc ác, cố làm những việc thiện. Kết quả là lời nguyền độc ác kia trở nên vô hiệu. Nhà văn Khôi Vũ xác nhận: “tôi thử Việt Nam hoá phong cách Mĩ Latin”. Dư luận báo chí hồi ấy khen anh “khá nhuần nhuyễn trong bút pháp hiện thực huyền ảo” (Báo Tuổi Trẻ năm 1990).
Nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên viết tập thơ “Biển đã mất” hẳn là được gợi cảm hứng từ truyện vừa “Biển của thời đã mất” của GG. Marquez.
Truyện ngắn “Khi người ta trẻ” của cây bút trẻ Phan Thị Vàng Anh đã xây dựng hai nhân vật chính “bà tôi” và “cô tôi” mang dấu vết rất rõ nét của nhân vật bà lão Ucsula và cô con gái Amaranta trong tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn”. So sánh:
Bà lão Ucsula, buồn nản vì con cháu sống cô độc, loạn luân, |
tính nết giống ông hoặc bà, chú bác thế hệ trước. Cụ cố sống để ngăn cản chúng, đến nỗi “cụ đã dần dần đánh mất ý niệm về thực tại đang sống…Cụ chìm sâu trong trạng thái nhầm lẫn hết sức kì quặc. |
Cô Amaranta xinh đẹp tối ngày thêu thùa mộ |
t tấm áo gối dành cho ngày cưới, nhưng coi khinh mọi chàng trai…Cô Amaranta tự mình mua hòm, nằm vào trong đậy nắp, không di chúc. |
KHI NGƯỜI TA TRẺ
(Phan Thị Vàng Anh)
“Bà nội tôi” buồn nản vì cô con gái tính kiêu kỳ cô độc, mãi không lấy được chồng. Trách cô gái “tính cô thất thường như ông nội”.
“Bà tôi như người khác, lờ đờ, uất ức, lẫn lộn…”
(trang 7 – sđd)
Cô tôi tối ngày chỉ viết nhật kí và cắt vải.
Cô tôi cuối cùng tự tìm cái chết bằng thuốc ngủ. Trong tủ đầy những mảnh vải áo cắt dở. Không để lại một lời tuyệt mệnh.
Mức độ ảnh hưởng Mĩ Latin trong Khi người ta trẻ khá rõ nét: trước hết Phan Thị Vàng Anh mượn mẫu hai nhân vật nữ chính. Thậm chí mượn đến cả câu văn khi miêu tả “bà” và “cô tôi”, giống tới từng lời. Giọng kể chuyện của Phan Thị Vàng Anh cố lạnh lùng như giọng văn Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng khác cơ bản là: Huy Thiệp xử lý tình huống vẫn không rời xa tính dân tộc (phần kết truyện Giọt Máu). Còn thái độ cay đắng nhẫn tâm của hai mẹ con người dẫn chuyện của Vàng Anh thì tàn nhẫn hơn cả Marquez. Khi thấy cô ruột tự tử, nhân vật “tôi” của Vàng Anh bảo: “chết đi là vừa”. Còn mẹ “tôi” thì bảo: “vớ vẩn, có đáng gì đâu!” Vậy là cả hai mẹ con nhân vật dẫn chuyện cũng tranh đua vay mượn “cái cô đơn” của nhân vật Marquez, chẳng hiểu vì lí do nào? Chỉ là cái “mốt” bắt chước vậy thôi! “Khi người ta trẻ” có quyền tiếp nhận ảnh hưởng của Mĩ Latin nhưng không nên từ bỏ tính dân tộc ViệtNam; Giọng văn Vàng Anh xa lạ với tình cảm và tâm thức người ViệtNam (nghĩa tử là nghĩa tận!). Có người chưa nghiên cứu kĩ sự vay mượn sống sít của tác phẩm “Khi người ta trẻ” đã vội vàng quá lời ca ngợi “tài năng trẻ” Phan Thị Vàng Anh!
