Browsing Tag

Do Thái giáo

Do Thái giáo

Bản sắc Do Thái

 

Print Friendly

d12Ewf8ddSsbRoKwMumvzucd

Tại Israel, để là một người thực tế, bạn phải tin vào phép lạ”.[1]

-David Ben-Gurion (Thủ tướng đầu tiên của Nhà nước Israel hiện đại)

Từ khi Nhà nước Israel tuyên bố độc lập vào năm 1948, những đánh giá lịch sử về Israel thường chỉ đặt trọng tâm xoay quanh của các cuộc chiến nẩy lửa, các xung đột Ả Rập-Israel không bao giờ hết và các cuộc đàm phán ngoại giao bế tắc. Trọng tâm đó rất gây hiểu lầm. Israel đã trải qua nhiều cuộc chiến; Israel cũng luôn là mục tiêu của các cuộc tấn công khủng bố nhiều hơn bất kỳ một quốc gia nào khác; cũng là một thành viên tích cực trong nỗ lực kiến tạo hòa bình của Trung Đông trong nhiều thập niên. Tuy nhiên, các xung đột và thương lượng, mặc dù thường xuất hiện với tần suất rất cao trên các tiêu đề truyền thông hàng ngày, chỉ là một phần nhỏ của câu chuyện. Cuốn sách này “Câu chuyện Do Thái: từ Do Thái giáo đến Nhà nước Israel hiện đại” cho chúng ta nhìn thấy một bức tranh quan trọng hơn và bao quát hơn: thực tế của đất nước này và con người của nó là gì?

Câu trả lời là Israel hiện đại đã và đang xây dựng một hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa với một ý thức rõ ràng – mặc dù không hoàn hảo và chưa trọn vẹn. Đó là một quốc gia bình thường như mọi quốc gia khác, độc đáo, đặc sắc, và mang nhiều màu sắc khác lạ.

Tuy rằng Israel hiện đại khởi nguồn từ một trong những nền móng xã hội và văn hóa lâu đời nhất trên trái đất, di sản cổ xưa của nó đã không giúp cho công cuộc xây dựng quốc gia Israel hiện đại dễ dàng hơn. Ngược lại, tôn giáo và chủ nghĩa duy vật, ngôn ngữ đa dạng, dân chúng với nhiều trình độ phát triển kinh tế, kinh nghiệm lịch sử khác nhau, trong số các yếu tố khác, đã khiến cho công cuộc xây dựng quốc gia của Israel đặc biệt phức tạp và đầy thử thách. Một mảnh đất nhỏ bé và khô cằn, tài nguyên thiên nhiên ít ỏi, bao quanh bởi các nước láng giềng thù địch, cùng với những câu chuyện thành công ngoạn mục đã làm cho Israel trở nên một đất nước như huyền thoại.

Định nghĩa Israel hiện đại

Ý tưởng cho rằng người Do Thái là “chỉ là” một nhóm tôn giáo là một khái niệm bắt đầu với cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, nhưng đã không gây ảnh hưởng ở Tây Âu cho đến giữa thế kỷ 19. Khái niệm này hoàn toàn không đứng vững trong các cộng đồng người Do Thái ở Đông Âu hay Trung Đông. Ở Tây Âu, những người có cảm tình với người Do Thái và những người Do Thái muốn mình hòa đồng với nền văn hóa của đa số, đã tìm cách mô tả người Do Thái như những công dân bình thường về mọi mặt ngoại trừ trong khu vực cá nhân hạn hẹp của tôn giáo. Không tự coi mình là một dân tộc đặc biệt với một nền văn hóa, ngôn ngữ, và bản sắc riêng biệt là một cách làm của người Do Thái trong cố gắng đạt tới bình đẳng và loại bỏ chủ nghĩa bài xích Do Thái. Nhưng cách tiếp cận này đã không phản ánh được thực tế lịch sử và mâu thuẫn với chính hình ảnh bản thân của họ.

