Browsing Tag

Japan

Đạo gia Lịch sử tư tưởng phương Đông Nho gia Văn học Nhật Bản

Lịch sử tôn giáo Nhật Bản

Lịch sử tôn giáo Nhật Bản

USSH trân trọng giới thiệu cuốn sách “Lịch sử tôn giáo Nhật Bản” của tác giả Sueki Fumihiko, dịch giả Phạm Thị Thu Giang (TS, giảng viên Bộ môn Nhật Bản học – Khoa Đông phương học).Việt Nam và Nhật Bản được coi là hai nước cùng nằm trong Vùng văn hoá chữ Hán và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Trung Hoa. Và tôn giáo của hai nước cũng không phải là ngoại lệ. Cả Việt Nam và Nhật Bản đều tiếp thu Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo… chủ yếu từ cái nôi là văn minh Trung Hoa. Vì vậy, người ta thường dễ dãi cho rằng, giữa hai nền văn hoá này có nhiều nét tương đồng và có thể lấy văn hoá của nước mình để làm quy chuẩn khi nhìn nhận văn hoá nước kia. Điều này xảy ra cả ở Việt Nam và Nhật Bản, khi mà sự giao lưu văn hoá đa phần mới diễn ra ở bề nổi và vẫn còn ít những công trình nghiên cứu thực sự về xã hội, lịch sử, văn hoá được giới thiệu.

Cuốn sách mà quý vị độc giả đang cầm trên tay được dịch từ trước tác ra đời cách đây 5 năm của nhà nghiên cứu Sueki Fumihiko, một người có thể nói là chuyên gia hàng đầu của Nhật Bản trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng tôn giáo. Ông đã có một thời gian dài giảng dạy tại Đại học Tokyo, sau đó chuyển sang công tác tại Trung tâm nghiên cứu văn hoá Nhật Bản Quốc tế (Nichibunken), nơi tập trung nhiều chuyên gia hàng đầu của Nhật Bản về các lĩnh vực trong ngành khoa học xã hội nhân văn. Ở Nhật Bản, một điều thường thấy là mỗi chuyên gia chỉ chuyên sâu về một mảng hẹp nào đó. Chẳng hạn, trong Lịch sử Phật giáo Nhật Bản người ta có chia thành Lịch sử Phật giáo Cổ đại, Trung thế, Cận thế,… nhưng trong đó lại phân nhỏ thành các mảng như cơ sở kinh tế tự viện, cơ cấu tổ chức giáo đoàn, tư tưởng của một tông phái, học phái của một ngôi chùa hay thậm chí là tư tưởng của một nhà sư chưa được ai biết đến… Mỗi chuyên gia đều đào sâu trong mảng nghiên cứu của mình mà không lấn sang địa hạt của chuyên gia khác. Điều này sở dĩ có thể thực hiện được bởi tỉ mỉ vốn là tính cách của phần đông người Nhật và hơn nữa, điều kiện nghiên cứu, tức nguồn tài liệu, thư tịch cổ với số lượng lớn được bảo tồn ở môi trường không thể tốt hơn. Đây vừa là điểm mạnh lại vừa là điểm yếu của giới nghiên cứu Nhật Bản, đặc biệt là trong ngành khoa học xã hội nhân văn. Vì quá chuyên sâu nên ngoài chuyên gia đó chỉ có một hoặc một vài chuyên gia khác hiểu được, nghĩa là dẫn đến những nghiên cứu quá thiếu tính xã hội, tính thực tiễn và không thể đưa ra được cái nhìn toàn cục để giải quyết những vấn đề nan giải của xã hội Nhật Bản hiện nay.

Cuốn Lịch sử tôn giáo Nhật Bản này của Giáo sư Sueki đã khắc phục được nhược điểm trên của giới nghiên cứu Nhật Bản. Ông không chỉ uyên thâm về tư tưởng của giới Phật giáo Nhật Bản suốt từ thời cổ đại đến hiện đại mà còn nghiên cứu sâu sắc cả về các nhà tư tưởng Thần đạo, Đạo giáo, Nho giáo, Quốc học, Cổ học… Hơn nữa, ông còn thường xuyên trao đổi học thuật với các chuyên gia quốc tế, nên đã có được cách nhìn tổng thể, khách quan, vượt lên trên tư duy đặc hữu thường thấy của các nhà nghiên cứu ở một đảo quốc ưa hướng nội. Điều này đã được thể hiện trong những đánh giá táo bạo của ông về vai trò của từng tôn giáo ứng với từng thời kì. Những đánh giá này đã vượt qua những “kiến giải khoa học quyền uy” vốn có, đưa ra những cách nhìn nhận mới trên cơ sở lập luận chặt chẽ và tạo cảm hứng cho nhiều nhà nghiên cứu trẻ.

Khác với Maruyama Masao, một cây đại thụ trong nghiên cứu tư tưởng Nhật Bản, ở đây Sueki Fumihiko đã tái cấu trúc khái niệm cổ tầng và thiết định đây là thứ được hình thành và bồi tụ trong suốt quá trình lịch sử, chứ không phải là yếu tố bản sắc bất biến. Với những kiến thức uyên thâm và lập luận chặt chẽ, ông đã như một ảo thuật gia và sử dụng khái niệm này để bóc tách các tầng văn hoá được bồi đắp bởi các tôn giáo nhằm tìm ra cổ tầng, yếu tố chi phối toàn bộ tư duy, tư tưởng tôn giáo của Nhật Bản. Một điều thú vị là ông đã khám phá ra hai thứ cổ tầng để từ đó lí giải những vấn đề về tư tưởng, tôn giáo Nhật Bản trong xã hội hiện đại. Một là cổ tầng thực sự ẩn giấu dưới mạch ngầm văn hoá và một là cổ tầng được “phát hiện” ra bởi Motoori Norinaga, tức thứ cổ tầng hư cấu. Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu từ những khía cạnh khác nhau mổ xẻ về nguyên nhân đưa nước Nhật đến với cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, mà đã kết thúc bằng thất bại thảm hại còn để lại di chứng nặng nề trong tinh thần của người Nhật hiện đại. Nhưng phải đợi đến trước tác này của Sueki Fumihiko thì người ta mới có thể có cách nhìn toàn diện về luồng tư tưởng dẫn đến việc Nhật Bản tham chiến, mà ông đã tổng hợp trong khái niệm cổ tầng hư cấu và buộc phải công nhận nước Nhật đã phải trả giá đắt vì những tư tưởng đó. Qua đây có thể thấy được vai trò quan trọng của tư tưởng trong tiến trình phát triển của một dân tộc và trách nhiệm của những nhà tư tưởng cũng như những nhà nghiên cứu tư tưởng đối với thời đại. Tuy nhiên, cũng cần phải nói một điều rằng, mặc dù cổ tầng đã như một chìa khoá vạn năng giúp nhà nghiên cứu Sueki Fumihiko khám phá thế giới tư duy của người Nhật, nhưng ông vẫn chưa vượt qua khỏi Maruyama Masao bởi không định hình và gọi tên được cụ thể cổ tầng đó là gì. Hơn nữa, với những ai đã hiểu về tầm phát triển cao văn hoá Nhật Bản thời cổ đại so với các nước Đông Á khác trừ Trung Quốc thì sẽ thấy lập luận cổ tầng chỉ có thể sinh ra từ khoảng thế kỉ 7,8, sau khi tiếp thu Phật giáo là điều bất hợp lí, bởi nếu không có nền tảng văn hoá, không có tài lực và trí lực được tích luỹ từ trước thì từ năm 630 Triều đình không thể cử đoàn Khiển Đường sứ sang nhà Đường để tiếp thu khoa học, kĩ thuật, tư tưởng tiến bộ và cũng không thể để lại cho con cháu ngày nay những công trình kiến trúc, những thành tựu văn hoá đỉnh cao.

Mặc dù vậy, đây vẫn là một cuốn sách hiếm hoi, trong đó đã tổng hợp được một cách logic toàn bộ lịch sử tôn giáo Nhật Bản mà khó ai có thể viết được, nếu không phải là người am hiểu về mối quan hệ đa chiều của tất cả các tôn giáo trong lịch sử của đất nước này. Đối với độc giả Việt Nam, chúng tôi mong muốn quý vị hãy tạm để sang một bên những suy nghĩ, nhận thức trước đây của mình về các tôn giáo nói chung khi bước vào ngôi nhà này của Sueki Fumihiko. Chỉ có như vậy quý vị mới có thể lí giải và khám phá được những điều thú vị, bởi bản thân các nội hàm như tôn giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, cách xây dựng giáo lí, tổ chức giáo đoàn… của Nhật Bản đã đi theo một logic hoàn toàn khác với Việt Nam.

Có thể nói, tinh tuý của cuốn sách là nằm ở chương cuối cùng, bởi ở đó thể hiện được những đúc kết cũng như những thử nghiệm mới trong tư tưởng của một học giả uyên thâm. Sự chưa hoàn thiện của chương này cũng đồng thời là sự gợi mở cho tư duy của độc giả. Đây chính là món quà quý, tặng riêng cho những độc giả đã đồng hành, “lặn lội” cùng tác giả trên chặng đường gian khó đi tìm cổ tầng. Không có gì vinh dự hơn đối với chúng tôi là sau khi gấp cuốn sách lại, mỗi độc giả sẽ tìm được một viên ngọc sáng cho nhận thức của mình.

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý vị!

http://ussh.vnu.edu.vn/lich-su-ton-giao-nhat-ban/3467

Đạo gia Lịch sử tư tưởng phương Đông Nho gia

Sự dung hợp tam giáo: Nền tảng tư tưởng của thần đạo Nhật Bản

Sự dung hợp tam giáo: Nền tảng tư tưởng của thần đạo Nhật Bản

(PGVN)

Ba tôn giáo lớn của khu vực Phật – Nho – Đạo cùng tồn tại, chi phối đời sống của con người nơi đây

TÓM TẮT:

Bài viết đề cập đến một trong các đặc trưng tôn giáo quan trọng và phổ biến nhất của vùng Đông Á, đó là sự dung hợp tam giáo (Phật-Nho-Đạo). Qua phân tích, bài viết chỉ ra những phương diện của văn hoá Nhật Bản và của Thần đạo, chịu ảnh hưởng bởi tam giáo như về tư tưởng, giáo lý, nghi lễ, phong tục dân gian… Từng tôn giáo trong tam giáo có vai trò nhất định trong xã hội Nhật Bản và đều góp phần hoàn thiện Thần đạo để được như hiện nay.

Sự dung hợp tam giáo tại Nhật Bản cũng đồng thời là ví dụ cho hiện tượng này của vùng Đông Á nói chung. Điều này có liên hệ đến đặc điểm của văn hoá gốc nông nghiệp tại Nhật Bản cũng như những quốc gia khác cùng chịu ảnh hưởng của loại hình văn hoá này.

TỪ KHOÁ: Thần đạo, Nhật Bản, Tam giáo, Sự dung hợp.
SUMMARY:
FUSION OF THE THREE RELIGIONS:
IDEOLOGICAL FOUNDATION OF JAPANESE SHINTO

This paper mentions one of the most important and popular religious features of East Asia – the fusion of the three religions (Buddhism, Confucianism, and Taoism). Having analyzed this feature in Japan, the paper pointed out some aspects in Japanese culture and Shinto that have effected by the three religions, such as ideology, religious tenet, rituals, and folk customs… Each of the three religions has certain roles in Japanese social and has contributed to improve Japanese Shinto as it today.

The fusion of the three religions in Japan is also an example for this religious phenomena in East Asia area. This is related to the original culture of rice farming of Japan as well as other nations under the influence of that culture.

KEYWORDS: Shinto, Japanese, The Three religions, The fusion.

1. ĐẶT VẦN ĐỀ

Tôn giáo là sản phẩm do con người tạo ra, là một dạng văn hoá tinh thần. Việc nghiên cứu tôn giáo cho phép ta tiếp cận với các nền văn hoá. Tại khu vực châu Á với tính đa dạng văn hoá thì các vấn đề tôn giáo ở đây lại càng phức tạp. Đáng chú ý có vùng Đông Á là nơi phổ biến hiện tượng tam giáo. Ba tôn giáo lớn của khu vực Phật – Nho – Đạo cùng tồn tại, chi phối đời sống của con người nơi đây. Trong các quốc gia của vùng Đông Á có Nhật Bản là nước vừa có tôn giáo bản địa là Thần đạo, vừa có hiện tượng dung hợp tam giáo. Qua sự phát triển của Thần đạo có thể thấy được tư tưởng dung hợp tam giáo, một biểu hiện tôn giáo đặc trưng của vùng Đông Á. Đồng thời việc tìm hiểu về tư tưởng dung hợp tam giáo của Thần đạo tại Nhật Bản cũng cho thấy sự kết hợp các yếu tố văn hoá chung của khu vực tại một quốc gia cụ thể.

2. BIỂU HIỆN CỦA SỰ DUNG HỢP TAM GIÁO TRONG THẦN ĐẠO

Thần đạo Nhật Bản được hình thành trên cơ sở niềm tin về sự tồn tại của linh hồn trong các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh, bản thân Thần đạo ngay buổi đầu cũng đã là sự tổng hợp của những tín ngưỡng dân gian rời rạc. Cho đến khi các tôn giáo từ đại lục du nhập vào Nhật Bản, Thần đạo mới chính thức có tên gọi với mục đích phân biệt với các tôn giáo mới vào. Vào lúc ấy, so với Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo thì Thần đạo vẫn là tôn giáo còn khá lỏng lẻo về cả nội dung lẫn hình thức. Nhờ các yếu tố tiếp thu được từ tam giáo mà Thần đạo dần được hoàn thiện. Đến nay thì tam giáo vẫn tồn tại bên cạnh Thần đạo. Trong đó thì sự phát triển và ảnh hưởng của Phật giáo có thể xem như rõ nét nhất trong tam giáo ở xã hội Nhật Bản.

Từ khi Phật giáo đến Nhật Bản thông qua con đường bán đảo Triều Tiên vào khoảng thế kỷ VI thì lịch sử Phật giáo ở Nhật Bản có nhiều biến đổi khác nhau. Trong đó có những thời kỳ phát triển cực thịnh, được giới cầm quyền công nhận như phương thức ổn định trật tự xã hội, chẳng hạn như dưới thời thời Thiên hoàng Suiko, Thái tử Shotoku (聖徳太子 Thánh Đức Thái tử) đã cho ban hành bộ Hiến pháp 17 điều. Từ đó về sau, Nhật Bản không chỉ tiếp thu Phật giáo qua Triều Tiên mà còn chủ động gửi người sang Trung Quốc học tập. Đánh dấu sự phát triển của Phật giáo tại Nhật Bản thì từ thời kỳ Mạc phủ trở đi, Phật giáo tham gia nhiều hơn vào lĩnh vực chính trị, có những bước phát triển phức tạp, kết hợp với cả Nho giáo. Đáng chú ý là việc các đại sư bắt đầu biên soạn những tác phẩm thể hiện tư tưởng của mình bằng tiếng Nhật, có ý thức “dân tộc hoá giáo lý Phật giáo” và ngày càng trở thành “Phật giáo Nhật Bản” thể hiện tư tưởng của con người Nhật Bản ( ).

Phật giáo sau một thời gian du nhập vào xã hội Nhật Bản đã tạo được chỗ đứng vững chắc chủ yếu bởi nguyên nhân: đáp ứng được nhu cầu của xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ, thông qua các hình thức chữa bệnh, cầu nguyện…; được giai cấp thống trị hỗ trợ. Sự liên kết giữa Thần đạo và Phật giáo phản ánh rõ tính dung hợp của tôn giáo bản địa của Nhật Bản. Phật giáo đã bổ sung những hệ thống giá trị lý luận còn “lỏng lẻo” của Thần đạo. Bấy giờ các kinh điển và tư tưởng Phật giáo đã có ảnh hưởng đến văn hoá, chính trị của giới quý tộc Nhật Bản.