Những vấn đề về khả năng kỳ diệu của con người như “ngoại cảm” tìm mộ tìm cốt, những sự báo mộng linh nghiệm, điềm hay điềm gở…từ lâu đã được nêu lên ở Việt Nam nhưng khoa học vẫn chưa thể trả lời. Khi đó văn học có thể lên tiếng với ngôn gnữ đặc trưng của mình. Phương pháp hiện thực huyền ảo đã cung cấp thêm một thủ pháp đắc dụng cho nhà văn ViệtNam. Bởi vậy ngay sau khi “Trăm năm cô đơn” dịch và phát hành vào nước ta, nhà văn ViệtNamtiếp nhận ảnh hưởng một cách thản nhiên mà còn công khai thừa nhận như trường hợp Khôi Vũ.
Giới nghiên cứu văn học ở ViệtNam đã ghi nhận dòng văn học hiện thực huyền ảo Mĩ Latin như sau:
TỪ ĐIỂN THUẬT NGỮ KHOA HỌC, Nhà xuất bản Giáo dục, nhóm tác giả Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Lê Bá Hán, xuất bản 1999, mục từ “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo”, trang 53.
“Trào lưu văn học quan trọng của văn học châu Mĩ Latin xuất hiện vào những năm 60 thế kỉ XX. Các nhà văn của trào lưu này thường hay mượn những truyền thuyết dân gian cổ xưa để tạo các huyền thoại mới về hiện thực xã hội châu Mĩ Latin. Tác phẩm vừa có những cảnh tượng li kỳ, hư ảo vừa có những chi tiết và hoàn cảnh hiện thực, gây cho người đọc cảm giác về các hiện tượng nghịch lý.
Nguyên tắc sáng tác của họ là “biến hiện thực thành hoang đường mà không đánh mất tính chân thực”. Để gây hiệu quả hoang đường, các tác giả thường sử dụng hình ảnh biểu trưng, ngụ ý, liên tưởng, ám thị, phóng đại, khoa trương, người và hồn ma bất phân, trật tự thời gian bị xáo trộn, thực và ảo hoà quyện. Lăng kính huyền thoại đã giúp các nhà văn vạch trần những hiện thực đen tối tàn bạo của các chế độ độc tài, phê phán tình trạng khép kín văn hoá, đoạn tuyệt giao lưu. Trào lưu này vừa kế thừa các các truyền thhống văn học cổ điển của người Anh điêng vừa dung hợp các biểu hiện của huyền thoại và nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa của phương Tây. Họ thường dùng hồn ma vạch mặt bọn chủ trang trại tàn bạo, mượn thần linh chỉ trích, chế giễu bọn độc tài bất lực, ngu độn thậm chí mượn phù thuỷ trêu chọc các nhà thống trị. Dòng văn học này có ý nghĩa nhận thức và chiến đấu cao, có ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế. Các tác giả tiêu biểu của trào lưu này có thể kể Marquez, Hoan Rulfo và Caclos Fuentex (Mexico), Hose Donose (Chile)”.
Triển vọng nghiên cứu: Sự tiếp nhận chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong văn học ViệtNam đã diễn ra như thế nào, “ViệtNam hoá” theo những hướng nào ? Để giải quyết vấn đề đó, đòi hỏi giới văn học nước ta tiến hành một đề tài nghiên cứu theo phương pháp so sánh loại hình kết hợp với việc vân dụng quy luật văn hoá học.
P.H.N
PHỤ LỤC
(đọc thêm)
Cụ già có đôi cánh khổng lồ
Truyện ngắn của G.G Marquez
Trời mưa đến ngày thứ ba. Cua bị chết ở trong nhà rất nhiều đến nỗi Pê-la-đô phải lội qua sân nhà mình ngập nước để ra biển ném chúng đi, bởi vì đứa trẻ mới sinh cả đêm qua sốt cao quá và người ta liền nghĩ ngay rằng nó ốm là do nhiễm phải cái mùi khắm của xác những con vật chết. Ngay từ ngày thứ ba, khung cảnh làng thật buồn bã. Bầu trời và mặt biển đều xám màu tro. Các bãi biển mọi ngày cứ vàng rộm chói chang dưới ánh mặt trời nay biết thành những vũng nước nổi váng bùn và rác rưởi. Ngay lúc đang trưa ánh sáng cũng lờ mờ yếu ớt đến mức Pê-la-đô từ ngoài biển trở về phải lấy hết sức bình sinh mới nhìn ra ở cuối sân có một vật gì đó đang cựa quậy và rên rỉ. Anh ta buộc phải đến rất gần mới nhận ra được có một ông già ngã sấp trên mặt đất bùn và dù cố sức vùng vẫy đến đâu ông già cũng không đứng dậy nổi bởi hai cánh to, rất to cứ ghim cổ lại.