Trong Thời Kỳ Thánh Kinh [3000 TCN – 538 TCN][2] và cho đến thời điểm quốc gia Israel cổ đại bị người La Mã hủy diệt vào năm 70 CN, người Do Thái đã sinh hoạt như một quốc gia, được cho là đầu tiên trong lịch sử. Sau đó, suốt trong hơn mười chín thế kỷ, người Do Thái lưu vong, và trên những vùng đất mà họ cư ngụ đã hình thành nên một dân tộc tách biệt với những tổ chức quản lý phi-nhà nước theo cung cách riêng của mình, với ngôn ngữ duy nhất, phong tục độc đáo, những ý tưởng khác lạ, và một nền văn hóa rất khác biệt, chưa kể đến những thứ như trang phục quần áo và nghệ thuật. Những từ như “Hebrew” và “Israeli”, sử dụng phổ biến hơn từ “Jews” – ngay trong thời hiện đại – đã phản ánh rằng bản sắc dân tộc và con người Israel đã tự mở rộng vượt ra ngoài phạm vi của tôn giáo.

Tôn giáo, như thế, chỉ là một dấu hiệu trong bản sắc người Do Thái, giống như một quốc gia trong tự nhiên. Không có mâu thuẫn nào giữa bản sắc tôn giáo và bản sắc dân tộc. Trong thế giới cổ đại và cũng ở ngay thời hiện đại, ở nhiều nơi, một tôn giáo khác biệt là một trong những điểm nổi bật chính của quốc gia-dân tộc. Điều này đặc biệt đúng tại khu vực Trung Đông thời hiện đại, nơi mà Israel là một điển hình.

Trong suốt lịch sử, hành động đầu tiên đánh dấu rằng người Do Thái có một bản sắc dân tộc đặc biệt mạnh mẽ chính là việc họ đã từ chối các vị thần và các phong tục tôn giáo của ngay cả những dân tộc đã từng thống trị họ như người La Mã và sau đó người Kitô giáo và Hồi giáo. Trong nhiều trường hợp khác, có những dân tộc chấp nhận tôn giáo, ngôn ngữ, và bản sắc của những người cai trị hoặc hàng xóm để rồi cuối cùng biến mất khỏi lịch sử. Điều đó cho thấy rằng một bản năng yếu kém không có chỗ tồn tại trong thế giới của quyền lực. Cái bản sắc tôn giáo-dân tộc kéo dài của người Do Thái đã tỏ ra mạnh hơn so với hầu như bất kỳ một dân tộc nào khác trên trái đất.

Khả năng sinh tồn này đã được định hình không phải chỉ do đặc tính “bướng bỉnh” và “bất chấp” của người Do Thái, cũng không phải do những o ép đối với họ bằng vũ lực. Thay vào đó, người Do Thái đã hành động giống như một quốc gia hiện đại, dù rằng đã mất quyền kiểm soát hoặc hiện diện trong những vùng lãnh thổ đặc biệt. Thật vậy, việc ngăn cấm tôn giáo đối với người Do Thái bằng cách pha loãng tập tục của họ hay tích hợp từ tập tục của những dân tộc khác trong thời cổ đại đã dẫn đến cuộc nổi dậy thành công của người Do Thái vào năm 166 TCN chống lại người Syria dòng Seleucid để lập nên vương quốc Hasmoneans độc lập; và ngược lại là cuộc khởi nghĩa thất bại chống lại người La Mã và dẫn đến sự hủy diệt của Jerusalem vào năm 70, buộc người dân Do Thái sống cuộc đời lưu vong trong gần 2000 năm.

Sau khi dịch chuyển trung tâm sinh hoạt từ Vùng đất Israel đến các cộng đồng Do Thái lưu vong, rời xa khỏi quê hương lịch sử ở Trung Đông, người Do Thái vẫn tiếp tục cố gắng sinh hoạt như một quốc gia, mặc dù buộc phải chấp nhận những thiệt thòi của lối sống tách biệt, đó là sự phân biệt đối xử và thậm chí bách hại dưới bàn tay của các nước láng giềng. Qua nhiều thế kỷ, trong khuôn khổ lãnh đạo của các giáo sĩ Do Thái, người Do Thái vẫn duy trì một hình thức chính phủ cộng đồng của riêng mình, cùng với pháp luật, lịch, ngôn ngữ, các quan điểm triết học, có thể nhìn thấy trong các văn bản lớn của giáo hội và đặc biệt là qua đồ ăn, tập quán, và trang phục quần áo.