Cùng với việc chữ viết đến Nhật Bản thông qua con đường kinh sách, giáo lý thì các thuật ngữ, tư tưởng Phật giáo cũng ảnh hưởng vào đời sống người Nhật. Chẳng hạn quan niệm về sự thuần khiết của Thần đạo được củng cố bởi quan niệm thanh tịnh của Phật giáo và phát triển trở thành tinh thần đề cao tính chính trực trong xã hội Nhật Bản. Phật giáo với những nội dung đề cập đến sự giải thoát sau khi chết cũng được xem là một sự bù đắp cho thiếu hụt to lớn trong Thần đạo… Không chỉ là về mặt lý luận trừu tượng mà Phật giáo còn tác động đến Thần đạo ở những phương diện cụ thể như các kiến trúc Thần xã (Jinja 神社).

Bởi vào thời kỳ cổ đại, Thần đạo chưa có nơi thờ cúng cố định, người Nhật thường lập bàn thờ làm lễ xong thì lại dọn dẹp ngay vì cho rằng thần linh không trú ngụ tại một nơi nhất định nào cả. Nhưng do ảnh hưởng từ Phật giáo mà những đền thờ Thần dần xuất hiện và hoàn thiện như hiện nay. Vào thời kỳ Nara thì những kiến trúc Thần đạo này chịu ảnh hưởng bởi Trung Hoa như Thần xã Kasuga ở Nara. Từ đó, qua thời gian, Thần đạo đã tìm được cách tạo nên hình ảnh riêng cho mình như hiện nay.

Như vậy, Thần đạo nhận được bổ sung không những về nội dung mà cả hình thức từ Phật giáo. Trên tinh thần dân tộc nói chung thì Phật giáo với quan niệm mang tính ưu tư, trầm mặc có vai trò to lớn trong việc hạn chế sự bộc phát của văn hoá Nhật Bản, một nền văn hoá mang khát vọng vươn lên mãnh liệt, muốn khẳng định mình. Phật giáo không ngừng nhắc nhở con người nhớ rằng mọi “tham, sân, si” đều là nhất thời và hư ảo, cuộc sống đích thực là ở cõi Niết Bàn, đó như một sự tiết chế những tham vọng, hướng con người đến cách sống nhẹ nhàng, điềm đạm hơn. Cùng với Thần đạo, Phật giáo cũng hoà mình vào nếp sống của người Nhật, trở thành một trong những nét đặc sắc văn hoá không thể tách rời, có tác dụng chi phối con người Nhật Bản.

Tiếp theo phải kể đến những ảnh hưởng của Nho giáo đối với Thần đạo Nhật Bản lại càng làm tăng tính hiện thế của nền văn hoá đa dạng này. Nho giáo cũng đến Nhật Bản từ khá sớm và phần lớn vẫn là thông qua bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên vì Nhật Bản tiếp thu Nho giáo chủ yếu với mục đích nhằm hệ thống trật tự xã hội nên ban đầu Nho giáo chỉ phổ biến trong tầng lớp quý tộc là những người có học vấn cao, tham gia vào các công việc trị quốc mà không lan rộng trong dân gian như Phật giáo.

Cũng như Phật giáo, Nho giáo trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau tại Nhật Bản, có lúc được sử dụng trong các quy định, Hiến pháp bởi giới cầm quyền, có lúc chỉ như chuẩn mực cho cách ứng xử, quan niệm đạo đức của con người Nhật. Nhưng nhìn chung, Nho giáo luôn hiện diện trong suốt quá trình lịch sử của Nhật Bản, góp phần hoàn thiện tư tưởng Nhật thông qua tác động đến Thần đạo, đồng thời cũng có những cải biên nhất định cho phù hợp với văn hoá ở đây.

Nhật Bản tiếp nhận các ảnh hưởng của Nho giáo có thể kể đến việc Thiên hoàng, hậu duệ của Nữ thần Mặt trời trong quan niệm Thần đạo sử dụng niên hiệu và cách dùng này còn tiếp diễn cho đến tận ngày nay. Thậm chí, cả cách gọi “thiên tử”, “thiên hạ” trong các văn thư cổ cũng được cho là ảnh hưởng từ Nho giáo. Nhật Bản cũng như hầu hết các quốc gia Đông Á khác xem Nho giáo như công cụ để củng cố vị thế của nhà vua trong xã hội. Và điều này luôn được sử dụng triệt để, cụ thể như giai đoạn Thái tử Shotoku (聖徳太子 Thánh Đức Thái tử) nhiếp chính. Bản Hiến pháp 17 điều do Thái tử ban hành là sự kết hợp tư tưởng của Phật giáo với trật tự của Nho giáo. Bên cạnh những nội dung đề cao Phật giáo thì Hiến pháp này còn chú trọng đến tầm quan trọng của hệ thống phân cấp, một đặc trưng của Nho giáo, cùng những giá trị nhân cách như lòng trung thành, chính trực… Nho giáo còn ảnh hưởng đến cách phân chia thứ bậc các chức quan trong triều đình Nhật Bản. Có thể xem Thái tử Shotoku là người đầu tiên, chính thức hợp pháp hoá hệ thống Thiên hoàng bằng những điều luật cụ thể, và nhờ đó Thiên hoàng được tôn kính như hậu duệ của Nữ thần Mặt trời ở hạ giới. Thiên hoàng vốn đã là người đứng đầu theo quan niệm Thần đạo thì nay lại được bảo vệ, củng cố quyền lực bởi Nho giáo. Thời gian tiếp theo sau đó, Nho giáo cùng với Phật giáo và Thần đạo trở thành trụ cột tư tưởng chính tại Nhật Bản. Một trong vài bằng chứng là trong thời gian từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XII, Daigakuryou (大學寮 Đại học liêu) là trường dạy, nghiên cứu về Nho giáo được xây dựng để giáo dục tư tưởng Nho giáo cho hoàng tộc và quý tộc sẽ tham gia vào công việc trị quốc.

Từ thời kỳ Kamakura trở về sau, Nhật Bản bắt đầu hình thành chế độ một quốc gia, hai chính quyền, trong đó thực quyền thuộc về Shogun (Tướng quân) cùng với tầng lớp võ sĩ. Nhờ thế mà Nho giáo càng được xem trọng bởi hiệu quả trong việc thiết lập trật tự xã hội với tính thứ bậc nghiêm ngặt.

Nhìn chung Phật giáo và Nho giáo cùng tồn tại trên cơ sở duy trì sự ổn định của xã hội Nhật. Nếu Phật giáo có ảnh hưởng đến văn hoá Nhật Bản như một tôn giáo hoàn chỉnh thì Nho giáo được xem trọng như một học thuyết chính trị để ổn định xã hội. Đáng chú ý là sau cuộc nội chiến tranh giành quyền lực kéo dài hơn một thế kỷ (1467-1573) vào cuối thời Mạc phủ Muromachi thì người Nhật lại càng có xu hướng tìm đến một học thuyết có thể phân định rạch ròi ngôi thứ, ràng buộc với các nghĩa vụ để chấm dứt tình trạng loạn lạc.

Trên thực tế thì Nhật Bản đã duy trì tính thứ bậc theo cách riêng thông qua các cấu kết xã hội từ trước khi Nho giáo đến. Về sau, Nho giáo đến Nhật Bản thì một lần nữa người Nhật tiếp thu và cải biến để phù hợp với quan niệm người Nhật, đó là việc đề cao quan hệ cha – con hơn cả quân – thần.

Đây là nét khác biệt giữa văn hoá Nhật Bản nếu so với văn hoá Trung Hoa. Có quan niệm này là bởi do người Nhật quan niệm đơn vị cơ bản của xã hội là gia đinh. Sự ổn định của quốc gia trước hết cần phải tạo dựng ở đơn vị cấu tạo cơ bản nhất, đó là gia đình. Hình tượng Thiên hoàng cũng được xem như người đứng đầu “gia đình” to lớn là đất nước. Đến lượt mình, các Shogun (Tướng quân) cũng xây dựng mô hình kiểu gia đình cùng với các gia thần, tuỳ tùng. Có những trường hợp mối quan hệ này còn bền chặt hơn cả quan hệ huyết thống và kéo dài qua nhiều thế hệ như gia đình thực sự. Các Shogun tin tưởng các gia thần, ngược lại các gia thần này cũng tuyệt đối tin tưởng và trung thành với các quyết định của Shogun, họ xem mong muốn của Shogun cũng là nhiệm vụ của mình.

Có thể thấy đây không chỉ là mối quan hệ theo kiểu trung thành đơn thuần mà còn gắn với sự biết ơn, và dưới tác động của Nho giáo, tinh thần này được phát triển cao độ và được xây dựng thành bộ luật Bushidou (武士道 Võ Sĩ đạo) nổi tiếng. Đây là bộ luật do Yamaga Sokou (山鹿素行 Sơn Lộc Tố Hành) phát triển trên cơ sở kết hợp tinh thần Thần đạo và quy tắc của Nho giáo. Về mặt đạo đức thì sự đề cao tính thuần khiết của Thần đạo, dưới ảnh hưởng của Nho giáo trở thành yêu cầu về tính chính trực, thật thà, và đây chính là phẩm chất quan trọng nhất của con người. Việc Thần đạo và Nho giáo kết hợp với nhau tiêu biểu còn thể hiện qua việc biên soạn Hoà Luận ngữ (和論語), được cho là ghi lại lời dạy của các vị thần, có ảnh hưởng đến đời sống đạo đức và lối sống của người dân. Không chỉ vậy, khi tư tưởng muốn khôi phục lại vị thế của Thần đạo, thoát khỏi sự ảnh hưởng của Phật giáo thì việc kết hợp với Nho giáo có tác dụng tích cực khi những nhà Thần đạo học cũng là những người nghiên cứu sâu sắc Nho giáo, điều này giúp củng cố các lý luận của Thần đạo chặt chẽ hơn, dẫn đến sự ra đời của Fukko Shinto  (復古神道 Phục cổ Thần đạo) như thành quả nổi bật của phong trào Kokugaku (国學 Quốc học) trong thời Mạc phủ Tokugawa.

Trong tam giáo thì Đạo giáo cũng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của Thần đạo thông qua việc kết hợp với cả Phật giáo và các yếu tố bản địa sẵn có. Đạo giáo đã du nhập vào Nhật Bản bằng nhiều hình thức khác nhau, cùng thời gian với Phật giáo. Đạo giáo vốn là sự tổng hợp của nhiều nội dung, không chỉ là tư tưởng của Lão Tử và Trang Tử mà đó còn là một phần kiến thức cổ điển của Trung Hoa như tiên tri, giải mộng, các học thuyết âm dương, ngũ hành, bói toán, cách tính lịch nông nghiệp (lịch âm), thiên văn, chiêm tinh, phong thuỷ… Và Nhật Bản tiếp nhận Đạo giáo như một dạng văn hoá Trung Hoa hơn là một tôn giáo.

Không giống như ở Triều Tiên, tại Nhật Bản, Đạo giáo hầu như không có bất kỳ quy định nghiêm ngặt nào phải tuân theo, không có nơi hành lễ, không có kinh điển. Đạo giáo ở đây chủ yếu là các lối thực hành nên thường được kết hợp với các hình mẫu lý thuyết của Phật giáo, tạo thành các phong tục, nghi lễ trong dân gian như tục Koshin (庚申 Canh Thân). Tục này vẫn còn được truyền lại cho đến ngày nay, được hình thành trên cơ sở niềm tin của Đạo giáo và lối thực hành của Phật giáo. Tục Koshin diễn ra vào ngày thứ năm mươi bảy trong chu kỳ sáu mươi ngày. Tục này tin rằng vào ngày đó thì ba sinh vật mang lại bất hạnh (có thể xem như những con bọ) trong con người sẽ báo lại với các thần linh những sai phạm, tội lỗi mà con người đã gây ra, sau đó nhận lệnh từ các thần và quay trở lại rút ngắn tuổi thọ của con người bằng cách gây ra bệnh tật và đau khổ cho họ.

Để tránh những sinh vật này gây hại thì con người sẽ thức suốt đêm trong tục Koshin, thực hiện các nghi lễ trừ tà. Tục này được cho là xuất phát từ văn hoá Trung Hoa vào thế kỷ IV, và ở Nhật Bản tục này có từ thời kỳ Heian và kết hợp với những hình thức cúng lễ của Phật giáo từ thời Kamakura. Đến thời Muromachi còn có ghi chép về tục này là Koshin Engi (庚申縁起 Canh Thân duyên khởi), thậm chí còn chỉ ra mối liên hệ giữa tục Koshin với Sarutahiko (猿田彥 Viên Điền Ngạn), một kami của Thần đạo, có khả năng bảo vệ con người… Tục Koshin là ví dụ rõ nhất cho sự hiện diện của Đạo giáo tại Nhật Bản.

Đạo giáo tồn tại ở Nhật Bản trên cơ sở kết hợp với Phật giáo, thông qua những hình thức chữa bệnh. Chính vì Phật giáo lan truyền trong dân gian như một tôn giáo của lòng từ bi hỉ xả mà các phương thuật chữa bệnh của Đạo giáo cũng nhanh chóng được đa số người dân tiếp nhận, bởi thời kỳ Phật giáo mới du nhập vào Nhật Bản thì người dân “không tha thiết tìm hiểu kinh Phật mà chỉ nhờ cầu nguyện để mong kéo dài tuổi thọ, trừ tai ách, chữa bệnh, cầu mưa, giữ nước” ( ). Chính vì vậy mà Đạo giáo với tính chất gần gũi, phổ biến trong quần chúng nhanh chóng được phát triển.

Ảnh hưởng của Đạo giáo tại Nhật Bản thường được nói đến qua các phong tục dân gian, và thậm chí là cả những điều được xem như “mê tín” chẳng hạn như bói toán, bùa chú… và theo Livia Kohn, tác giả của nhiều cuốn sách về Đạo giáo như Daoism and Chinese Culture, Daoism Handbook… trong bài viết Taoism in Japan: Position and Evaluations thì nói tóm lại Nhật Bản chủ yếu tiếp nhận Đạo giáo thông qua ba phương diện. Thứ nhất, một phần tư duy của văn hoá Trung Hoa, cụ thể chính là nguyên lý Âm Dương. Thứ hai, hệ tư tưởng của Lão Tử và Trang Tử, bao gồm cả những quan niệm, truyền thuyết về sự bất tử và những thuật y học hướng đến cuộc sống trường thọ. Thứ ba, chính là những yếu tố thần thoại, hoang đường góp phần tạo nên những tập tục, tín ngưỡng trong dân gian.

Bên cạnh ảnh hưởng vừa nêu, mặt khác Đạo giáo còn ảnh hưởng thực sự đến việc củng cố nguồn gốc thần thánh của Thiên hoàng. Trong văn hoá Nhật Bản thì ban đầu không có sự phân biệt giữa chính trị và các công việc thờ cúng, vì vậy mà Thiên hoàng còn được xem như người đại diện, thực hiện các công việc tế lễ cao cấp của Thần đạo. Dưới một góc độ khác, chính sự nối tiếp của các thế hệ Thiên hoàng là sự đại diện cho vị thần bất tử, điều này được cho là “lấy cảm hứng” từ Đạo giáo.

Theo nhà nghiên cứu Phạm Hồng Thái trong công trình Tư tưởng Thần đạo và xã hội Nhật Bản cận – hiện đại thì tên hiệu Thiên hoàng cũng có nguồn gốc từ Đạo giáo, “đã được người Nhật vay mượn để thể hiện tư tưởng đề cao tuyệt đối người thống trị đất nước của mình” ( ). Rõ ràng cách gọi Thiên hoàng về sau mới có, bởi trước đó, vào năm 607, Thái tử Shotoku (聖徳太子 Thánh Đức Thái tử) đã dùng từ “Thiên tử” chứ không dùng từ “Thiên hoàng” trong một bức quốc thư do sứ thần Nhật Bản đem sang trình vua nhà Tuỳ: “Thiên tử nước mặt trời mọc gửi cho Thiên tử nước mặt trời lặn” ( ).