Pê-la-đô rất kinh hoàng, vội chạy đi tìm Ê-li-xen-đa, vợ anh đang pha thuốc cho đứa trẻ ốm và lôi chị đến tận nơi có ông già. Hai người vừa lo sợ vừa chăm chú quan sát ông già. Quần áo của ông rách như tổ đỉa. Trên cái đầu hói bóng lơ thơ sót lại mấy sợi tóc bạc kéo từ thái dương ra sau gáy và hai hàm răng cũng chỉ còn lại mấy chiếc khấp khểnh. Trông ông già trong tình trạng ấy thật là thiểu não. Đôi cánh của ông già giống như cánh gà, bê bết bùn trụi gần hết lông, cứ dính chặt xuống đất bùn. Do ngắm nhìn ông già quá lâu và quá quan tâm lo lắng cho ông già, cả hai người không cảm thấy sợ nữa và bắt đầu cảm thấy ông già gần gũi với mình hơn. Thế là họ bạo dạn đến nói chuyện với ông già và ông già đã trả lời họ bằng thứ ngôn ngữ địa phương khó hiểu nhưng giọng nói của ông sang sảng như giọng nói của thủy thủ. Thế là, không kể đôi cánh kia gây cho họ cảm giác khó chịu, ông già đem lại cho họ một ý nghĩ đúng đắn. Họ nghĩ, đó là một hành khách đi trên một chiếc tàu ngoại quốc bị cơn bão đánh đắm và ông già đã dạt vào đây. Tuy nhiên, bọn họ đã gọi bà hàng xóm thông hiểu nhiều chuyện đời và chuyện bí ẩn của thần chết cùng đến xem ông già. Chỉ cần nhìn thoáng một cái, bà ta đã nói để an ủi hai người:
– Đó là một vị thần. Ta tin chắc rằng ngài đến để chúc mừng đức trẻ mới đẻ nhưng vì quá già nên đã bị mưa bão đánh ngã.
Đến ngày hôm sau, cả bàn dân thiên hạ đều biết rằng trong nhà Pê-la-đô có một vị thần bằng xương bằng thịt. Theo quan điểm của bà hàng xóm thông hiểu mọi nhẽ thì trong thời kì ấy các vị thần đều là những kẻ sống sót và phải chạy trốn cuộc nổi loạn trên thiên đường, cho nên dân làng không đang tâm dùng gậy mà đập chết ông già. Suốt buổi chiều hôm ấy, từ nhà bếp, Pê-la-đô dùng chiếc dùi cui ngồi canh chừng ông già. Trước khi đi ngủ, anh ta lôi ông già trên đất bùn đến chuồng gà và nhốt ông già vào với bầy gà trong chuồng bưng lưới sắt. Đến nửa đêm, khi trời mưa tạnh, Pê-la-đô và Ê-li-xen-đa vẫn tiếp tục giết lũ cua bò trong nhà. Sau đó ít lâu, đứa trẻ thức giấc, hết sốt, đòi ăn. Thế là vợ chồng họ cảm thấy sung sướng và họ liền trở thành hào phóng, đã quyết định để ông già lên một chiếc máng cùng với nước uống và thức ăn trong ba ngày sẽ thả cụ ra ngoài biển phó mặc cho vận may rủi. Nhưng khi trời vừa hửng sáng hai vợ chồng ra sân thì thấy hàng xóm láng giềng kéo đến đông nghịt đứng trước chuồng gà mà trêu chọc vị thần già, mà ném cho ngài các thức ăn làm như thể vị thần già là một con người không bình thường mà chỉ là một con vật làm xiếc mà thôi.