Đây không phải là một hoạt động mang tính cục bộ. Các cộng đồng cá nhân của người Do Thái, ngay khi cách xa nhau ngàn vạn cây số và sống trong những điều kiện rất khác biệt, vẫn duy trì kết nối trong suốt thời gian dài thời Trung cổ và tiếp tục trong thời kỳ hiện đại. Thật vậy, đó chính là lý do giải thích tại sao người Do Thái vẫn có thể thành công trong việc duy trì thương mại ở tầm xa, giữ được những tập quán khá đồng nhất.

Tất cả người Do Thái, ngay cả những người nghèo và ít học nhất sống ở các thôn xóm cô lập nhất, vẫn ý thức được nguồn gốc của họ tại Vùng đất Israel trong Thánh Kinh; nhiều người vẫn duy trì quan hệ với cộng đồng rất nhỏ người Do Thái đang còn sống ở đó và luôn tin rằng số phận sẽ dẫn họ trở về khi Đấng Cứu Thế xuất hiện.

Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái (Zionism – Chủ nghĩa Zion) xuất hiện ở châu Âu vào cuối thế kỷ 19 đã cập nhật tất cả những ý tưởng hiện có trên tinh thần tự giác và chủ nghĩa dân tộc đương đại. Nó đề xuất câu trả lời cho “câu hỏi Do Thái“, rằng làm thế nào để người Do Thái, bao gồm cả những người có cuộc sống không bị bao bọc bởi giới luật tôn giáo, đáp ứng những thách thức và cơ hội của thế giới hiện đại? Câu trả lời là không phải sự đồng hóa, cũng không phải là sự tồn tại thuần túy tôn giáo có thể đáp ứng những thách thức của thế giới hiện đại, mà chính là sự tồn tại của quốc gia: đó là sự cần thiết tạo ra một nhà nước Do Thái ngay trên quê hương lịch sử. Các nhà Zionist cũng lập luận rằng việc thay thế sự kiên nhẫn của lòng tin bằng hành động của con người sẽ bảo tồn cuộc sống của chính những người Do Thái và sự thịnh vượng cho tôn giáo của họ.

Ở Đông Âu, nơi mà đại đa số người Do Thái châu Âu tập trung, trên thực tế một đời sống quốc gia của người Do Thái vẫn tồn tại trong suốt thế kỷ 19 và kéo dài sang thế kỷ 20 ở nhiều nơi. Hầu hết người Do Thái châu Âu nói tiếng Yiddish, một ngôn ngữ có nguồn gốc từ tiếng Do Thái và tiếng Đức. Họ cầu nguyện hàng ngày trong các hội đường, lấy Vùng đất Israel làm trung tâm tôn giáo, và sinh hoạt như một cộng đồng hoàn toàn tách biệt với các láng giềng. Vụ diệt chủng người Do Thái của Đức Quốc Xã, cùng với sự đồng hóa cưỡng chế ở một số quốc gia châu Âu và Liên Xô, đã kết thúc lối sống này.

Trong khi đó ở Trung Đông người Do Thái sống gần như hoàn toàn cô lập trong cộng đồng của họ, tuân theo các lề luật tôn giáo riêng, có trang phục và nghề nghiệp khác biệt, và nói một ngôn ngữ đặc biệt đó là Arabic-Hebrew hoặc Spanish-Hebrew tương tự như tiếng Yiddish.