Các vật biểu trưng của Thần đạo, đại diện cho sức mạnh quyền lực mà Nữ thần Mặt trời trao cho cháu trai mình là thanh kiếm, chiếc gương và viên ngọc thì trong đó chiếc gương được xem như ảnh hưởng của Đạo giáo. Theo Jean Chevalier và Alain Gheerbrant trong Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới thì do tính chất phản chiếu của gương mà trong Đạo giáo, đây được xem như vật có khả năng phát hiện, xua đuổi, bảo vệ con người khỏi các thế lực xấu.

Kết hợp với quan niệm trong văn hoá Trung Hoa cho rằng gương là đại diện cho nữ tinh, sự hài hoà mà khi vào đến Nhật Bản, trở thành một trong ba vật báu của Thần đạo, chiếc gương còn có vai trò vô cùng quan trọng ( ). Đó chính là vật đại diện cho Nữ thần Amaterasu, và ở mức độ cao hơn, đó là biểu tượng cho sự trong sáng của tâm hồn, tự ý thức chính mình qua việc luôn soi rọi lại hành động của bản thân và còn là sự rực sáng về trí tuệ.

Điều này theo một số lý giải cho rằng có thể liên quan đến sự tích các vị thần dùng chiếc gương để “dụ” Nữ thần Mặt trời ra khỏi hang khi Người tự giam mình. Trong các biên niên sử ký của Nhật Bản được sáng tạo ra vào khoảng thế kỷ VII thì các yếu tố Đạo giáo, nhất là Đạo giáo thời nhà Hán tỏ ra rất hữu ích cho việc hợp pháp hoá vương quyền, qua các nội dung về trường sinh, bất tử, cõi vĩnh hằng được đề cập trong các di thư như trong Kojiki (古事記 Cổ sự ký) và Nihonshoki (日本書紀 Nhật Bản thư kỷ). Nhưng những nội dung này du nhập vào Nhật Bản không phải dưới dạng tôn giáo hoàn chỉnh mà bằng các điển tích.

3. KẾT LUẬN

Có thể thể thấy tam giáo đã có những tác động to lớn đến văn hoá Nhật Bản nói chung và Thần đạo nói riêng. Từ những vấn đề về giáo lý, lễ nghi, tư tưởng, kiến trúc… đến những tín ngưỡng, thông tục thờ cúng trong dân gian. Ngay cả chế độ Thiên hoàng cũng được xây dựng bởi những yếu tố thần thoại, huyền ảo của tam giáo.

Sự dung hợp tam giáo tại Nhật Bản, một mặt “làm giàu” hơn cho Thần đạo, mặt khác lại dựa vào tôn giáo bản địa này mà duy trì ảnh hưởng của mình. Điều này phản ánh đặc trưng văn hoá chung của vùng Đông Á, có liên quan đến nguồn gốc nông nghiệp lúa nước, mà trường hợp Thần đạo Nhật Bản là minh chứng.

PGS.TS.Nguyễn Công Lý
CN.Nguyễn Xuân Quỳnh
Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 6 năm 2014

———————————————

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Thuý Anh, 2011, Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần ở xã hội Nhật Bản, NXB Chính trị Quốc gia, HN.
2. Jean Chevalier và Alain Gheerbrant, 2002, Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Phạm Vĩnh Cư dịch (chủ biên), NXB Đà Nẵng, Trường Viết văn Nguyễn Du.
3. R. H. P. Mason và J. G. Caiger, 2008, Lịch sử Nhật Bản, Nguyễn Văn Sỹ dịch, NXB Lao động, HN.
4. Phạm Hồng Thái, 2008, Tư tưởng Thần đạo và xã hội Nhật Bản cận – hiện đại, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, NXB Khoa học Xã hội, HN.
5. Livia Kohn (1995), “Taoism in Japan: Positions and Evaluations”, Cashiers d’Extreme-Asie, Vol. 8, 389 – 412.
6. 西尾幹二, 1999, 国民の歴史, 産経新聞ニュースサービス(Kanji Nishio 1999, Lịch sử quốc dân, NXB Sankei shinbun nyusu sabisu).
Nguồn:
http://phatgiao.org.vn/nghien-cuu/201412/Su-dung-hop-tam-giao-Nen-tang-tu-tuong-cua-than-dao-Nhat-Ban-16625/
Lịch sử tư tưởng phương Đông Nho gia Việt Nam học

So sánh văn hóa Đông Á và Đông Nam Á (trường hợp Nhật Bản và Việt Nam)

So sánh văn hóa Đông Á và Đông Nam Á (trường hợp Nhật Bản và Việt Nam)

 

Theo cách phân chia thông thường hiện nay thì Việt Nam và Nhật Bản ở vào hai khu vực văn hoá khác nhau. Nhật Bản là một nước Đông á, còn Việt Nam thuộc Đông Nam á. Không dễ gì đem văn hoá thuộc hai khu vực khác nhau để so sánh, nhưng chúng ta lại rất cần đến nghiên cứu so sánh để có thể hiểu sâu thêm từng đối tượng và hiểu rộng thêm mối quan hệ giữa các đối tượng này. Mặt khác, sự phân chia thành các khu vực văn hoá, thực chất cũng chỉ là một cách làm của các nhà khoa học nhằm phân lập một cách tương đối một thực thể nào đó, chứ hoàn toàn không có nghĩa là chia cắt chúng một cách tuyệt đối. Hơn thế, do tác động của hoàn cảnh lịch sử, các dân tộc thuộc các khu vực văn hoá khác nhau lại có nhiều mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp, vì vậy so sánh để tìm ra những mối liên hệ, rút ra những điểm tương đồng và dị biệt lại là việc làm hết sức cần thiết và bổ ích. Nhật Bản và Việt Nam có thể coi là những trường hợp như thế. Hơn nữa, Việt Nam và Nhật Bản lại cùng chịu nhiều ảnh hưởng từ văn minh Trung Hoa, nên có không ít những điểm tương đồng, nhưng nếu nghiên cứu sâu hơn những biểu hiện của ảnh hưởng này lại tìm ra những khác biệt đáng kể.

Chọn Nhật Bản để so sánh, tác giả muốn đạt tới sự nhận thức sâu sắc hơn về văn hoá Việt Nam và qua đó, góp phần hiểu thêm về mối quan hệ Đông á và Đông Nam á.

Có nhiều phương pháp so sánh nhưng phương pháp được sử dụng trong bài này là so sánh theo tiêu chí. Theo chúng tôi có thể chọn 5 tiêu chí sau đây:

  1. Điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái.

Với nhận thức của khoa học ngày nay, điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái được coi là tác nhân cực kỳ quan trọng đến sáng tạo văn hoá của con người. Sự tác động qua lại giữa tự nhiên và con người là nhân tố chính tạo nên đặc trưng văn hoá.

  1. Sự hình thành nhà nước đầu tiên.

Đây là sự kiện có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với mọi dân tộc vì sự xuất hiện nhà nước vừa là cái mốc bước nhảy vọt của một cộng đồng cư dân đưa họ bước vào thời đại văn minh vừa là sự kết tinh của những thành tựu về văn hoá đã đạt được trước đó, bước đầu định hình một bản sắc văn hoá.

  1. Những đặc điểm về cư dân và đặc trưng văn hoá truyền thống.

Nói tới văn hoá, không thể không xem xét chính chủ thể của văn hoá, nên nguồn gốc, quá trình tộc người và đặc điểm của cả cộng đồng là những yếu tố không thể bỏ qua. Còn đặc trưng của văn hoá truyền thống ở đây là xét trên những đặc trưng chung nhất của 4 thành tố cấu thành văn hoá.

  1. Các hình thức tổ chức nhà nước trong lịch sử.

Từ khi nhà nước hình thành, mặc dù là sản phẩm của văn hoá do chính con người tạo ra nhưng các hình thức tổ chức nhà nước có tác động rất mạnh mẽ đến chiều hướng phát triển của lịch sử và chi phối những đặc trưng của xã hội.

  1. Ứng xử với văn hoá ngoại lai.

Văn hoá được sản sinh trong một không gian nhất định và giới hạn của nó thường là môi trường tự nhiên, nhưng văn hoá không bao giờ là đóng kín. Sự lan toả những giá trị của một nền văn hoá này tới những nền văn hoá khác là một hiện tượng tự nhiên, nhưng cách ứng xử trước hiện tượng tự nhiên ấy là phụ thuộc vào, và vì vậy, phản ánh đặc trưng của chính những nền văn hoá chịu những tác động ấy. Vì vậy đây có thể coi là một trong những tiêu chí để có thể xét sự tương đồng và khác biệt giữa các nền văn hoá.

Xét theo tiêu chí thứ nhất về điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái, có thể thấy Việt Nam là một bán đảo với  diện tích tự nhiên hơn 33 vạn km2 và hơn 3000 km bờ biển. Chỉ số duyên hải (ISCL) tính được » 106. Trong khi đó, Nhật Bản là một quần đảo với 3.600 hòn đảo lớn nhỏ quây quần xung quanh 4 hòn đảo lớn. Tổng diện tích tự nhiên » 377.000 km2 và 29.000 km bờ biển, chỉ số ISCL » 13 (1).

Do địa hình dốc, mưa theo mùa tạo thành mạng lưới sông ngòi dày đặc (trên có tới gần 3.000 con sông lớn nhỏ), xoè theo hình nan quạt ở phía bờ biển. Do bồi lấp không hoàn chỉnh, vùng đồng bằng hay có úng lụt, tạo thành vùng sinh thái có nhiều mặt nước chiếm chỗ. Người Việt gọi Tổ quốc mình là nước.

Khí hậu Việt Nam tương đối đa dạng. ở miền Bắc có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông rõ rệt. Miền Nam chia thành 2 mùa Khô và Mưa. Đặc điểm chung là nóng, ẩm, rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, nhưng cũng là môi trường thuận lợi cho dịch bệnh. Cùng vớí chế độ nhiệt đới gió mùa, hằng năm có bão, thiên nhiên cũng đặt ra không ít những thử thách hiểm nghèo. Mưa, lũ, bão, ẩm, dịch bệnh là những thiên tai mà người Việt thường xuyên phải đối phó.

Do lãnh thổ trải dài trên 15 vĩ tuyến, lại có nhiều mạch núi cắt ngang, tạo thành nhiều âu khí hậu khác nhau mà rõ nhất là Bắc, Trung, Nam Bộ. Cùng với sự đa dạng về địa hình, sự khác biệt về khí hậu là những yếu tố tự nhiên nên sự đa dạng, phong phú về văn hoá phân bố theo vùng, miền.

Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng và phong phú, nhưng nhìn chung trữ lượng không cao. Ưu thế tài nguyên chủ yếu là đất. Nông nghiệp đã xuất hiện sớm và là ngành kinh tế chủ đạo trong suốt mọi thời kỳ lịch sử.

Một đặc điểm nổi bật của điều kiện tự nhiên Việt Nam là  vị trí địa lí giao tiếp, là nơi giao lưu của nhiều dòng văn hoá và là nơi luôn bị tác động của khu vực và thế giới. Lãnh thổ quốc gia được mở rộng dần theo thời gian.

Tuy có diện tích tự nhiên rộng hơn, nhưng khác với Việt Nam, Nhật Bản có tới 75% diện tích là núi và 67% rừng xanh che phủ. Với lượng mưa không lớn (trung bình khoảng 300mm/năm) và do địa hình núi gần biển, Nhật Bản không có nhiều sông. 13 con sông được ghi trong các sách địa lý đều ngắn, nhỏ và nghèo phù sa. Nhật Bản hầu như không có đồng bằng châu thổ (2). Ngay cả những vùng được gọi là đồng bằng như vùng Kanto và Kansai, thực chất cũng chỉ là những thung lũng lớn được tạo thành bởi nham thạch của  núi lửa. Nhật Bản có tới  200 núi lửa, 60 ngọn trong số đó vẫn còn đang hoạt động. Chính vì vậy mà biểu tượng của người Nhật là núi lửa Fuji.Cả nước có khoảng 300 thung lũng, bị chia cắt thành 7 vùng núi lửa.

Bù lại sự chật hẹp về đất đai cư trú và trồng trọt, Nhật Bản có hệ thống cảng biển dày đặc.

Khí hậu Nhật Bản có sự cách biệt khá xa. Có vùng lạnh như Siberi (đảo Hokkaido), lại có vùng ấm như Đông Nam á (Okinawa và các đảo cực nam). Quanh năm có 4 mùa rõ rệt nhưng độ ẩm không cao. Khí hậu nói chung không thật thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Trong khi đó, Nhật Bản được coi là nước thiên tai rất khắc nghiệt với sự hoành hành thường xuyên của động đất, lũ quét, sóng thần, bão biển và núi lửa.

Do địa hình chia cắt, văn hoá Nhật Bản có thể chia thành nhiều vùng – địa phương. Nghèo về tài nguyên (3) kể cả đất canh tác, Nhật Bản chỉ có khoảng 2,5 triệu ha  đất có thể canh tác được nhưng chỉ trong một vụ xuân hè.

Nhật Bản nằm giữa biển, nhưng trong các giai đoạn lịch sử  trước khi có sự xuất hiện của người châu Âu, vị trí địa lý của quần đảo tương đối cách biệt nên ít chịu tác động tự nhiên mà thường chủ động du nhập các yếu tố văn minh từ bên ngoài.

So với Việt Nam, Nhật Bản là nước có lãnh thổ tương đối ổn định. Qua những điều trình bày trên đây có thể rút ra một số nét tương đồng cũng như khác biệt về điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái giữa Việt Nam và Nhật Bản.

Những nét tương đồng có thể thấy qua những đặc điểm mang tính hình thức như diện tích tự nhiên (33 vạn/38 vạn km2), địa hình, khí hậu đa dạng với đủ các vùng rừng núi, đồng bằng và duyên hải. Cả hai quốc gia đều phải đối phó với những thiên tai hiểm nghèo… Phân tích sâu hơn những tham số tự nhiên thì thấy những điểm dị biệt là rất đáng kể. Trước hết đó là sự khác nhau giữa một bán đảo với một quần đảo, do đó chỉ số ISCL chênh nhau tới hơn 8 lần (13/106). Do đặc điểm này mà tác động của yếu tố biển tới đời sống văn hoá của mỗi dân tộc rất khác nhau. Sự khác biệt còn thể hiện ở  mức độ thuận lợi và thử thách do thiên nhiên đem lại như khắc nghiệt của thiên tai, sự phong phú giàu có về tài nguyên và ảnh hưởng của vị trí địa lý.

Trong tiêu chí thứ hai: cư dân và đặc trưng văn hoá, Việt Nam luôn được nhận diện như một quốc gia đa tộc người, ít nhất có tới 54 tộc người với ngôn ngữ và truyền thống văn hoá khác nhau, nhưng có một dân tộc chủ thể là người Kinh (hay Việt).

Đặc trưng văn hoá Việt được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài do tác động của nhiều nhân tố, nhưng về đại thể có thể coi những nhân tố sau đây có vai trò tác động chính yếu:

– Tác động của môi trường “nước”. Do tác động này mà hình thành các dạng thức văn hoá sông – nước với những tính cách của cư dân ở gần/trên sông, nước (can đảm, linh hoạt, mềm dẻo, dễ thích ứng, giỏi xử lí tình huống…).