Cha xứ Gông-xa-ra đến đây lúc bảy giờ. Cha được tin này, không chỉ có những người nhẹ dạ cả tin mà còn có những người chín chắn hơn cũng tò mò kéo đến nhà Pê-la-đô và họ thi nhau bình luận về tương lai của kẻ bị nhốt trong chuống gà. Những người đần độn hơn cả thì nghĩ rằng có lẽ ông già sẽ được bổ nhiệm làm quan thị trưởng của cả thế giới. Những người khác, những người có tinh thần bi quan lại nghĩ rắng ông già sẽ được phong tước năm sao để chiền thắng tất cả các cuộc chiến tranh. Những kẻ hay mơ mộng hão lại nghĩ rằng ông già sẽ được bảo quản và giữ gìn cẩn thận như con vật giống để gieo rắc trên trái đất này một loại người có cánh và thông minh để lãnh đạo cả thế giới. Nhưng cha xứ Gông-xa-ra, trước khi là thầy tu đã là tay tiều phu lực lưỡng, dù đang chăm chú nhìn qua lưới sắt vẫn ôn lại cuốn sách giáo lí vấn đáp của mình và vẫn tiếp tục đề nghị mở rộng cánh cửa hơn để đến gần ông già đáng thương mang dáng dấp giống một con gà cộc già nua khổng lồ đang đứng ở giữa bầy gà ngây ngô. Ông già đang nằm ở xó chuồng, giữa đám vỏ hoa quả và thức ăn mà người ta ném cho từ lúc sáng sớm, để phơi đôi cánh khổng lồ giăng ra dưới nắng. Khi cha xứ Gông-xa-ra bước vào chuồng gà và dùng tiếng La-tinh chào vị thần thì ông già vẫn giữ vẻ thờ ơ mặc cho đám đông tò mò đang đứng trước của chuồng gà và hầu như ông già cũng chỉ ngước mắt lên và lẩm bẩm điều gì bắng thứ ngôn ngữ địa phương khó hiểu. Khi cha xứ biết rằng ông già này không biết ngôn ngữ La-tinh, ngôn ngữ của Thượng đế là cũng không biết chào hỏi những đại diện của mình ở hạ giới thì cha sinh nghi. Sau đó, càng quan sát kĩ, cha càng thấy ông già giống người nhiều hơn giống thần, cũng có mùi hôi ẩm trong trận bão, có rêu xanh lè trong hai cánh, và những chiếc lông lớn cũng bị bão làm cho xơ xác và như vậy là không một biểu hiện bề ngoài nào của ông già này phù hợp với các thánh được vẽ trong tranh. Thế là đức cha ra khỏi chuồng gà rồi đức cha đọc một bài thuyết giảng vắn tắt nhắc nhở những kẻ tò mò hãy cành giác trước những ý nghĩ nông cạn và chớ nên vội tin vào những điều mà mình nhìn thấy. Cha nhắc họ rằng quỷ dữ cũng thường ranh ma trá hình các thánh, trà trộn trong các vũ hội các-na-van để đánh lừa những kẻ nhẹ dạ cả tin. Cha còn lập lí rằng nếu đôi cánh kia không phải là yếu tố cơ bản để phân biệt con diều hâu với một chiếc máy bay thì lại càng không phải là điều kiện để thừa nhận ông già là một vị thần. Tuy nhiên, cha xứ hứa sẽ viết ngay một bức thư gửi lên đức giám mục báo cho ngài biết tin này để ngài viết thư lên đấng bề trên để đấng bề trên của ngài lại viết thư lên đấng bề trên nữa cho đến khi nào tới tay Đức Giáo hoàng và nhờ thế mọi người ở đây sẽ được đọc lời phán xét cuối cùng của tòa thượng thẩm.
Sự cẩn trọng của cha xứ là vô ích. Tin tức về vị thần bị nhốt trong nhà Pê-la-đô được lan truyền đi rất nhanh đến mức chỉ sau ít đó mấy giờ, sân nhà Pê-la-đô đông (…) kẻo họ làm đổ mất nhà. Ê-li-xen-đa, lưng còng hẳn đi vì phải cúi suốt ngày để quét rác chợ, lúc ấy liền nảy ra ý định rất đẹp: che sân nhà lại và bán vé với giá năm xu cho những ai muốn xem vị thần già có đôi cánh khổng lồ.