Với lịch sử như thế, nhận thức chung của nhiều người ngoài cuộc là người Do Thái luôn là những người ngoài lề, không tự nguyện hội nhập hoàn toàn vào những cộng đồng đa số nơi họ sống. Đối với người Do Thái ở châu Âu Kitô giáo hoặc Trung Đông với đa số Hồi giáo, chưa bao giờ – hoặc chỉ rất gần đây – có bất kỳ lời đề nghị hội nhập hoàn toàn. Tuy nhiên, đại đa số người Do Thái không nhìn bản sắc khác biệt của họ với ý nghĩ tiêu cực mà vẫn coi mình đơn thuần là “hướng nội”. Nói cách khác, người Do Thái tự coi họ là một phần của cộng đồng Do Thái rất gắn kết của riêng mình, trong khi vẫn chia sẻ thế giới quan với các thành viên của các cộng đồng khác bất kể vị trí địa lý và hoàn cảnh kinh tế của họ.

Thật vậy, Israel hiện đại không phải là một tác phẩm tùy ý hoặc ngẫu nhiên – nó không chỉ đơn thuần là kết quả của những thảm họa, ví dụ như, Holocaust. Thay vào đó, nó là sự tiếp nối của một quá trình lịch sử lâu dài. Sự ra đời của Nhà nước Israel là không thể tránh khỏi và là một logic hợp lý vì cũng như bất kỳ nhà nước nào trên thế giới hiện nay, nó được tạo ra bởi một cộng đồng của những người có chung một thế giới quan, lịch sử, và ước muốn được chia sẻ số phận của mình.

Sự tồn tại của những cảm tình đối với Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái trong xã hội, tôn giáo và thế giới quan Do Thái có lẽ sẽ không đi tới đâu nếu không có một phong trào có tổ chức. Những nhà tư tưởng tiên phong giữa thế kỷ 19 – Moses Hess [1812-1875], Leon Pinsker [1821-1891], và những người khác – đã cung cấp cái nhìn thoáng qua về ý tưởng lãng mạng của một nhà nước Do Thái, nhưng Theodor Herzl [1860-1904] và Ben-Gurion [1886-1973] mới là những nhà cách mạng đã đưa ý tưởng phục quốc trở thành hiện thực vào những năm 1890 khởi đầu với khái niệm “Vùng đất Israel ” (Land of Israel).

Cuộc di cư rải rác của những người dân Do Thái lưu vong về lại Vùng đất Israel và tham gia với cộng đồng tôn giáo truyền thống đã có ở đó dẫn đến sự ra đời của Yishuv. Đây là tên gọi cộng đồng người Do Thái ở Vùng đất Israel giữa những năm 1880 và 1948, khi Israel tuyên bố trở thành một nhà nước độc lập. Cộng đồng Do Thái Yishuv đóng vai trò quan trọng trong việc đặt nền móng cho một Nhà nước Israel đã được trù liệu. Trong khi truyền thống và lịch sử Do Thái là lớp nền móng đầu tiên trong việc định hình Nhà nước Israel hiện đại, Yishuv là lớp thứ hai.

Những thuộc tính văn hóa và cơ cấu kinh tế-chính trị được tạo ra trong thời kỳ Yishuv đã trở thành những thuộc tính cơ bản của nhà nước và xã hội Israel hiện đại sau này. Các đặc trưng tiền-nhà nước được biết đến nhất bao gồm: sự hồi sinh của ngôn ngữ Hebrew, sự thành lập các tổ chức tự vệ, việc thành lập một nền tảng kinh tế công nghiệp theo cấu trúc xã hội chủ nghĩa, sự phát triển của một hệ thống dịch vụ xã hội toàn diện, sự hòa hợp của một nền văn hóa nẩy sinh chủ yếu từ chất men trí thức của Đông Âu, việc lập ra các làng cộng đồng sáng tạo “Kibbutz” và các hợp tác xã “Moshav”, và việc xây dựng một khuôn khổ quốc gia căn bản là thế tục với các khía cạnh tôn giáo lớn. Nhiều yếu tố khác từ những năm Yishuv trong giai đoạn tiền-nhà nước vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến Israel rất lâu sau khi Nhà nước Israel được thành lập.