– Tác động của  hoàn cảnh lao động sản xuất (nông nghiệp trồng lúa nước). Trong quá trình chinh phục đồng bằng châu thổ, đắp đê, điều tiết nước để sản xuất và hợp lực phòng chống lũ lụt, người Việt cần tới sức mạnh cộng đồng. Làng, một loại hình tụ cư đậm tính cố kết trở thành hội điểm của rất nhiều đặc trưng văn hoá. Trong bảng giá trị truyền thống, đoàn kết (cố kết cộng đồng), hiếu với cha mẹ (gia đình hạt nhân là tế bào xã hội) và trọng lão (trọng kinh nghiệm) luôn là những chuẩn mực được đề cao. Nhưng cũng do hoàn cảnh sản xuất mà người nông dân Việt không quen hạch toán và lường tính xa. Bình quân (chia đều) trở thành một phương thức hữu hiệu duy trì mối quan hệ hoà đồng trong làng xã.

– Tác động của hoàn cảnh lịch sử mà nổi bật là phải thường xuyên đối phó với chiến tranh xâm lược. Tác động này đã tạo nên truyền thống bất khuất kiên cường, có ý thức độc lập tự chủ cao. Đồng thời cũng chính do tác động này mà thiết chế cộng đồng được gia cố thêm.

Về tôn giáo, tín ngưỡng, người Việt coi trọng đạo thờ cúng tổ tiên. Trong quá trình tiếp xúc với văn minh Trung Hoa, ấn Độ và phương Tây, Nho giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo lần lượt được du nhập vào Việt Nam. Các tôn giáo ngoại lai và các loại hình tín ngưỡng bản địa đã dung hợp nhau cùng tồn tại và phát triển. Việt Nam trở thành một xứ sở hỗn dung tôn giáo.

Khác với Việt Nam, Nhật Bản là một quốc gia thuần chủng, có bản sắc chung rất rõ nét. Trong kết cấu cư dân hiện nay, 99,4% dân số là người Nhật, bộ phận những cư dân khác còn lại chỉ chiếm 0,6% (gồm 600.000 người Triều Tiên, 40.000 người Trung Quốc và khoảng 20.000 Ainu). Quá trình “thuần chủng hoá” này đã diễn ra trong một quá trình lịch sử lâu dài trong điều kiện quần đảo Nhật Bản sống tương đối tách biệt với thế giới bên ngoài. Địa hình bị chia cắt bởi núi non, thung lũng và đảo dẫn tới sự hình thành nhiều dạng thức văn hoá địa phương. Người ta đã từng chia Nhật Bản thành 6 vùng văn hoá là Bắc hải đạo (đảo Hokkaido), Bắc lục đạo (vùng núi phía bắc, giáp biển Nhật Bản, chủ yếu là các tỉnh Nigata, Kanazawa), Đông hải đạo (vùng đồng bằng Kanto), Kinki (vùng đồng bằng Kansai), Tây hải đạo (đảo Kyushu), Nam hải đạo (đảo Shinkoku và các đảo phía nam).

– Xét về tác động của môi trường có thể thấy biển, núi, thung lũng, khí hậu ôn đới, núi lửa và động đất là những nhân tố tự nhiên tác động mạnh mẽ và thường xuyên đến quá trình hình thành văn hoá truyền thống Nhật Bản. Do tác động đó mà tính cách Nhật Bản cứng rắn, tiết kiệm, trung thành với các giá trị truyền thống và rất cầu toàn. Vị trí địa lý tương đối biệt lập (của cả quần đảo và của từng vùng) đã tạo nên tính cách đóng kín nhưng lại luôn có mặc cảm “bị bỏ rơi” nên luôn mong muốn  hội nhập và học tập cái hay ở người khác.

– Về hoàn cảnh lịch sử, có thể thấy trong suốt thời kỳ trung đại, ngoại trừ hai lần tấn công xâm lược nhưng không thành của quân Mông – Nguyên, Nhật Bản hầu như không phải đối phó với ngoại xâm. Thay vì các cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc, nội chiến giữa các thế lực phong kiến địa phương diễn ra tương đối thường xuyên và kết cục dẫn đến sự hình thành thiết chế Mạc phủ mà thực chất là sự thống trị của chính quyền quân sự, đứng đầu là các dòng họ Shogun (Tướng quân) song song với  sự tồn tại phần nhiều trên danh nghĩa một chính quyền dân sự do Thiên hoàng (Teno) đứng đầu. Hoàn cảnh lịch sử này đã tạo nên tính kỉ luật, đề cao vai trò người chỉ huy. Chuẩn mực đạo đức là đề cao giữ chữ tín. Sự phát triển mạnh mẽ của các phong kiến địa phương tại mỗi thung lũng đã dẫn tới sự hình thành các đơn vị thân binh (Samurai) sau thành trở thành một tầng lớp có vị trí đặc biệt quan trọng trong xã hội dưới tên gọi Vũ sĩ (Bushi). Trong xã hội truyền thống, đại bộ phận cư dân sống ở nông thôn. Họ tụ cư thành các đơn vị gọi là mura (thôn). Khác với cấu trúc làng ở Việt Nam, trong các mura của Nhật Bản, xã hội có cấu trúc theo chiều dọc, nghĩa là có trật tự, lớp lang. Mọi thành viên đều có chức năng, bổn phận rất rõ ràng. Quan niệm “cá mè một lứa” hay “cá đối bằng đầu”, một kiểu dân chủ làng xã theo lối bình quân chủ nghĩa thường thấy ở Việt Nam, rất xa lạ với xã hội Nhật Bản.

Tôn giáo giữ vị trí độc tôn ở Nhật Bản là Shinto (Thần đạo). Tôn giáo này đã hoà trộn nhiều yếu tố Nho, Phật trên nền tín ngưỡng thờ tổ tiên là nữ thần mặt trời. Các tôn giáo khác ở Nhật rất kém phát triển, trừ phật giáo Đại thừa. Nhật Bản đã có thời coi văn minh Trung Hoa là mẫu hình lý tưởng để học theo, nhưng Nho giáo khi du nhập vào Nhật Bản không phải là nguyên mẫu. Người Nhật đã chọn lựa từng bộ phận nhưng rất tuân thủ giáo lý. Hệ thống tuyển chọn quan lại bằng thi cử hoàn toàn không được người Nhật áp dụng.

Trên bình diện cư dân và đặc trưng văn hoá, những nét tương đồng của Việt Nam và Nhật Bản thể hiện ở chỗ cả hai cộng đồng đều thuộc chủng Mongoloid và có chung yếu tố Nam á.

Văn hoá truyền thống của cả hai dân tộc đều hình thành trên nền tảng sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước nên những đặc trưng như tính cộng đồng cao, trọng kinh nghiệm, tuổi tác, kinh nghiệm đều có nhiều nét tương đồng. Cùng chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa nên Nho giáo, Đạo giáo và nhiều chuẩn mực Trung Hoa có thể tìm thấy trong văn hoá cả hai nước.

Tuy nhiên,  tính chất đa dân tộc của cộng đồng cư dân Việt Nam rất khác với đặc điểm thuần chủng của người Nhật. Mặt khác sự trội vượt của yếu tố phương Nam và sự thiếu vắng hoàn toàn hoạt động không du mục của cư dân Việt và tính trội yếu tố phương Bắc với sự hiện diện của kinh tế  du mục trong một thời kỳ lịch sử của Nhật Bản đã dẫn tới sự khác biệt đáng kể trong hai nền văn hoá. Nếu như ở Việt Nam, ảnh hưởng từ dưới lên là đặc trưng chủ đạo thì với văn hoá Nhật Bản ảnh hưởng từ trên xuống lại là xu hướng chi phối.

Việt Nam không có quốc đạo trong khi đó ở Nhật Bản đạo Shinto được coi là quốc giáo. Sự khác biệt trong văn hoá còn thể hiện ở tính cách ứng xử của hai dân tộc. Một bên là mềm mỏng, linh hoạt, dễ thích ứng, một bên coi trọng nguyên tắc, kỉ luật. Trong bảng giá trị đạo đức, người Việt trọng hiếu còn người Nhật thì trọng tín.

Nhà nước đầu tiên ở Việt Nam được xác định vào cuối thời Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2500 – 2700 năm. Như vậy là tương đối sớm. Tuy nhiên đây không phải là kết quả của một quá trình phân hoá xã hội sâu sắc mà trên cơ sở phát triển nhất định của các tiền đề kinh tế xã hội, những tác động khách quan của nhu cầu sản xuất và chống xâm lấn đã đẩy nhanh quá trình này. Ngay sau khi ra đời, nhà nước Văn Lang và sau đó là Âu Lạc đã phải liên tục đương đầu với quá trình bành trướng xuống phương Nam của các đế chế Trung Hoa. Đây là điểm khác biệt lớn của lịch sử Việt Nam so với  Nhật Bản. Từ giai đoạn văn hoá Yayoi (thế kỷ III TCN – III SCN), kỹ thuật luyện kim và nghề trồng lúa nước du nhập vào Kyushu đã tạo nên bước nhảy vọt trong lịch sử  Nhật Bản. Cùng với sự phát triển về kinh tế, phân hoá xã hội trở nên ngày càng sâu sắc. Vào giữa thế kỉ I SCN, tầng lớp Shucho (thủ lĩnh) giàu có xuất hiện. Sau đó hàng loạt Kuni (một loại hình nhà nước sơ khai) được hình thành, trong đó mạnh nhất là nước Wa. Ngay sau khi thành lập, vào năm  57 SCN, nước này đã xin thần phục nhà Hán mở ra một thời kỳ phát triển theo quỹ đạo của văn minh Trung Hoa.

Về các hình thức tổ chức nhà nước trong lịch sử, mặc dù đã từng tồn tại nhiểu kiểu loại nhà nước khác nhau, nhưng xu hướng chủ đạo là sự thắng thế của hình thức nhà nước trung ương tập quyền. Dưới thời Lý-Trần (1009 – 1400),  mô hình “tập quyền thân dân” tồn tại gần 4 thế kỷ. Cả thế kỷ XV là thời kỳ thịnh trị của mô hình “tập quyền quan liêu” và thế kỷ XIX là thời kỳ thống trị của mô hình “tập quyền chuyên chế”. Duy có giai đoạn từ năm 1600 đến 1789 trong bối cảnh chiến tranh phe phái triền miên, ở đàng Ngoài tồn tại một thiết chế khá đặc biệt với sự tồn tại song song hai chính quyền: triều Lê trên danh nghĩa và Chúa Trịnh (chính quyền quân sự) nắm thực quyền.

Ở Nhật Bản, từ thế kỷ VII, dưới tác động của mô hình cai trị của nhà Đường, Nhật Bản cũng cố gắng xây dựng một chính quyền trung ương tập quyền dựa trên một hệ thống pháp luật hoàn bị đứng đầu là Thiên hoàng. Tuy nhiên từ thế kỷ X, chính quyền trung ương suy yếu vì các vị Kokushi do chính quyền trung ương cử đến đứng đầu Kuni ngày càng có nhiều trang viên (Shoen) do được tặng biếu.

Trong thời kỳ này hình thức xin thầu khai khẩn đất hoang (Myo)  rất phát triển. Người trúng thầu gọi là Tato. Người nhiều ruộng gọi là Daimyotato. Những người này có rất nhiều Samurai (người hầu cận) làm cơ sở cho việc hình thành lực lượng vũ trang riêng. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới những cuộc chiến tranh giữa các thế lực phong kiến địa phương và sự hình thành thể chế Mạc phủ (Bakkufu) từ năm 1192 và kéo dài cho đến tận cải cách Minh Trị (1868).

Những điểm tương đồng về tổ chức nhà nước của Việt Nam và Nhật Bản có thể thấy ở 3 điểm:

– Cùng chịu ảnh hưởng từ mô hình Nho giáo của Trung Hoa

– Đều chú trọng pháp luật

– Đặc biệt là thiết chế hai chính quyền ở Việt Nam từ 1600 đến năm 1789 và thiết chế  Mạc phủ ở Nhật Bản từ 1192 đến 1868.

Sự khác biệt thể hiện ở chỗ:

– Việt Nam luôn thiết lập được thiết chế tập quyền mạnh còn ở Nhật Bản, chính quyền ở các địa phương mới là thế lực chi phối mọi mặt của đời sống xã hội. Thể chế Mạc phủ chỉ có thể khống chế địa phương về mặt quân sự.

– Do cần tới một đội ngũ quan lại hùng hậu, các chính quyền phong kiến Việt Nam bắt đầu từ triều Lý (1076) đã tiến hành tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn nhân tài, từ đó hình thành một hệ thống lưỡng ban (văn và võ). Chính quyền phong kiến Nhật Bản chưa bao giờ áp dụng hệ thống này. Vì vậy tầng lớp sĩ ở Nhật Bản chính là các Samurai văn võ kiêm toàn.

Trong quá trình tiếp xúc với văn hoá ngoại lai, Việt Nam có ưu thế về vị trí địa lý. Và trên thực tế đã tiếp thu không ít những giá trị từ những nền văn hoá khác. Tuy nhiên do những đặc điểm riêng, ứng xử truyền thống của  người Việt với văn hoá ngoại lai thường bắt đầu từ sự hoài nghi, rồi sau đó buộc phải chấp nhận nhưng tìm mọi cách cải biến theo chuẩn mực của mình. Trong khi đó, do hoàn cảnh lịch sử và những đặc trưng văn hoá khác biệt, người Nhật luôn cho rằng ở ngoài Nhật Bản có rất nhiều giá trị văn hoá cao hơn, nếu tiếp thu được sẽ tạo cho văn hoá của họ những bước nhảy vọt (kỹ thuật đúc đồng, lúa nước, các chuẩn mực văn minh Trung Hoa…), vì vậy ứng xử truyền thống của  người Nhật là xác định đâu là đỉnh cao rồi cố chí học theo. Điều này còn bao hàm cả việc sau khi nhận ra một mô hình nào đó đã lỗi thời, họ sẵn sàng từ bỏ để đến với những chuẩn mực cao mới. Đó là trường hợp Nhật Bản quay lưng lại với mô hình Trung Hoa sau khi chiến tranh thuốc phiện chấm dứt với thắng lợi của người phương Tây. Từ đây chuẩn mực mà người Nhật quyết chí noi theo là văn minh phương Tây.

Từ những phân tích sự tương đồng và dị biệt theo các tiêu chí trên đây có thể đi tới một số nhận định tổng quát.

  1. Ta thường nói đến sự  tương đồng văn hoá giữa Việt Nam và Nhật Bản (đồng văn, đồng chủng). Điều này đúng vì cả hai dân tộc đều có những giá trị chung của châu á lấy nghề trồng lúa nước làm nền tảng kinh tế, đều chịu ảnh hưởng từ văn minh Trung Hoa và xét trên nhiều khía cạnh cụ thể cũng có thể tìm ra những điểm tương đồng, Chẳng hạn như sự tồn tại hai chính quyền quân sự và dân sự trong một thời kỳ lịch sử. Đấy là cơ sở thuận lợi trong quá trình giao lưu, hợp tác và học hỏi lẫn nhau.
  2. Nhưng sẽ là sai lầm nếu cho rằng sự tương đồng giữa Việt Nam và Nhật Bản lớn tới mức có thể dùng chuẩn mực của nền văn hoá này để suy ra những đặc điểm tương tự ở nền văn hoá kia. Chẳng hạn như tính cách nông dân trồng lúa nước của Việt Nam hoàn toàn không thể dùng để quy chiếu tính cách nông dân Nhật Bản.
  3. Để có thể học tập và mở rộng hợp tác, nhất thiết phải có những nghiên cứu cụ thể và sâu sắc. Điều này không chỉ đúng với trường hợp Việt Nam và Nhật Bản mà còn đúng với các trường hợp khác. Nói rộng ra về sự tương đồng và khác biệt văn hoá của hai khu vực Đông á và Đông Nam á cũng cần tính tới việc phải xem xét thật cụ thể từng trường hợp và từng tác nhân dẫn tới sự tương đồng và khác biệt đó.