Những kẻ tò mò thích chuyện lạ từ đảo Mác-ti-ních cũng đến đây. Một gánh xiếc lưu động mang cả một gã làm trò nhào lộn cũng đến đây. Gã nhiều lần bay vù vù trên đầu đám dân chúng nhưng cũng không một ai thèm để ý vì đôi cánh của gã không phải là đôi cánh thiên thần mà chỉ là cánh của con dơi khổng lồ. Những người bất hạnh nhất của cả vùng biển Ca-ri-bê đến đến đây để mong được chữa bệnh: một người đàn bà bị bệnh tim ngay từ thời ấu thơ lúc nào cũng đếm nhịp tim mình và bà ta đã đếm được rất nhiều, tới mức không còn đủ con số cho bà ta đếm; một bác nông dân Ha-mai-ca không tài nào ngủ được vì tiếng động của các vì sao cứ làm bác khó chịu; một kẻ mộng du ban đêm cứ đi lại ồn ào không cho ai ngủ và rất nhiều những người bị bệnh khác. Trong hoàn cảnh ồn ào chen lấn đến ngộp thở kia, Pê-la-đô và Ê-li-xen-đa cực kì sung sướng vì chưa đầy một tuần, họ đã thu được rất nhiều tiền và nhét chặt vào các phòng ngủ và hàng người chờ xếp hàng đến lượt vào xem vẫn dài lê thê đến tận chân trời.
Chỉ có cụ già kia là không tham dự vào chính sự kiện do mình gây ra. Trong lúc thời gian qua đi, vị thần già tìm cách nằm thoải mái trong cái ổ người ta làm cho mình mà chịu đựng cái nóng khủng khiếp nơi hỏa ngục do những ngọn đèn dầu và nến thắp sáng ngay bên cạnh gây nên. Thoạt đầu mọi người tưởng rằng vị thần già sẽ ăn lá long não, mà theo như lời bà hàng xóm thông thái nọ đó là món ăn đặc biệt của các vị thần. Nhưng ngài không thèm ăn, cũng như ngài không đụng đến các thức ăn trưa của Giáo hoàng do các tín đồ dâng lên mà chỉ ăn lá nõn cây bê-rê-nhê-na. Kiên nhẫn đó là đức tính nổi bật của ngài, nhất là trong những ngày đầu, ngài rất nhẫn nại, cứ mặc nhiên thây kệ bọn gà thi nhau rỉa sâu bọ sinh sản trong đôi cánh ngài, thây kệ bọn ốm đau nhổ lông ngài để phết lên những chỗ đau, thây kệ những kẻ ném đá vào ngài để buộc ngài phải đứng dậy cho họ có dịp được nhìn ngắm toàn bộ thân hình ngài. Chỉ có một lần duy nhất họ khiến ngài phải đứng dậy ấy là khi bọn họ dùng một con dấu sắt nung đỏ ấn vào mạn sườn ngài, vì họ nghĩ rằng ngài đã chết rồi. Thế là ngài thức dậy đầy hoảng hốt, miệng vẫn lảm nhảm một thứ ngôn ngữ rất khó hiểu, nước mắt lưng tròng, rồi ngài vỗ cánh liền hai cái khiến cho bụi và phân gà trong chuồng bay lên tựa như một cơn lốc.
Nhiều người tin rằng sự phản ứng của ngài không phải do ngài giận dữ mà là do ngài đau đớn. Thế là từ đó trở đi, người ta chăm lo cho ngài cẩn thận hơn, vì phần lớn đều cho rằng sự nhẫn nại chịu đựng được mọi phiền toái của ngài không phài sự nhẫn nại của người anh hùng mà là trạng thái nghỉ ngơi sau bao gian truân trong bão táp.
Cha Gông-xa-ra dùng những lời lẽ ngọt ngào để thuyết phục đám dân chúng đừng đến đây nữa mà hãy chăm lo công việc gia đình trong lúc đợi sự phán quyết dứt khoát của đấng bề trên về bản thể của kẻ bị giam giữ. Nhưng đường thư Rô-ma có lẽ không còn ý thức trách nhiệm trước tính chất khẩn cấp của lá thư. Trong lúc thời gian trôi đi thì mọi người bận tâm tìm hiểu xem cái vị thần già giam giữ kia có trốn không, tiếng địa phương của ông già có phải là tiếng A-ra-mê-rô hay chỉ đơn giản ông già là một người Nê-ru-ê-gô có cánh mà thôi. Những bức thư chậm trễ ấy cứ việc đi rồi về cho đến tận cuối các thế kỉ nếu như không có một sự kiện hiển nhiên xảy ra kịp thời chấm dứt những tham vọng của đức vua.