Hãy xem xét, ví dụ, vai trò của tôn giáo. Để nói rằng Israel là một nhà nước Do Thái không có nghĩa là chỉ đơn thuần là một bản tuyên bố về bản sắc tôn giáo. Nó trước tiên phải là một tuyên bố về bản sắc dân tộc. Đại đa số các nhà lãnh đạo Yishuv, và sau đó các nhà lãnh đạo Israel, là thế tục (có nghĩa là không ràng buộc vào tôn giáo nào). Họ đồng thời công nhận tầm quan trọng của tôn giáo trong việc gắn kết người Do Thái lại với nhau, tôn trọng tín ngưỡng của các nhóm thiểu số, nhưng cũng muốn đảm bảo rằng tôn giáo không có quá nhiều quyền lực đối với xã hội và văn hóa dân tộc.

Vì vậy, thế hệ lãnh đạo thống trị Yishuv và Nhà nước Israel ban đầu đã sớm đạt được một thỏa hiệp với các lãnh đạo Do Thái giáo Chính Thống (Orthodox) để chỉ chấp nhận quyền lực của tôn giáo ở một số khía cạnh của xã hội. Ngày nay các tổ chức nhà nước vẫn tuân theo luật lệ về chế độ ăn chay (Kosher) của người Do Thái; các cửa hàng thường đóng cửa vào ngày Sabbath (mặc dù thực tế này đã bị xói mòn theo thời gian); nhà nước nghỉ làm việc trong các ngày lễ tôn giáo của người Do Thái; kết hôn, ly hôn, và chôn cất được các giáo sĩ Do Thái điều khiển; sinh viên của các chủng viện Yeshiva[3] được hoãn nghĩa vụ quân sự. Thỏa hiệp này đảm bảo duy trì sự cân bằng quyền lực của cả hai phía thế tục và tôn giáo.

Tuy nhiên, thực tế thì Israel là một xã hội nghiêng về thế tục. Nói chính xác thì Israel được đặc trưng là một đất nước trong đó các khái niệm, phong tục và lịch sử có nguồn gốc tôn giáo đã được đặt vào trong một khuôn khổ thế tục và quốc gia. Trong một ý nghĩa tương tự, quá trình này cũng đã diễn ra trong nền văn minh phương Tây Kitô giáo.

Trong ba hoặc bốn thập niên đầu tiên của Nhà nước Israel độc lập, người Israel Do Thái tiếp tục tự cho rằng họ được phân chia rõ ràng thành hai nhóm tôn giáo và thế tục. Đến những năm 1990, tuy nhiên, người Israel Do Thái nhận ra sự tồn tại của một chuỗi rộng các quan điểm cũng như trình độ của việc thực hành tôn giáo. Khi xã hội đã trở thành thế tục hơn và ít ý thức hệ hơn, một thành phần khá lớn dân số gọi là “truyền thống” xuất hiện; họ vẫn duy trì các yếu tố của giới luật tôn giáo nhưng lại cam kết cho một lối sống cơ bản thế tục. Cách tiếp cận này đặc biệt mạnh trong nhóm người Do Thái Mizrahi là những người Do Thái đến từ Trung Đông và Bắc Phi.

Mặc dù có rất nhiều thách thức, Israel ngày nay có một hệ thống dân chủ đa nguyên được kiến trúc để có thể dung chứa các cộng đồng và các quan điểm khác nhau, mặc dù không đại diện về địa lý.

Một yếu tố khác đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của Israel là những người nhập cư Do Thái đến từ nhiều quốc gia và các nền văn hóa khác nhau đã hòa nhập thành công trong một xã hội thống nhất. Trước và sau độc lập của Israel vào năm 1948, những người nhập cư đến đầu tiên từ châu Âu, sau đó chủ yếu là từ Trung Đông, sau này từ Liên Xô cũ, và với số lượng nhỏ hơn, từ Ethiopia. Hầu hết những người nhập cư là người tị nạn nghèo, mất hết tài sản, cũng như bị chấn thương tâm lý do điều kiện sống khắc nghiệt và khủng bố ở các quốc gia họ đã bỏ trốn. Họ đã tìm thấy đời sống mới trên Vùng đất Israel. Họ hy vọng.