GS.TSKH  Vũ Minh Giang

__________________

 

  1. Chỉ số duyên hải được tính bằng công thức: ISCL = å A / å L   (Tổng diên tích tự nhiên chia cho tổng chiều dài đường bờ biển). ở Nhật Bản ISCL » 13, Việt Nam » 106, có nghĩa là 1 km đường bờ biển chỉ che phủ  tương ứng với mỗi nước là 13 km2 và  106 km2 diện tích lục địa. Theo đó, chỉ số ISCL càng thấp thì tác động của biển tới văn hoá càng mạnh.

2. Trong một số sách địa lý của Nhật Bản có nhắc đến châu thổ sông Ota, tức vùng có thành phố Hiroshima, nhưng thực ra đấy chỉ là nói về đặc trưng thành tạo chứ quy mô bồi tụ và chất lượng phù sa của vùng này không giống với châu thổ ở các nơi khác trên thế giới.

3. Thực ra Nhật Bản đã từng có những mỏ khoáng sản lớn như đồng, bạc, vàng… nhưng tất cả hầu như nhưng đã khai thác hết từ thế kỷ XVII.

nhat ban3(2)

Nguồn: www.vanhoanghethuat.org.vn

Lịch sử tư tưởng phương Đông Việt Nam học

Cẩm nang làm việc với người Nhật (phần 2)

Cuốn “Văn hóa làm việc với người Nhật” được xuất bản lần đầu vào năm 1984. Khi ấy, nó đã nhanh chóng trở thành “kinh thánh” cho những người phương Tây muốn tìm hiểu và xử lý công việc một cách hiệu quả ở Nhật – hồi đó được coi là nền kinh tế cạnh tranh nhất trên thế giới.

Giờ đây, sau gần 30 năm, John C.Condon – với sự hợp tác của Tomoko Masumoto, đã chỉnh sửa, cập nhật và bổ sung nhiều chi tiết hướng dẫn, đặc biệt dành cho những người làm việc trong các tổ chức của Nhật.

Nguyên tác: With Respect to The Japanese
Người dịch: Thanh Huyền
Bản quyền tiếng Việt: Thái Hà BooksDownload file đọc

5. Không gian

Ngay cả khi giao tiếp trong thực tại ảo ngày càng diễn ra nhiều hơn, thì ở Nhật, bối cảnh giao tiếp vẫn là điều vô cùng quan trọng. Cuộc trò chuyện diễn ra ở đâu quan trọng đến nỗi nó có thể quyết định điều gì sẽ được nói hay chia sẻ, và điều gì thì không.

Những người đến thăm Tokyo, Osaka hay bất cứ thành phố lớn nào ở Nhật đều thường kinh ngạc vì số lượng khổng lồ các quán bar và nhà hàng nhỏ ở đây. Ngoài việc mang lại những điều mà các quán bar, nhà hàng khắp nơi trên thế giới có, những địa điểm này còn đóng vai trò là nơi những người từ văn phòng có thể đến để trò chuyện về nhiều vấn đề, theo những cách không thể xảy ra trong giờ làm việc ở công sở.

Người Nhật có sự phân biệt rõ ràng giữa những gì liên quan tới gia đình, nhóm trong trường, công ty (bên trong) và những vấn đề nằm ngoài phạm vi đó (bên ngoài).

Bởi vậy, những hành vi được coi là phù hợp bên trong nhóm của ai đó có thể khá khác so với những tiêu chuẩn ứng xử thích hợp với người bên ngoài nhóm. Tiêu chuẩn kép này là điều có thể dự đoán.

Giáo sư Chie Nakane mô tả các mối quan hệ của người Nhật được phân chia tương đối giữa ba phạm vi khác nhau: (1) trong những nhóm thân thiết nhất (uchi), bắt đầu với gia đình và bao gồm cả những nhóm gắn bó khăng khí khác; (2) trong môi trường xã hội của hôn nhân và hợp tác; (3) thế giới công cộng bên ngoài (soto) – những người lạ.

Vì thế, sẽ không có gì là ngạc nhiên khi thấy một quý ông vừa tỏ ra lịch sự quá mức (trong một tình huống diễn ra trước đó) đang chen lấn lên tàu điện đông đúc.

Do sự phân biệt giữa uchi và soto rất quan trọng cho bất cứ nhóm nào, từ tổ chức lớn tới các gia đình, người Nhật rất cẩn trọng trong việc cho phép ai gia nhập – nghĩa là, những người được công ty tuyển.

Tuy nhiên, một khi đã được thừa nhận, người đó sẽ trở thành một phần của “chúng ta” và chắc chắn không bị thải loại.

Tìm vị trí của mình

Trong một căn phòng Nhật Bản truyền thống, sẽ có một “chỗ thấp” (shimoza) và một “chỗ cao” (kamiza). Người là khách mời danh dự, người lớn tuổi nhất trong gia đình, hay người có vị trí cao nhất trong tổ chức sẽ ngồi ở chỗ cao.

Với khách nước ngoài, những người được đối xử như một vị khách, lời khuyên tốt nhất về chỗ ngồi là từ tốn và để cho chủ nhà hướng dẫn. Như vậy họ không cảm thấy thiếu thoải mái trong suốt buổi gặp hay bữa ăn vì chọn sai chỗ.

Cách bài trí văn phòng điển hình của Nhật là một không gian mở với các bàn được xếp thành cụm, theo các hàng, và mọi người làm việc cạnh nhau, mỗi người đối diện với ai đó ở phía bên kia. Ngồi ở cuối phòng, nhìn bao quát toàn bộ văn phòng là vị quản lý.

Trong một nền văn hoá nơi các biểu hiện không lời phổ biến có thể thể hiện nhiều hơn những gì được nói ra, văn phòng mở là một môi trường quan trọng cho việc truyền đạt thông tin.

6. Thời gian

Trong ngôn ngữ kinh doanh và chính trị, đôi khi người ta đùa rằng một kế hoạch dài hạn ở Mỹ tương đương với kế hoạch ngắn hạn ở Nhật.

Ở Mỹ, “một thời gian dài” có thể là một năm, hay bốn quý của một năm tài chính. Ở Nhật, không hiếm khi “một thời gian dài” là ít nhất 30 năm. Tới gần đây, điều này vẫn là chu kỳ chuẩn bị cho một nhân viên làm việc cho một công ty.

Trong một khảo sát về 31 nước có tầm nhìn lâu dài trong kinh doanh, Nhật Bản đứng thứ nhất, theo sau là Thụy Điển, Mỹ đứng thứ 19.

Người Nhật không phân tách quá rõ ràng giờ làm việc với thời gian sau giờ làm như cách nhiều người Mỹ và phương Tây khác thường làm. Ở Nhật, người ta mong muốn và đánh giá cao việc chia sẻ thời gian với các đồng nghiệp, không chỉ trong giờ làm mà cả sau đó nữa.

Làm quá giờ ở công sở là chuyện không có gì lạ, không mong đợi được thưởng thêm. Trong một số trường hợp, đơn giản là công việc đòi hỏi phải làm thêm giờ, nhưng trong các trường hợp khác thì chính sự trân trọng mối quan hệ với đồng nghiệp đòi hỏi phải “ở lại ngoài giờ”.

Vậy mất bao lâu thì một người nước ngoài hòa nhập được vào một tổ chức của Nhật? Mất bao lâu để trở thành một nhân viên hiệu quả và có cống hiến trong một tổ chức?

Câu trả lời từ các giám sát người Nhật là “khoảng một tuần” tới “vài tháng”, tùy vào tính cách của thực tập sinh.

Tuy vậy, trên thực tế, ngay cả một kỹ sư người Nhật cũng mất chừng 5 năm trước khi đạt yêu cầu, với “hành trình” cụ thể là: Sẽ mất một năm để thành thạo ngôn ngữ, bao gồm các từ chuyên môn. Trong năm thứ hai, một nghiên cứu viên mới sẽ tìm hiểu về tổ chức. Ở năm thứ ba, họ sẽ tìm hiểu vị trí của mình trong tổ chức. Sau đó, họ có thể bắt đầu nghiên cứu của riêng mình và có được kết quả trong khoảng năm thứ năm.

Một giám sát người Nhật cho biết: “Nếu ai đó muốn năng động trong kinh doanh, nhất thiết phải thông thạo tiếng Nhật. Tôi thậm chí không để sinh viên Nhật mới ra trường được làm việc với khách hàng. Những người Nhật trẻ mới chỉ sử dụng những cụm từ quen thuộc và các chữ viết tắt họ nghe thấy trên các chương trình truyền hình, nên phải mất 4 đến 5 năm để học tiếng Nhật tử tế trước khi họ làm việc với khách hàng của chúng tôi. Ngay cả nếu một thực tập sinh nước ngoài có một tấm bằng trên đại học, thì việc tới công ty chúng tôi không phải là bắt đầu sự nghiệp, mà chỉ là bước đầu tiến tới sự nghiệp. Với những nhân viên mới người Nhật cũng vậy, sẽ mất ít nhất là 5 năm.

7. Phản hồi

Một giám sát người Nhật giải thích quan điểm về vấn đề phản hồi: “Chúng tôi không nghĩ phản hồi là điều cần thiết. Tôi nghĩ đó là khác biệt về văn hóa. Ở Nhật, nếu chúng tôi không có bất cứ phàn nàn hay nhận xét cụ thể nào, điều đó đồng nghĩa với sự đánh giá tốt nhất. Nhưng có vẻ như với những người đến từ Mỹ, nếu không có nhận xét, họ sẽ nghĩ là có vấn đề”.

Các quản lý người Mỹ khen ngợi các nhân viên làm việc tốt, và coi việc khen ngợi là một yếu tố quan trọng để khuyến khích người Mỹ ở nơi làm việc.

Nhật Bản cũng có thể ca ngợi ai đó ở nơi công cộng, nhưng vì những lý do khác và hiếm hoi hơn. Người Nhật ca ngợi công khai để nâng cao thể diện, trong khi người Mỹ khen ngợi là để khuyến khích chất lượng hoạt động.

Loại ngôn từ được sử dụng để ca ngợi giữa các nền văn hóa cũng khác nhau. Những từ ở mức so sánh cao nhất như “tuyệt vời”, “làm quá tốt”, “thành tựu xuất sắc” được thể hiện quá thường xuyên sẽ khiến người châu Á thấy rỗng tuếch.

8. Học hỏi qua công việc

Học hỏi, và học hỏi không ngừng. Đây là một trong những giá trị quan trọng nhất ở Nhật Bản từ xưa đến nay.

Giống như ở nhiều nơi trên thế giới, giáo viên được coi trọng và tôn vinh rất lâu sau khi các lứa học sinh của họ trưởng thành và đi theo con đường riêng.

Phương pháp học tập là điểm tiết lộ nhiều về văn hóa và mối quan hệ giữa các nền văn hóa.

Nhà nhân chủng học Edward T.Hall phân biệt 3 loại hình học tập: chính thống, kỹ thuật và không chính thống. Ở Nhật Bản, mỗi loại đóng một vai trò quan trọng trong công sở và phòng thí nghiệm, cũng như trong lớp học.

Phương pháp học tập chính thống bao gồm giáo viên và học sinh. Ở công sở, giáo viên có thể là người giám sát hoặc một đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm hơn.

Khi ai đó lần đầu học tập trong mối quan hệ chính thống, việc người học đặt ra câu hỏi về những vấn đề chưa thực sự hiểu rõ được cho là phù hợp, thậm chí được mong đợi. (Tuy nhiên, không nên lặp lại cùng một câu hỏi quá nhiều lần).

Ở các công ty của Nhật Bản, năm đầu tiên làm việc của nhân viên là thời gian phù hợp để đưa ra các câu hỏi.

Phương pháp học tập chính thống đạt hiệu quả khi mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh được thiết lập rõ ràng.

Phương pháp kỹ thuật cũng hướng tới cách thức đúng đắn hoặc cách tốt nhất để làm điều gì đó, nhưng ở dạng thức không cần tới sự có mặt của một giáo viên trực tiếp giảng dạy.

Giọng nói mô phỏng một ngoại ngữ mà ai đó đang học là một ví dụ về phương pháp học “kỹ thuật”. Càng ngày người ta càng học theo hình thức khách quan này nhiều hơn.

Khi tập làm quen với phong cách làm việc ở một nền văn hóa khác, phương pháp học phi chính thống là hình thức quan trọng nhất. Đây là hình thức học thông qua quan sát và thử sai.

Quan sát là bí quyết của phương pháp học không chính thống. Người được đánh giá cao là người tiếp thu một cách nhanh chóng. “Sasshi ga hayai” là lời khen ngợi ở Nhật.

Ngày làm việc của người Nhật không kết thúc lúc 5 giờ chiều. Thông thường mọi người ở lại văn phòng cho đến buổi tối, và đây là khoảng thời gian họ cảm thấy thoải mái nhất. Thời điểm này trở thành thời gian dành cho việc học phi chính thống – cách thức đã được chứng minh hiệu quả nhất đối với những người nước ngoài hay người mới tham gia vào một tổ chức ở Nhật. Đó là lúc họ có thể tìm hiểu về mọi người và tổ chức theo cách không thể thực hiện trong thời gian làm việc chính thức.

Đặt câu hỏi là một phần trong phương thức học chính thống; học tập thông qua việc đặt câu hỏi là một phần của hình thức học phi chính thống. Tuy nhiên, Hall đã khuyên những ai tới làm việc ở Nhật là cố gắng tìm ra phương pháp vận hành của sự việc bằng cách quan sát, bởi lẽ không ai có thể trả lời câu hỏi cho bạn, vì họ chỉ là một phần trong cả chuỗi vận hành.

Có một lý do khác cho việc không đặt những loại câu hỏi nhất định. Giáo sư Kichiro Hayashi khuyên những ai tới Nhật làm việc không nên đặt câu hỏi, bởi vì ở Nhật, sự chú tâm tới mọi việc có thể quan trọng hơn phát ngôn.

Khả năng cảm nhận được tâm trạng, chú ý tới dáng vẻ và thái độ của người khác, và nhận thức được chuyện gì đang diễn ra, khả năng liên tục kiểm tra, xác nhận, hoặc thay đổi ấn tượng của mọi người được đánh giá cao ở Nhật.

9. Hòa hợp với nhịp điệu của năm

Văn hóa làm việc của người Nhật chú trọng tới sự bắt đầu và kết thúc của năm. Ngày làm việc đầu tiên của năm thường yêu cầu sự chú ý đặc biệt tới cách ăn mặc và có thể có bài phát biểu của cán bộ công ty. Ngày làm việc cuối cùng của năm thường là ngày nhân viên dọn dẹp sạch sẽ văn phòng, khu vực làm việc trước khi về nghỉ năm mới.

Ngày đầu năm mới là ngày đầu tiên của tháng Một. Nhưng năm làm việc mới của Nhật bắt đầu vào tháng Tư, cũng giống như năm học mới. Các nhân viên mới được tuyển dụng bắt đầu làm việc từ tháng Tư.

Kinh nghiệm làm việc của người tới Nhật bắt đầu từ tháng Tư sẽ rất khác với kinh nghiệm làm việc của người đến vào tháng Tám – thời điểm cường độ công việc chậm nhất trong năm.

Người nước ngoài tới Nhật làm việc cần chú ý và hòa nhập vào các ngày nghỉ lễ và sự kiện ở đây.

10. Bảy gợi ý khi làm việc ở Nhật Bản

1/ Hãy ghi nhớ điểm thu hút bạn đầu tiên ở Nhật Bản. Đó có thể là những điều không liên quan đến công việc, nhưng chúng có thể mang lại điểm kết nối. Hãy nghiêm túc theo đuổi những sở thích của bạn với những người cũng nghiêm túc, nhưng ở môi trường bên ngoài công sở.

2/ Duy trì học tiếng Nhật. Cảm giác bất ổn về khả năng ngôn ngữ là điều bình thường. Thời điểm giữa lúc chính thức kết thúc ngày làm việc và lúc mọi người ra về là khoảng thời gian có thể đề nghị được giúp đỡ trong việc học tiếng. Đây cũng là dấu hiệu cho thấy thái độ nghiêm túc của bạn, và có thể thể hiện sự cởi mở với mọi người để được họ khuyến khích và giúp đỡ.