Quả nhiên, trong những ngày ấy có một sự kiện độc đáo xảy ra. Giữa những gánh xiếc lưu động đến làng có một gánh xiếc trình diễn tiết mục về một người con gái vì không nghe lời cha mẹ bị biến thành con nhện. Vé vào cửa chẳng những rẻ tiền hơn so với vé xem vị thần già mà còn trong khi xem người ta có thể hỏi rất nhiều điều về hoàn cảnh câu chuyện xảy ra. Người ta có thể phân tích kĩ càng câu chuyện cho đến khi nào không còn nghi ngờ gì về sự thật của nó. Đó là một con nhện khổng lồ to như con cừu và nó có bộ mặt trông như bộ mặt cô trinh nữ buồn tủi. Nhưng điều đáng thương tâm hơn cả là không phải cái hình thù xấu xí, nực cười của cô ả mà chính là thái độ ngây thơ chân thành trong khi cô ả kể lại chuyện đời mình với đầy đủ các chi tiết nhỏ nhặt nhất ngay từ khi còn là trẻ ranh, cô ả đã trốn cha mẹ để đi khiêu vũ. Sau một đêm khiêu vũ không được phép của cha mẹ, trên đường về cô ta bị một tiếng sấm nổ rạch đôi bầu trời và một tia chớp xanh lè bổ xuống biến cô ta thành con nhện. Thức ăn duy nhất của cô ả là những viên thịt băm người ta vui vẻ ném vào mồm ả. Một tích truyện như thế tự nó mang một sự thật nhân bản và một bài học đáng sợ, nó đã đánh bại một cách không thương tiếc cái trò đi xem vị thần già nua không làm được trò trống gì ngoài việc đủ can đảm nhìn vào cái chết. Ngoài ra, những phép màu hiếm hoi mà người ta cố gán cho vị thần già chẳng có sức thuyết phục, tỉ như phép màu mà ngài chữa bệnh cho một ông mù thì ông mù không lành mắt lại mọc thêm được ba răng, như phép màu ngài dùng để trị bệnh cho kẻ bị bại liệt thì kẻ này không khỏi bệnh mà lại suýt nữa trúng số độc đắc hoặc phép màu ngài dùng để trị bệnh cho một người hủi không lành bệnh mà lại thấy cây hướng dương mọc lên quanh những vết lở loét. Đúng ra những phép màu này giống như những lời đùa tếu bông lơn đã đánh tan thanh danh của vị thần già khi gánh xiếc có người con gái bị biến thành nhện đến làng. Đó là nguyên nhân khiến đức cha khỏi bệnh lẩm cẩm, giúp cho sân nhà Pê-la-đô trở lại khung cảnh vắng vẻ như cái hồi mưa ba ngày liền khiến cua thi nhau bò lồm cồm khắp các phòng trong ngôi nhà.
Chủ nhà chẳng có lí do gì để mà phải ca thán. Với số vốn lớn thu được họ làm một ngôi nhà hai tầng, có ban công và vườn hoa, chân nhà ốp gạch men để cho cua không thể bò được vào phòng trong những ngày mưa to gió lớn và tại các cửa sổ lưới thép được chăng lên để không một vị thần nào có thể chui vào trong nhà. Pê-la-đô còn cho lập một trại nuôi thỏ ngay cạnh làng và xin thôi không làm trương tuần nữa. Ê-li-xen-đa mua những đôi giày cao gót và khá nhiều váy lụa y hệt y phục các bà mệnh phụ thường dùng trong các ngày lễ tết. Chỉ riêng chuồng gà là nơi họ không thèm quan tâm. Nếu như có vài lần họ cọ rửa và xông lá thơm bên trong chuồng thì không phải là để thờ phụng vị thần già mà chính là để tẩy uế cái mùi hôi thối lởn vởn khắp ngôi nhà như một hồn ma và nó làm cho ngôi nhà ngày một cũ đi. Lúc đầu, khi đứa trẻ mới lững chững biết đi, họ chú ý chăm nom nó, không cho nó đến gần chuồng gà. Nhưng rồi họ cũng quên đi nỗi sợ hãi và bắt đầu làm quen với cái mùi hôi khó chịu kia và trước khi đứa trẻ thay răng sữa, nó đã vào chơi ngay trong chuồng gà làm cho sắt gỉ rơi lả tả từng mảng một. Vị thần khó chịu trước thằng bé hiếu động nhưng đã cố sức chịu đựng nó với tinh thần nhẫn nhục của một con chó đã rũ sạch mọi ảo tưởng. Cùng một lúc đứa trẻ và vị thần già đều bị bệnh thuỷ đậu. Viên bác sĩ lo điều trị cho đứa trẻ không thể kìm được lòng thương hại đã lấy ống nghe khám bệnh cho vị thần già và ông cũng cảm thấy rằng tim vị thần già đập nhanh quá và trong thận ông già có nhiều tiếng sôi khiến ông ta cảm thấy rằng vị thần già khó mà sống nổi. Tuy nhiên điều khiến ông ta ngạc nhiên hơn cả là tính chất logic của đôi cánh. Chúng rất tự nhiên trong cái bộ phận hoàn toàn người của vị thần già khiến bác sĩ không hiểu vì sao ở những người đàn ông khác lại không có cánh.