3/ Tiếng Anh được sử dụng ở đây. Giúp đỡ đồng nghiệp về tiếng Anh thường là một phần trong những vai trò công ty mong đợi đối với những nhân viên người nước ngoài.

4/ Nói về đồ ăn. Với những ai tới làm việc và sống ở Nhật, chủ đề ẩm thực là chủ đề tốt nhất để tham gia và thể hiện sự hiếu kỳ và trân trọng, cũng là thời điểm để học hỏi được nhiều điều và tạo các mối liên kết cá nhân.

5/ “Tôi để ý thấy trên truyền hình…”. Bất kỳ ai đến làm việc ở Nhật cũng được khuyên nên chú ý một chút tới mốt mới nhất – một xu hướng đang thịnh hành nhất. Phong độ của đội bóng chày yêu thích của địa phương, ca sĩ, diễn viên, thậm chí thần tượng tuổi teen – những thứ có thể thấy trên truyền hình – thể hiện bạn có nhận biết về những chuyện đang diễn ra bên ngoài công sở. Nó có thể trở thành đề tài dẫn đến một cuộc trò chuyện thú vị với người địa phương, đồng nghiệp.

6/ Có sổ ghi chép. Hầu hết những điều diễn ra trong một môi trường mới đều xứng đáng được ghi chú lại, cho dù dưới dạng thức nào.

7/ Kết bạn. Những điều bạn có thể học hỏi được khi nói chuyện với bạn bè nhiều hơn bất kỳ khóa học nào. Không phải thông tin kỹ thuật hay thông tin được chuyên biệt hóa trong công sở, mà giao tiếp và mối quan hệ mới là những điều quan trọng đặc biệt.

Một số thuật ngữ hữu dụng cần biết khi tới Nhật làm việc:

Hội họp

Chõrei (triều lễ): Một số công ty sáng nào cũng họp chõrei, trong khi các công ty khác lại thực hiện vào thứ Hai hằng tuần. Tất cả nhân viên trong phòng hay một bộ phận lớn hơn sẽ tập hợp lại và họp ngắn về những thông báo chung.

Kaigi (họp chính thức): Kaigi ở Nhật nổi tiếng vì kéo dài vài giờ đồng hồ. Jũyaku kaigi là cuộc họp lãnh đạo.

Mitingu (họp mặt): Người Nhật mượn từ trong tiếng Anh. Từ này có thể được sử dụng thay cho kaigi hay uchiawase, mũting nghe thân mật hơn kaigi.

Uchiawase: Kiểu họp mặt này là để lên kế hoạch thực tế hay chia sẻ thông tin. Từ này có thể được sử dụng cho cả các cuộc họp trong công ty và với đối tác kinh doanh.

Chức danh và mối quan hệ

Shachõ: Chủ tịch công ty.

Buchõ: Giám đốc bộ phận.

Kachõ: Trưởng phòng.

Kakarichõ: Trưởng bộ phận.

Shinnyũ-shain / Shinjin: Nhân viên mới tuyển, thường là những người mới ra trường.

Jõchi và buka: Jõchi là người giám sát, buka là cấp dưới.

Senpai và kõhai: Trong bối cảnh công việc, một senpai là người vào công ty trước bạn và/hoặc có nhiều kinh nghiệm hơn; kõhai là người vào công ty sau bạn và thường trẻ hơn bạn.

Dõkisei/dõki: Trong bối cảnh công việc, những nhân viên bắt đầu cùng một lúc ở cùng một công ty.

Torihiki-saki: Những công ty khác nhau làm ăn với công ty của bạn. Đôi khi một công ty như thế còn được gọi là Torihikisaki-san, như thể là một người vậy.

Kiểu nhân viên

Shain: Nhân viên công ty.

Sai-shain: Nhân viên toàn thời gian. Theo truyền thống, địa vị sai-shain ở Nhật nghĩa là “nhân viên trọn đời”.

Keiyaku-shain: Nhân viên hợp đồng có thể được xếp vào hạng mục này. Keiyahu-shain được công ty tuyển trực tiếp hoặc được một công ty dịch vụ nhân sự gửi tới. Lương của họ được trả theo giờ và bảo hiểm hay các gói bồi thường của họ khác so với những người làm toàn thời gian.

Kenshũ-sei: Thực tập sinh. Trong các tổ chức của Nhật, ngay cả nếu kenshũ-sei được tuyển vào các vị trí toàn thời gian, thì mấy tháng đầu vẫn là “thời gian thử thách”. Vì thế, họ có thể được gọi là kenshũ-sei hoặc shinnyũ-shain / shinjin (nhân viên mới).

Arubaito (Albait): Nhân viên bán thời gian. Albait tương tự như keiyaku-shain, vì lương của họ được trả theo giờ. Tuy nhiên, lịch làm việc của albeit kém ổn định hơn và thường ám chỉ một vị trí tạm thời. Các công việc bán thời gian cho sinh viên đại học được xếp vào dạng này.

O.L: Nhân viên nữ.

Các buổi tiệc nơi làm việc

Kangei-kai: Tiệc chào mừng.

Sõbetsu-kai: Tiệc chia tay.

Bõnen-kai: Tiệc cuối năm.

Shinnen-kai: Tiệc năm mới.

PHƯƠNG THANH tóm tắt
Lịch sử tư tưởng phương Đông Việt Nam học

Cẩm nang làm việc với người Nhật (phần 1)

“Văn hóa làm việc với người Nhật” là sự hướng dẫn tuyệt vời cho những người muốn hiểu được khác biệt giữa Nhật Bản với các nước phương Tây, và cách để giải quyết những khác biệt đó nhằm phát triển hoạt động trao đổi thông tin, cộng tác và hợp tác.

Về tác giả

John Condon là chuyên gia nổi tiếng về giao thoa văn hóa. Ông đã có thời gian sống và làm việc lâu dài với người Nhật.

Tomoko Matsumoto là giáo sư về truyền thông tại Đại học Nghiên cứu Quốc tế Kanda ở ngoại ô Tokyo.

Nội dung chính
Nguyên tác: With Respect to The Japanese
Người dịch: Thanh Huyền
Bản quyền tiếng Việt: Thái Hà Books

1. Tất cả những gì tôi cần biết, họ đã học ở trường mẫu giáo
Trong cuốn “Tất cả những gì tôi cần biết, tôi đã học ở trường mẫu giáo” – cuốn sách bán chạy nhất ở Mỹ vài năm trước, tác giả Robert Fulghum viết về kiến thức đơn giản khi học cách chia sẻ mọi thứ, nắm tay và đi sát nhau khi băng qua đường.

Hàng thập kỷ trước, khi cuốn sách thú vị của Fulghum ra đời, các nhà khoa học ở Nhật đã có một nghiên cứu về hành vi của trẻ em ở các trường mẫu giáo của Mỹ và các trường quốc tế so với hành vi của trẻ em trong các trường mẫu giáo ở Nhật Bản.

Các nhà nghiên cứu quan tâm đến tranh vẽ của bọn trẻ. Họ băn khoăn liệu khi nhận được cùng một chỉ dẫn, những đứa trẻ từ các nền văn hoá khác nhau có tạo nên các bức tranh khác nhau hay không.

Câu trả lời là có, rõ ràng đến nỗi gần như ai cũng có thể phân loại được bức nào là do bọn trẻ Nhật Bản vẽ và bức nào là của trẻ em Bắc Mỹ, Úc và châu Âu.

Đầu tiên là cách bố trí chỗ ngồi ở mỗi trường. Ở một số phòng học của Mỹ, có những chiếc bàn riêng. Ở tất cả các trường mẫu giáo của Nhật, trẻ em ngồi quanh những chiếc bàn, tạo thành các nhóm sáu hay tám bé.

Nguyên tắc của các giáo viên cũng khác nhau. Các giáo viên người Mỹ mời các vị khách “đi thẳng vào vấn đề và bảo các em họ muốn các em làm gì”. Ở các trường của Nhật, tất cả việc truyền đạt thông tin đều do giáo viên kiểm soát, họ chịu trách nhiệm và đóng vai trò cầu nối, thực hiện. “Hãy cho tôi biết các bạn muốn tôi nói gì với các em”, giáo viên Nhật sẽ nói như vậy.

Cách bọn trẻ bắt đầu và thực hiện hoạt động cũng khác biệt. Thường thì sau khi nhận được tờ giấy, một đứa trẻ người Mỹ sẽ bắt đầu vẽ ngay. Khi bức tranh đã hoàn thành, bọn trẻ sẽ giơ lên để thông báo hoặc sẽ mang lên bàn giáo viên.

Ở các trường của Nhật thì trẻ em đợi đến khi tất cả các tờ giấy đã được phát. Sau đó, ở mỗi bàn, các em nhìn nhau và nói chuyện một chút về những việc chúng chuẩn bị làm. Sau đó, từng bàn một, như thể có tín hiệu, tất cả các em bắt đầu vẽ. Trong suốt quá trình vẽ, bọn trẻ sẽ quay ra và xem những đứa khác đang làm gì. Những em hoàn thành trước tiên sẽ đợi đến khi các bạn khác xong, và khi tất cả đã hoàn thành thì các bức vẽ sẽ được thu lại.

Nếu bọn trẻ tỏ ra khó khăn khi vẽ ai đó trong gia đình, phản ứng của các giáo viên cũng khác nhau. Giáo viên người Nhật thường hỗ trợ đứa trẻ, cầm tay trẻ và điều khiến chiếc bút màu. Ở các trường của Mỹ, giáo viên khuyến khích các em với các từ như “Hãy cố gắng hết sức” hay “Trong tranh là bố của em đấy, em hãy cố vẽ theo cách mà em nhìn thấy bố em nhé”.

Cuối cùng, trình tự mà các thành viên gia đình được vẽ ra cũng khác nhau đáng kể. Với trẻ em Nhật, trình tự thường bắt đầu từ bố, me, rồi đến anh chị. Đứa trẻ sẽ vẽ mình tiếp theo, và nếu vẫn còn em nhỏ hơn, các bé sẽ vẽ cuối cùng.

Với trẻ em Mỹ và các em từ các nước khác, trình tự có vẽ như ngẫu nhiên hơn nhiều. Xu hướng đáng chú ý duy nhất là một số trẻ em Mỹ sẽ vẽ mình đầu tiên.

Tôi hay chúng ta?
Bằng vô số cách, cả hiển nhiên và tinh tế, người Nhật Bản được khuyến khích trước tiên tới quan hệ của họ với người khác. “Chúng ta” trước “tôi”. “Chúng ta” theo nghĩa gia đình, mái trường, đất nước, hay đơn giản là những người đang cùng trò chuyện trong phòng. Một cá nhân không bao giờ hoàn toàn độc lập, mà luôn phải có ý thức về những người khác.

Với nhiều người từ các nền văn hoá khác, cá nhân, chứ không phải nhóm, mới là căn bản.

Đây không đơn giản chỉ là những khác biệt văn hoá thú vị. Chúng chính là những vấn đề về cảm xúc. Một vị khách có thể phiền lòng nếu một người Nhật thể hiện quan điểm mở đầu bằng cụm từ “Người Nhật chúng tôi” (Wareware Nihonjin). Người Mỹ thì sẽ yêu cầu “Hãy cho tôi biết luôn quan điểm của anh đi”.

Tương tự, người Nhật cũng thấy một số biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân kiểu Mỹ thật bất lịch sự và khó gần. Người Mỹ thường có xu hướng nói theo kiểu “theo ý kiến của tôi”, “tôi nghĩ là…”, để vừa thể hiện tính cá nhân đồng thời thận trọng về việc nói thay ý kiến người khác. Tuy nhiên, điều đó có thể tạo ấn tượng tự cao tự đại.

Trớ trêu thay, cả hai cách đều nhằm mục đích thể hiện sự khiêm tốn: Nói “chúng tôi” có thể là một cách để hạ thấp quan điểm của cá nhân xuống, còn nói “theo cách nhìn của tôi” thì có thể là một cach để chỉ rằng người đó không có ý nói thay cho người khác.

Ở Nhật, lòng trung thành dành cho trường học tồn tại rất lâu, và khi một người tham gia vào một tổ chức, như công ty chẳng hạn, thì thường sẽ là sự gắn bó lâu dài. Chuyển từ trường này sang trường khác hay công ty này sang công ty khác rất hiếm thấy trước khi bong bóng kinh tế vỡ vào những năm 1990, và đến bây giờ vẫn rất ít.

Ở Nhật, thay đổi không được khuyến khích, vì người chen ngang sẽ không thể tích luỹ được những kinh nghiệm chung với những người đã ở cùng nhau một thời gian dài. Thay đổi từ trường này qua trường khác hay từ công ty này sang công ty khác được coi là gián đoạn; việc đó không đóng góp gì cho sự hoà hợp của nhóm.

Thông lệ tuyển dụng
Nhân viên Nhật Bản thường được tuyển dụng theo nhóm hay “lớp”, mỗi năm một lần, rất giống sinh viên nhập trường. Dù hoạt động có thể khác nhau, họ đều làm việc cùng nhau, ăn cùng nhau và một số người có thể sống cùng nhau trong khu ký túc xá của công ty. Do đó, khả năng sống hoà thuận với những người khác là một tiêu chí quan trọng để được tuyển dụng.

Ra quyết định
Trong phần lớn các trường hợp, người Nhật thích đưa ra quyết định dựa trên sự đồng lòng hơn là theo biểu quyết. Mọi người nên bàn bạc cho tới khi đạt được thoả thuận nào đó. Nếu có vẻ như không thể thống nhất, thì tốt nhất là hoãn việc ra quyết định lại.

2. Trật tự xã hội
Nhiều người nước ngoài tới làm việc ở Nhật cho rằng người Nhật ý thức thái quá về địa vị của người này với người khác, đặc biệt là tuổi tác và thâm niên.

Trật tự tôn kính ở Nhật là: 1/ Người trẻ hơn nghe theo người lớn tuổi hơn; 2/ Trong một tổ chức, sự tôn trọng được dành cho người có thâm niên nhiều hơn; 3/ Khi chào, những người đang muốn được ưu ái thì cúi thấp hơn (ví dụ người bán hàng cúi đầu trước khách hàng).

Tuy nhiên, lớn hơn không có nghĩa là muốn làm gì thì làm. Anh hay chị có trách nhiệm đặc biệt với cha mẹ và các em. Lớn hơn không nhất thiết là vị trí đáng ganh tỵ. Người nhỏ hơn có thể phụ thuộc và dựa vào sự hỗ trợ của người lớn hơn, hình thức này cũng đúng với các lứa tuổi khác nhau khi học cùng một trường.

Đây là mối gắn kết tiền bối – hậu bối (senpal – kohai), nó còn tiếp tục rất lâu sau thời kỳ đại học và mở rộng sang thế giới công việc, ở đó, các cựu sinh viên tìm kiếm và trao đi sự ưu ái với nhau vì mối gắn kết vì – chứ không phải bất chấp – khác biệt tuổi tác của họ.

Trong một tổ chức, một người trẻ có thể có khả năng tốt hơn người lớn tuổi, và có thể những người khác cũng nhận ra điều đó mà không cần thể hiện ra ngoài, nhưng người trẻ hơn sẽ vẫn thể hiện sự tôn kính với người nhiều tuổi hơn.

Trong các cuộc gặp xuyên văn hoá, mọi thứ có thể bị xáo trộn. Sự lúng túng sẽ giảm đi nếu cả hai chuyện trò bằng tiếng Anh, thứ ngôn ngữ ít đòi hỏi phải điều chỉnh cẩn thận để phù hợp với mỗi tình huống xã hội hơn là tiếng Nhật.