Khi đứa trẻ đi học, nắng mưa đã phá sập chuồng gà từ lâu. Vị thần già lê đôi cánh đi lại đây đó như một kẻ mộng du. Vợ chồng Pê-la-đô vừa đuổi vị thần già ra khỏi phòng ngủ thì ngay sau đó lại thấy ngài có mặt trong nhà bếp. Dường như cùng một lúc vị thần già có mặt ở khắp mọi nơi trong ngôi nhà địa ngục đầy ma quái. Vị thần già hầu như không ăn và đôi mắt trong của ngài lại ngầu đục và thế là ngài đi mà cứ va vấp hoài vào cột nhà, đôi cánh ngài trụi hết lông. Pê-la-đô lấy chăn đắp lên lưng cho vị thần già và cho ngài nằm trong nhà và chỉ đến khi ấy anh ta mới nhận ra rằng ngài lên cơn sốt suốt đêm và trong lúc lên cơn sốt ngài lẩm bẩm nói tiếng khó hiểu của người Nê-ru-ê-gô cổ xưa. Đó là một trong những lần hiếm có họ phải ngạc nhiên bởi ý nghĩ vị thần già sẽ chết và ngay cả bà hàng xóm thông thái cũng không thể bảo họ cần phải làm gì trước khi vị thần chết.
Tuy nhiên, vị thần già không những không chết trong ngày đông tháng giá mà còn tươi tỉnh khi mặt trời thức dậy. Nhiều ngày, ngài nằm im trong góc sân biệt lập, không mấy ai nhìn thấy ngài và vào những ngày tháng chạp bỗng trên đôi cánh ngài nở ra một ít lông to và cứng, đó là những chiếc lông của con chim già nua, chúng là biểu hiện của tuổi già lão. Nhưng có lẽ chính vị thần hiểu mình hơn ai hết về những lí do thay đổi ấy bởi vì ngài tự chăm lo mình cẩn thận hơn, để không một ai nhận ra ngài, để không một ai nghe thấy tiếng hát của những người đi biển mà đôi lúc họ như đang ca hát bên dưới các vì sao.
Một buổi sáng nọ trong lúc Ê-li-xen-đa đang ngồi thái hành chuẩn bị cho bữa cơm trưa thì nghe thấy một cơn gió hình như từ ngoài khơi lọt vào nhà bếp. Thế là Ê-li-xen-đa liền thò đầu qua cái cửa sổ và cô ngạc nhiên thấy vị thần già đang chuẩn bị cất cánh bay. Lúc đầu là những cú vỗ cánh hãy còn ngượng nghịu cuốn bụi bay theo và suýt làm đổ cả mái hiên. Nhưng rồi cuối cùng, vị thần già đã bay được và ngày càng bay cao. Ê-li-xen-đa thở phào một cánh nhẹ nhõm khi chị ta nhìn thấy ngài hiên ngang vẫy đôi cánh vĩ đại của con đại bàng. Chị ta tiếp tục nhìn theo cho đến khi hình bóng vị thần già mất hút ở đường chân trời, ấy là khi chị thái hành xong, bởi vì lúc ấy không phải là lúc vất vả của đời chị mà đúng hơn lúc ấy là một điểm tưởng tượng trong đường chân trời ngoài biển cả mênh mông.
1968
Trích trong GG Mác-két, 36 truyện đặc sắc, NXB Văn học, Hà Nội, 2001)
Gợi ý nghiên cứu
1/ Nhân vật “cụ già có đôi cánh khổng lồ” đã gây tác động mạnh mẽ như thế nào đối với làng quê của vợ chồng Pê-la-đô, Ê-li-xen-đa và đứa trẻ bệnh. Hãy liên hệ với cái làng quê ven biển trong truyện ngắn “Biển của thời đã mất” cùng tác giả.
2/ Hình ảnh “vị thần già” bị nhốt trong chuồng gà gợi nên cho bạn điều gì về tình trạng trục lợi bất lương ngày nay xảy ra đây đó trong cuộc sống?
3/ Nhân vật “cụ già có đôi cánh khổng lồ” là một nhân vật “hiện thực- huyền ảo” gặp gỡ một em bé đang lớn lên trong bệnh hoạn. Bạn có suy nghĩ gì về nghệ thuật xây dựng cặp nhân vật này ?
4/ Nghệ thuật tự sự qua những điểm nhìn khác nhau tạo ra tác phẩm đa nghĩa. Hãy tìm hiểu các biện pháp tự sự trong truyện ngắn.
ß
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Lịch sử thế giới, Đại học Sư phạm Hà Nội, 1976
- Tạp chí Viện thông tin Khoa Học Xã Hội, số chuyên đề “Một số vấn đề tiểu thuyết hiện đại”, Hà Nội, 1988.
- Tạp chí Văn học số 2 năm 1989.
- Một số từ điển văn học Mĩ, Anh.
- Tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn” của GG. Marquez, NXB Văn học, Hà Nội, 1986, Nguyễn Trung Đức dịch
- Tập truyện ngắn chọn lọc Á, Phi, Mĩ La tinh “Biển của thời đã mất”,
NXB Ngoại văn, Hà Nội, 1987.
- Tiểu thuyết “Lời nguyền hai trăm năm” của Khôi Vũ, Nxb Thanh niên, HN, 1989).
- Tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp “Những ngọn gió Hua Tat”
- Tập truyện “Khi người ta trẻ”, Phan Thị Vàng Anh, Nxb Trẻ, TP HCM, 1995.
- Văn học Mỹ La tinh, Viện thông tin Khoa Học Xã Hội, thực hiện Nguyễn Thị Khánh (chủ biên), Hà Nội, 1999.
- Một số sách báo văn học khác.
Hết
An Giang 2002
Phùng Hoài Ngọc
(f ) Xem tiểu thuyết Nô tỳ Isaura của nhà văn Bernado người Brasil, sau chuyển thể thành bộ phim cùng tên. Phim kể chuyện: một nhân vật tên Leon Chiev con lão huân tước chủ nô được gửi về Pháp học đại học ởParis – lúc đó được coi là thủ đô văn hoá của Tây Âu. Anh ta đi học ngành vật lý nhưng chỉ ham mê ăn chơi. Khi anh ta về nước, lão huân tước cay đắng nhận thấy thằng con “quý tử” chẳng mang về được một mảnh bằng nào. Anh ta cũng chẳng học được thói gallant của người Pháp nên vẫn giữ thói “ông chủ thực dân” khi đối xử với nô tì Isaura. Isaura là con lai – bố là người Bồ Đào Nha da trắng, mẹ người Phi da đen. Tuy không được đi du học nhưng cô lại được học tinh hoa văn hoá Pháp, giỏi tiếng Pháp, chơi đàn Piano thành thạo. Có khi ngẫu hứng cô diễn tấu những bài nhạc lạ lùng tự sáng tạo – những giai điệu nhạc Phi, khiến người nghe kinh ngạc say mê. Cô đã sáng tạo những giai điệu pha trộn nhạc Âu cổ điển với nhạc Phi hoang dã – gọi là nhạc Mĩ La tinh và đã chinh phục được bà diễn viên kịch người Pháp…
https://nguvandhag.wordpress.com/2011/11/22/chuyen-dề-van-học-mỹ-la-tinh/