Senpai và Kohai
Ba từ để mô tả các mối quan hệ cực kỳ quan trọng ở Nhật là senpai, kohai và doki. Senpai chỉ một người là tiền bối của người khác và kohai chỉ người ở địa vị thấp hơn trong tổ chức, doki chỉ những người trong nhóm gia nhập tổ chức cùng một lúc.

Tôn trọng theo tuổi tác, thâm niên và chú ý tới thứ bậc trên dưới của tổ chức xuất hiện trong giao tiếp hàng ngày ở Nhật.

Ở công sở, những người mới được tuyển thường chỉ thực thi những công việc lặt vặt, thường là trong cả năm đầu tiên. Trong năm đầu này, họ dỡ đồ, phát thư trong nội bộ, đến văn phòng sớm hơn những người khác để sắp xếp tài liệu, thậm chí là lau dọn văn phòng.

Mối quan hệ senpai – kohai tương tự như quan hệ cha mẹ – con cái, rất hiển nhiên trong các tổ chức ở Nhật Bản. Kohai có thể mong chờ ở vị senpai của mình sự bảo đảm và giúp đỡ, thậm chí đôi khi cả sự bảo vệ che chở nữa, cũng như một người chờ đợi những hỗ trợ về tinh thần của cha mẹ khi cần.

Doki, theo nghĩa đen là “cùng kỳ”. Các doki được cử về các bộ phận khác nhau và rồi được thuyên chuyển từ bộ phận này sang bộ phận khác trong những năm đầu ở công ty, nên mạng lưới doki của một người sẽ nhanh chóng được mở rộng trong tổ chức. Dù không xuất hiện trong bất cứ sơ đồ tổ chức chính thức nào, nhưng mạng lưới doki là sức mạnh chính trong sự bền chặt và đoàn kết của các tổ chức Nhật Bản.

Mong muốn hoà nhập
Vì chắc chắn sẽ gặp khó khăn với tiếng Nhật, nên những người mới đến thường cần có ai đó giúp đỡ. Hầu hết các đồng nghiệp người Nhật không thể giúp đỡ được gì nhiều, nhưng có ai để đặt câu hỏi bằng tiếng Anh sẽ giúp giảm đáng kể cảm giác lo lắng của một người nước ngoài làm việc trong một tổ chức Nhật Bản. Những người này tình nguyện giúp đỡ các thực tập sinh.

Thường thì một người không lớn lên ở Nhật cần phải chủ động đề nghị được giúp đỡ và phát triển mối quan hệ với những người có thể giúp.

Cách thức vận hành: Xin phép
Một phụ nữ người Mỹ miêu tả kinh nghiệm khi làm việc tại một công ty ở Tokyo của mình: “Tôi được yêu cầu dọn sạch một trong những phòng làm việc mà nhóm tôi sử dụng. Nhưng mệnh lệnh này đầu tiên xuất phát từ shocho (giám đốc) của tôi, giám đốc nói với nhóm trưởng của tôi, nhóm trưởng nói với sếp thường trực của tôi, sếp thường trực sau đó nói lại với tôi. Ở đây không có chuyện làm việc trực tiếp với bất cứ ai”.

Với người Mỹ, điều này có vẻ “thiếu hiệu quả”. Nhưng trở lại câu chuyện trong lớp học mẫu giáo, khi giáo viên đóng vai trò là người đứng giữa trẻ em trong lớp với những người đến thăm và đề nghị những người khách nói mong muốn của họ với các em cho cô, cô đang thực hiện vai trò trung gian của mình, nếu không, buổi tiếp xúc có thể trở nên khó xử, bối rối, theo quan niệm của người Nhật.

Trong một tổ chức của Nhật, nhận thức về người có trách nhiệm luôn thường trực trong đầu. Đôi khi, trách nhiệm rơi chủ yếu vào người phụ trách (tantosha), nhưng trách nhiệm cũng tăng lên theo vị trí cao hơn trong mạng lưới tổ chức.

Ở Nhật, người ta không hay nghe thấy câu “đó không phải trách nhiệm của tôi”.
Các vấn đề giới tính
Ở mọi cấp độ danh tính cá nhân và mối quan hệ, giới tính là một vấn đề quan trọng cần lưu tâm.

Những người nước ngoài khi đến làm việc tại Nhật nên thận trọng khi đưa ra giả định về đồng nghiệp và những mối quan hệ với đồng nghiệp chỉ dựa trên cơ sở giới tính. Một kỹ sư người Mỹ đến làm việc ở Nhật đã kỳ vọng rằng, hầu hết phụ nữ ở phòng thí nghiệm sẽ là trợ lý hay chủ yếu là thư ký.

Thật ngạc nhiên, người đứng đầu bộ phận và giám sát anh là một phụ nữ, có bằng tiến sĩ khoa học và nhiều năm kinh nghiệm chuyên môn. Tuy nhiên, anh vẫn thấy nhiều phụ nữ anh quen biết có nền tảng học vấn ngang với anh làm những công việc sơ đẳng hơn, và anh kết luận rằng điều này phản ánh một sự thiên lệch giới tính trong tổ chức và người giám sát của anh là một ngoại lệ.

Mất vài tháng anh mới dần hiểu được rằng, những người phụ nữ mà anh cảm thấy là bị chỉ định cho những công việc ít thử thách hơn vì họ là phụ nữ, thực ra đều là những người mới được tuyển dụng, những chuyên viên nghiên cứu sơ cấp, cả nam giới và nữ giới đều phải làm. Điều anh quy cho giới tính trên thực tế là nhiệm vụ do họ còn thiếu thâm niên trong tổ chức.

Theo truyền thống và cho tới ngày nay, trong gia đình, người phụ nữ quản lý về tài chính cũng như những vấn đề học hành của con cái và những trách nhiệm truyền thống khác. Phụ nữ với trình độ giáo dục ngang với bạn học nam vẫn giành được những công việc tương đương trong các công ty.

Nếu một phụ nữ kết hôn và sinh con, cô ấy có thể rời công ty một vài năm, tuy nhiên khi trở lại công ty, họ không có thâm niên như những nam giới có cùng xuất phát điểm.

Ở Nhật, có những lúc không hề có sự phân biệt giới tính, đó là khi thực hiện các dự án. Không hiếm thấy một quản lý dự án là nữ, giám sát một đội đông đảo nam giới. Nhưng trong giờ ăn trưa ở nơi làm việc, thường nam giới và phụ nữ sẽ ngồi ở những khu vực riêng trong phòng ăn.

Một phụ nữ Mỹ kể về kinh nghiệm làm việc ở Nhật của cô rằng, việc cô đi ra ngoài với sếp và nói chuyện về mục đích và kế hoạch tương lai, thậm chí cả những vấn đề cá nhân, không có gì là bất thường cả. “Tình huống đó ở Mỹ có thể sẽ bị nhìn nhận sai lệch – rằng có thể cô ta đang định làm gì đấy sau lưng ai đó hay đang ngoại tình”, cô cho biết.

Nhiều phụ nữ trẻ Nhật coi việc kết hôn và sinh con là điều cốt yếu mà họ trân trọng, khát khao và mong mỏi. Những người khát lại đặt nặng sự thoả mãn bản thân và cống hiến cho xã hội qua những thành tựu trong nghề nghiệp. Nhiều người muốn có cả hai, đồng thời hoặc tuần tự.

3. Gặp nhau
Bầu không khí
Không khí hay bầu không khí cảm xúc, tuy mơ hồ nhưng lại là những cảm giác rất mãnh liệt – chúng là trọng tâm trong bối cảnh các mối quan hệ và giao tiếp giữa người với người ở Nhật.

Để “hiểu được bầu không khí” và cảm nhận người khác đang nghĩ hay cảm thấy gì mà không cần hỏi là cả một nghệ thuật, một dấu hiệu cho thấy sự chín chắn, và một phẩm chất quan trọng trong lãnh đạo và quản lý.

Điều quan trọng ở Nhật là giá trị của việc “hiểu được bầu không khí”, và không phải lúc nào cũng cần hay muốn mọi chuyện được “nói rõ ra”

Nếu một buổi họp được triệu tập để xem xét một quyết định quan trọng, người quản lý hay người chịu trách nhiệm có thể hoãn ra quyết định nếu “bầu không khí” thể hiện rằng tốt hơn là nên đợi đến sau này, khi việc đi đến sự đồng thuận được dễ dàng hơn.

K.Y (kuki ga yomenai) là từ tiếng lóng ở Nhật, ám chỉ những người không hiểu được bầu không khí. K.Y cũng miêu tả cảm giác của rất nhiều người phương Tây tới làm việc ở Nhật.

Địa điểm
Địa điểm thường là một yếu tố cơ bản trong giao tiếp ở Nhật, nhiều đến nỗi người ta thay đổi địa điểm và thời gian để có được cuộc trò chuyện mà họ muốn.

Một vị quản lý ngân hàng người Úc từng tới Nhật, mô tả cảm giác hoang mang khi các đồng nghiệp Nhật cân nhắc rất nhiều trước khi quyết định nên gặp nhau ở nhà hàng nào trong buổi họp vào bữa tối. “Tôi đã nghĩ chủ yếu là vấn đề thuận tiện, thực đơn và giá cả. Nhưng những điều này có vẻ mới chỉ là những điều tối thiểu”, ông nói.

Nguyên tắc về việc coi địa điểm là bối cảnh để diễn giải lời nói cũng như thúc đẩy hay chế ngự những điều có thể được nói ra là những đặc trưng giao tiếp không thể xem nhẹ ở Nhật.

“Ở Mỹ, lời nói là cách để giao tiếp; ở Nhật, lời nói là một cách để giao tiếp” – nhà nhân loại học Masao Kunihiro giúp chúng ta giải thích cách lý giải ngôn từ, và những điều có thể còn quan trọng hơn cả chính lời nói.

Khi từ ngữ quan trọng hơn ngữ cảnh, thì các điều khoản của hợp đồng thường có xu hướng cố định và cứng nhắc.

Trong một khảo sát ở Nhật, câu hỏi được đưa ra là nếu hợp đồng đã được ký, nhưng sau một khoảng thời gian thì việc đáp ứng các điều khoản là không thể, vì các điều kiện đã thay đổi, thì nên làm gì. Chưa tới một phần tư những người được khảo sát trả lời rằng “hợp đồng là hợp đồng”, và người ta nên cảm thấy bị ràng buộc bởi các điều khoản đó. Hai phần ba đưa ra lựa chọn khác – bàn bạc với bên kia và xem có thể điều chỉnh được những gì.

“Với người thông thái thì chỉ một từ là đủ” là câu được nói ở phương Tây, nhưng lại vang dội ở Nhật.

Khi một người Nhật được một công ty Nhật tuyển dụng, họ có thể sẽ không nhận được một bản miêu tả công việc chính xác; nhân viên mới có thể thậm chí không biết lương và phúc lợi của họ sẽ thế nào, một tình thế mà không mấy người phương Tây cảm thấy thoải mái. Người phương Tây muốn lời hứa phải được nói rõ ràng. Người Nhật đặt lòng tin nhiều hơn vào những vấn đề khác – uy tín của công ty hay người đã tiến cử ứng viên.

Các tiêu chuẩn kép
Giao tiếp ở Nhật đánh giá cao sự nhạy bén đối với các tình huống, với việc làm hoặc nói những gì phù hợp trong một tình huống cụ thể. Người Nhật không mong muốn tất cả mọi người phải được đối xử cùng một cách trong tất cả các tình huống, họ cũng không nghĩ rằng sẽ là khôn ngoan nếu lúc nào cũng nói ra điều mình tin tưởng.

“Theo từng trường hợp” là một thành ngữ thường được sử dụng ở Nhật.

Tatemae và Honne
Nhiều người nghiên cứu về nước Nhật đã nghe đến thuật ngữ tiếng Nhật tatemae và honne dùng để mô tả hai tiêu chuẩn cùng tồn tại song song không mâu thuẫn.

Tatemae nghĩa đen là cấu trúc bên ngoài của một toà nhà – những biểu hiển ở bề mặt. Honne nghĩa đen là “tiếng nói thực sự”. Người Nhật cho rằng giữa những điều người ta nói và nghĩ có thể có sự khác biệt.

Người Nhật thường xem xét hoàn cảnh mà vấn đề được bộc lộ, từ đó đánh giá xem bao nhiêu phản ánh là honne và bao nhiêu là tatemae. Ngữ cảnh là điều quan trọng bậc nhất.

Những người làm việc ở Nhật được khuyên phải luôn luôn xem xét hoàn cảnh mà điều gì đó được nói ra.

Người Nhật thể hiện sự tôn trọng và lòng biết ơn cùng sự lịch thiệp bằng cách nâng người kia lên, trong cả lời nói và hành động. Cả sự tôn kính nâng người khác lên và sự khiêm nhường hạ thấp mình đều là những nguyên tắc cơ bản trong mối quan hệ giữa người với người ở Nhật.

Người phương Tây cũng làm như người Nhật khi tán tụng, ca ngợi hay thể hiện sự quan tâm đến người kia, nhưng họ không sẵn sàng để trở nên lu mờ như những người bạn Nhật của họ.

Khi khách hàng cảm thấy mình không được người bán hàng cư xử nhã nhặn, hay khi cha mẹ cảm thấy họ không nhận được sự tôn trọng từ phía con cái, họ sẽ thấy phiền lòng hoặc cảm thấy bị tổn thương.

Văn hoá Mỹ lại không khuyến khích mọi người mong mỏi bất cứ cách đối xử đặc biệt nào mà không phải do họ đã “giành” được.

Người Nhật thường chuẩn bị kỹ cho các cuộc gặp mặt. Họ sẽ muốn biết ít nhất là đủ thông tin về người mà họ sẽ gặp lần đầu, để cư xử cho đúng mục đích, hơn là cố gắng tìm hiểu mối quan hệ vào lúc gặp mặt.

Do vậy, người Nhật thích sử dụng người trung gian để giới thiệu.
Người Nhật không thoải mái với “cuộc gọi lạnh lùng” từ những người muốn hợp tác trong công việc. Các doanh nhân tới một công ty Nhật mà không báo trước sẽ không bao giờ được ấn tượng tốt và chắc chắn là sẽ không được đón nhận một cách tốt đẹp. Công ty quả thật chưa sẵn sàng để tiếp nhận họ.

Các phong cách thương thảo
Tầm quan trọng của ngữ cảnh và kỳ vọng về việc có qua có lại đều là trọng tâm đối với các phong cách thương thảo ở Nhật, như được giải thích qua sự tách biệt giữa phong cách điều chỉnh (awase) và phong cách chọn lọc (erabi) của Kinhide Mushakoji – Phó hiệu trưởng và giảng viên quan hệ quốc tế của Đại học Liên Hiệp Quốc.

Phong cách erabi dành cho người thích lựa chọn, gắn với các nhà thương thảo người Mỹ.

Phong cách awase đặc trưng bởi các điều chỉnh liên tiếp trong một môi trường liên tục thay đổi. Nhà thương thảo phong cách awase có thể không có mục tiêu cố định trong đầu cho tới sau khi tham gia vào các cuộc thảo luận và cảm thấy những điều khả thi trong tình huống.

Khi người phương Tây và người Nhật thương thảo, ngay từ ban đầu có thể sẽ có những xung đột trong các hiệp ước. Một phía có thể sẽ muốn đưa ra các đề nghị ngay lập tức, muốn “đặt các quân bài của mình lên bàn”. Người Nhật có lẽ không sẵn sàng làm như vậy, họ muốn dành nhiều thời gian hơn để trong lúc đó dần hiểu bên kia rõ hơn, nhằm nhận thấy điều gì có thể sẽ có hiệu quả.

Nếu một bên muốn có các hợp đồng chi tiết và chặt chẽ trong khi phía Nhật lại thích một tài liệu ít chính xác hơn đóng vai trò như một biểu tượng cho sự nỗ lực hợp tác của hai bên, thì có thể sẽ nảy sinh vấn đề. Phía Nhật có thể tiếp tục đàm phán về các biệt đãi sau khi hợp đồng được ký, một vị thế mà những người đã quen với phong cách erabi coi là không phù hợp.

4. Giao tiếp hàng ngày
Dù thời trang thay đổi năm này qua năm khác, và ở Nhật khác nhau một chút ở các vùng, nhưng hai đặc điểm bất biến của phục trang và diện mạo bên ngoài là gọn gàng và sạch sẽ.

Ta nên lưu ý rằng ăn mặc phù hợp mới chỉ là điều bận tâm đầu tiên. Cách cư xử thậm chí còn quan trọng hơn.

Một nghiên cứu về các cuộc phỏng vấn xin việc cho thấy những khác biệt giữa sinh viên Nhật và sinh viên Mỹ thành thạo tiếng Nhật. Một vài sinh viên Mỹ bắt chéo chân trong khi phỏng vấn, trong khi không sinh viên Nhật nào làm như vậy. Ở Nhật, bắt chéo chân trước mặt của ai đó lớn tuổi hơn hay ở địa vị cao hơn mình bị coi là bất lịch sự.

Với những người từ nước ngoài tới Nhật làm việc, lời khuyên là bắt đầu bằng cách ăn mặc cẩn trọng, quan sát xem những người khác mặc gì rồi điều chỉnh theo.

Giao tiếp ở Nhật chuộng “đi đường vòng”. Một phiên dịch viên chuyên nghiệp người Nhật nói rằng: “Lối nói gián tiếp kiểu Nhật là một phần cách sống của chúng tôi. Không phải vì chúng tôi là những người tử tế và ân cần đến nỗi lo lắng về phản ứng của người khác. Chỉ là chúng tôi biết định mệnh và số phận của chúng tôi lúc nào cũng gắn với người khác”.

Ở nơi mà một người là một phần của nhóm – gia đình hay công ty – cũng có thể có sự thẳng thắn khiến người ngoài phải choáng váng. Các vị sếp có thể đi thẳng vào vấn đề, mà theo tiêu chuẩn của phương Tây, điều dó có vẻ tàn khốc.

Khi hy vọng gặp ai đó lần đầu và đôi lúc, khi truyền đạt một thông tin khó khăn và tế nhị, người Nhật thấy rằng sử dụng bên thứ ba, hay người trung gian, có thể là cách hiệu quả nhất.

Tuy nhiên, có một “bên thứ ba” mà người Nhật ít dùng hơn so với các xã hội hiện đại khác: luật sư. Thực tế, vai trò của luật sư một phần là để giúp làm rõ và giảm những điều mơ hồ bằng cách chuyển các thông tin thành dạng văn bản, với thứ ngôn ngữ khiến mọi vấn đề trở nên rõ ràng với cả hai phía. Các hợp đồng của Mỹ thường rất nhiều chi tiết và đưa ra những thoả thuận, ý định và kết quả rõ ràng. Các hợp đồng của Nhật có vẻ chung chung và mơ hồ hơn.

Với quá trình toàn cầu hoá, sự có mặt và vai trò của luật sư đã tăng lên đáng kể ở Nhật, nhưng phần lớn là ở cấp độ công ty hay tổ chức khác. Nghĩa là người ta không hề nghĩ tới việc mâu thuẫn bình thường leo thang thành một thách thức pháp luật.

Người Nhật có cách chia buồn đúng, cách chào đón người trên đúng, cách đón năm mới đúng, cách mời nước và nhận quà đúng, từ chối một lời khen sao cho đúng… Tuy nhiên người Nhật không kỳ vọng người nước ngoài sẽ cố gắng hành động như họ.

Một nhà tư vấn kinh doanh người Nhật đưa ra lời khuyên: “Có nhiều việc bạn nên cố gắng làm cho đúng khi ở Nhật, nhưng người Nhật không kỳ vọng bạn làm mọi việc giống như cách họ làm. Bạn nên cố gắng biết điều gì người Nhật coi là cách thức phù hợp, và điều chỉnh theo”.

Các cách nói “không”
Người Nhật trong khi trò chuyện thường gật đầu hơn bất cứ xã hội nào, và tần suất hơn gấp đôi so với người Mỹ.

Người phương Tây không quen thuộc với Nhật Bản thường nhầm gật đồng với đồng ý, trong khi điều đó chỉ đơn giản là dấu hiệu cho thấy người đó đang lắng nghe. Một số người Nhật cho biết họ cảm thấy bất an khi nói chuyện với người không gật đầu.

Mặc dù hành vi gật đầu không có nghĩa là đồng ý, nhưng lại mang tính xác nhận, vì người Nhật rất ngại nói “không” trực tiếp trong giao tiếp xã giao.

Nhà nghiên cứu Keiko Ueda đã xác định được 16 cách khác nhau truyền đạt câu nói “không”, bao gồm đổi hướng câu chuyện, xin lỗi, nói “có” kèm theo điều kiện, và im lặng.

Khi trả lời câu hỏi về việc tìm thời gian gặp mặt, một người nói tiếng Anh có thể nói “Không, tôi không gặp bạn vào thứ Sáu được”, còn người Nhật sẽ nói “Như thế có thể hơi khó”.

Khi một nhà quản lý người Nhật trả lời một gợi ý hay một yêu cầu bằng một nhận xét kiểu như “Hừmmm, chuyện đó chắc sẽ khó đấy”, hay “Để tôi nghĩ về chuyện đó đã”, thì một người Nhật khác sẽ coi đó là dấu hiệu tương đối mạnh rằng câu trả lời là “không”.

Hầu như người Mỹ nào cũng quen với câu “im lặng là vàng”, nhưng ít ai biết đến nó ở dạng quen thuộc ở Nhật: “Nói là bạc, nhưng im lặng là vàng”.

Quả thật, có rất nhiều câu tục ngữ Nhật thể hiện sự hoài nghi với lời nói và đánh giá cao sự im lặng. “Thùng rỗng kêu to” là một câu được ưa thích. Trong giao tiếp, nói quá nhiều cũng có thể là dấu hiệu của sự thiếu chín chắn hoặc một dạng đầu rỗng.

Người Mỹ thường tin rằng nếu có điều gì đó chưa được nói thành lời thì nó chưa được truyền đạt, và nếu ai đó có gì đó để nói thì họ nên nói ra.

Người Nhật và người Mỹ thường khiến nhau bối rối do cách họ nói chuyện và đối xử với sự im lặng. Một người Mỹ hỏi người Nhật một câu và có một khoảng lặng trước khi người Nhật trả lời. Nếu câu hỏi là tương đối trực tiếp thì khoảng lặng thậm chí có thể còn dài hơn, vì người Nhật cân nhắc sao cho tránh được câu trả lời trực tiếp.

Tuy nhiên, người Mỹ có thể cho rằng khoảng lặng đó là do câu hỏi chưa được hiểu rõ, và sẽ nhắc lại cho rõ hơn. Việc diễn đạt thêm bằng lời nói chắc chắn chỉ khiến tình huống khó xử hơn cho người Nhật.

Ở Nhật, “mạnh dạn lên tiếng” có thể trở thành công kích.
Một người Nhật đã học ở Mỹ và từng sống vài năm ở Honolulu giải thích: “Nếu tôi nói với một người bạn Nhật rằng tôi vừa ở Los Angeles, bạn tôi sẽ hỏi tôi thấy những gì, tôi thích nơi đó không… Nhưng nếu tôi kể cho một người Mỹ câu chuyện tương tự, anh ta sẽ noi: “Ồ, Los Angeles hả! Tôi có một người anh họ sống ở Long Beach đấy. Tôi đã từng đến đấy. Tôi thích Los lắm và năm ngoái lúc tôi đi mua sắm ở đó…”. Thật khó chịu khi ai đó chuyển hướng câu chuyện sang nói về họ”.

Khiêm tốn là một đức hạnh, một thái độ lịch thiệp xã giao trong hầu hết các xã hội. Một người khoe mẽ, chỉ biết đến mình, thì dù ở Sydney hay Saporo cũng làm người khác chán. Người Nhật cũng như người phương Tây đánh giá cao người anh hùng gạt đi những lời khen tặng dành cho hành động của họ. Tuy nhiên, cũng có đôi chút khác biệt.

Khi một người Nhật đưa ra lời đề nghị với người khác, như tặng một món quà hay một bữa ăn mà người đó đã chuẩn bị, có những biểu hiện cố định cho sự khiêm nhường: “Chẳng có gì đâu” hay “Không có gì đặc biệt đâu”.

Đừng bao giờ đón nhận những lời xin lỗi theo giá trị bên ngoài. Người chủ xin lỗi khách rằng “Thật chẳng có gì đặc biệt để đãi anh cả” nhưng thật ra họ đã dành gần hai ngày để lên kế hoạch và chuẩn bị bữa ăn. Tất nhiên, khách nên phản đối sự phủ nhận đó.

Bởi mỗi người đều gắn bó chặt chẽ với gia đình, nên khen ngợi vợ chồng hay con cái cũng giống như ca ngợi chính mình, theo người Nhật. Sự ngần ngại ca ngợi công khai những phẩm chất tốt của gia đình là một lý do khiến người Nhật thấy lạ khi các doanh nhân phương Tây để ảnh của vợ chồng hay gia đình họ trên bàn ở văn phòng.

Khái niệm thể diện ở Nhật bắt nguồn chủ yếu từ tầm quan trọng mà các giá trị phương Tây dành cho một cá nhân.

Theo quan điểm của người Nhật, một người đối xử với người khác và được người khác đối xử lại có tầm quan trọng vô cùng lớn.

Điều người khác nghĩ về một người thực sự rất hệ trọng ở Nhật. Quan tâm tới những gì người khác nghĩ, quan trọng nhất là những người thiết lập nên nhóm, là giá trị cơ bản và lẽ đương nhiên ở Nhật. Ý thức này đôi khi dẫn tới việc sống như thể để gánh trách nhiệm thay cho người khác.

Ở Nhật, người ta sợ bị mất thể diện do gây ra lỗi lầm nhiều hơn rất nhiều so với việc bị ai đó cố tình sỉ nhục. Những người phương Tây làm việc gần với người Nhật một thời gian sẽ học được cách cẩn trọng trong cách họ đối xử với người khác, vì sợ xúc phạm tới họ.

Tuy nhiên, cũng có những vị sếp người Nhật rất thẳng thắn trong việc trách mắng một nhân viên trước mặt người khác. Dù ngày nay không còn thường xuyên thấy trong các tổ chức của Nhật, nhưng phong cách độc đoán này trong các nhóm vẫn tồn tại cùng mối quan tâm về thể diện.

Người Nhật cũng rất nỗ lực để giúp “bao che” cho người khác nhằm ngăn chặn hoặc “cứu” những tình huống có thể khiến bạn bè hay đồng nghiệp phải xấu hổ. Về khía cạnh này, mối quan tâm về “thể diện” có thể chiếm vị trí ưu tiên so với những mối quan tâm khác.

Một vị lãnh đạo người Nhật làm việc ở Tokyo gần bằng thời gian làm việc ở New York nói rằng, cô thấy rất thú vị với cách nói của người Mỹ, “da mỏng” nghĩa là “quá nhạy cảm với điều người khác nói”.

“Tôi nghĩ, những người Mỹ làm việc với người Nhật cần phải có “da mỏng hơn”, và người Nhật làm việc với người Mỹ – đặc biệt ở New York – cần phải trở nên “da dày hơn”, bởi vì ý nghĩa và hậu quả của những gì người khác nói về chúng ta hay về cách người khác đối xử với chúng ta ở mỗi quốc gia là khác nhau”, cô kết luận.

(Còn phần 2)

PHƯƠNG THANH tóm tắt
Lịch sử tư tưởng phương Đông Việt Nam học

MỘT VÀI KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN VÀ CON ĐƯỜNG HIỆN ĐẠI HÓA CỦA VIỆT NAM

MỘT VÀI KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN VÀ CON ĐƯỜNG

HIỆN ĐẠI HÓA CỦA VIỆT NAM

Võ Văn Sen

Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐHQG-HCM

TÓM TẮT: Công cuộc hiện đại hoá nước Nhật từ Minh Trị Duy Tân trở đi đã được thực hiện thành công và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho các nước đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá như nước ta. Bài nghiên cứu này đã phân tích ba kinh nghiệm lớn : thiết lập mô hình văn minh mới kết hợp “ Đông- Tây”, xây dựng một nhà nước mạnh, ngang tầm thời đại trong đó đảm bảo những người tài giỏi nhất phải thực sự là hạt nhân quản lý nhà nước; chủ động tiến công với một “phương án tác chiến” để giành thắng lợi, chú ý đến giáo dục và khoa học công nghệ.

SOME EXPERIENCES OF JAPAN AND THE PROCESS OF PRESENT – DAY VIETNAM’S MODERNIZATION

Vo Van Sen

University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM

ABSTRACT: As a result of Meiji emperor’s excellent strategy for development, Japan’s modernization has succeeded and it has become one of economic superpowers of the present- day world. From the historical viewpoint of its modernization, this article wants to examine some typical strategic experiences that are able to contribute to the development of Vietnam. It provides analysis of three typical experiences: establishing the new model of civilization; “military” strategy and methodology for economic, cultural, scientific, educational achievements; formation of strong nation-state with excellent governing elites. It also points out some possibilities for application of these experiences in present-day Vietnam’s modernization.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. [1].  Vĩnh Sính, Việt Nam và Nhật Bản Giao lưu văn hóa. NXB Văn Nghệ TP.HCM, 2001.
  2. [2].  Islamic World and Japan. Tokyo, 1978, tr.5.
  3. [3].  Tiêu Phong, Hai chủ nghĩa một trăm năm, NXB Thế giới Đương Đại (Trung Quốc), 2000, tr. 140-141. (Bản tiếng Việt)
  4. [4].  D.T. Suzuki, Thiền, NXB TP.HCM, 2000.

 

  1. [5].  V.A. Pronnikov, I.D. Ladanov, Người Nhật, NXB Tổng Hợp Hậu Giang, 1989. (Bản tiếng Việt)
  2. [6].  Di thảo số 55,Viện Khoa học Xã hội tại TP.HCM (Trung tâm Nghiên cứu Hán Nôm), Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước, NXB Đà Nẵng, 2000, tr.11-12.
  3. [7].  Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp Hành Trung ương khóa VII, HN, 1993, tr. 4.
  4. [8].  Đảng Cộng Sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ IX.NXB CTQG, HN, 2001, tr. 114.
  5. [9].  Pierre Antoine-Donnet, Nước Nhật mua cả thế giới, NXB Thông tin-Lý luận, HN, 1991, tr.29.
  6. [10].  Michaelis and Mc Keown, 20th Century Asia, NXB Mc Graw-Hill, 1969, tr. 362.
  7. [11].  Vũ Dũng, Sự giáo dục và tuyển chọn công chúc cao cấp ở Nhật Bản từ thời Minh Trị đến trước chiến tranh thế giới thứ II, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản, số 12-1997, tr. 52,50, 48.
  8. [12].  Đảng Cộng Sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB CTQG,HN, 2001, tr. 215-219.
  9. [13].  James C. Abegglen, George Stak, Kaisha Công ty Nhật Bản, Viện KTTG (UBKHXHVN), HN, 1988, tập II, tr. 62-63.
  10. [14].  Hòang Xuân Long, Bí quyết thành công trong sự bắt chước công nghệ Nhật Bản, Tạpchí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số2 (38), 2002, tr.15-20.
  11. [15].  Nguyễn Điền, Nông nghiệp Nhật Bản- mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao nhấtkhu vực châu Á, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản, số 2(26)-2000, tr.3-5.

A.I Sokolov, Nhật Bản, Kinh tế và giáo dục, Mockba, 1982, tr.63. V.A. Pronnikov, I.D.

w620h405f1c1-files-articles-2015-1088596-van-hoa-nhat-ban

http://www.vnulib.edu.vn:8000/dspace/bitstream/123456789/3513/1/sedev0915-01.pdf