Mặc dù Israel được định nghĩa là một nhà nước Do Thái, nó lại hoạt động giống như một quốc gia Trung Đông truyền thống đa nguyên – với một tôn giáo nhà nước và các nhóm thiểu số tự trị một phần – hơn là kiểu nhà nước một dân tộc (mono-nationalist) của châu Âu thế kỷ hai mươi vốn đã xóa bỏ tất cả các nhóm thiểu số trong quá trình cưỡng bức đồng hóa . Ở Israel, mỗi cộng đồng tôn giáo có quyền kiểm soát đối với các vấn đề riêng của cộng đồng mình về tình trạng cá nhân, có quyền duy trì văn hóa, tôn giáo, và, ở một mức độ nào đó, tự chủ về tư pháp.

Israel nổi lên từ những năm trước và sau độc lập của mình với một thách thức chính trị, thế giới quan, kinh tế, văn hóa trộn lẫn từ nhiều yếu tố khác nhau. Trong số các ảnh hưởng chính là xã hội Do Thái truyền thống cùng với những cải cách Yishuv và những vay mượn từ các nền văn hóa Đông Âu, Tây Âu và Trung Đông. Bổ sung theo thời gian là các yếu tố văn hóa của Bắc Mỹ, Địa Trung Hải, và Nga hiện đại, cũng như một môi trường văn hóa Ả Rập tự trị. Pha trộn tất cả các yếu tố dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và văn hóa này với nhau đã tạo nên một môi trường xã hội phong phú, những ý thức hệ chính trị đa dạng và nhiều giai tầng về địa vị xã hội.

Đây là một phần trích từ cuốn sách “Câu Chuyện Do Thái: Từ Do Thái giáo đến Nhà nước Israel Hiện đại” của tác giả Đặng Hoàng Xa (Nhóm nghiên cứu Do Thái & Israel), do Sách Thái Hà dự định xuất bản tháng 1/2015

——————

[1] “In Israel, in order to be a realist, you must believe in miracles.”

[2] Trong cuốn sách này chúng tôi ghi rõ TCN (trước công nguyên) trong những ngày trước năm 0001. Còn những ngày sau đó chúng tôi dùng ký hiệu viết tắt CN (sau công nguyên) hoặc để trống không ghi gì.

[3] Yeshiva: chủng viện Do Thái Chính thống.

– See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/11/22/ban-sac-do-thai/#sthash.gIFUIVR0.dpuf

Do Thái giáo

Những lí do dân phi-Do-Thái Mỹ ủng hộ quốc gia Do Thái

Print Friendly

640x392_2844_168712

Nguồn: Walter Russell Mead, “The New Israel and the Old: Why Gentile Americans Back the Jewish State?”, Foreign Affairs, July/August 2008.

Biên dịch: Trần Ngọc Cư

Chìa khóa đích thực cho chính sách Israel của Washington là sự hậu thuẫn lâu dài và rộng lớn của công chúng Mĩ nói chung dành cho quốc gia Do Thái.

Ngày 12 tháng Năm năm 1948, trước nội các chia rẽ của Tổng thống Harry Truman, Clark Clifford, luật sư trưởng của Nhà Trắng, đưa ra những lí lẽ biện hộ cho việc Hoa Kì công nhận quốc gia Do Thái. Với sự chứng kiến của một George Marshall, bộ trưởng ngoại giao lườm lườm đôi mắt và một Robert Lovett, thứ trưởng của Marshall đầy vẻ hoài nghi, Clifford lí giải rằng việc công nhận quốc gia Do Thái sẽ là một hành động nhân đạo phù hợp với những giá trị truyền thống của Mĩ. Để chứng minh cho quyền đòi lãnh thổ của người Do Thái, Clifford đã trích dẫn Đệ nhị Luật của Cựu ước (Deuteronomy): “Đây, ta trao đất đó cho các ngươi, hãy vào và chiếm hữu đất mà Đức Chúa đã thề với cha ông các ngươi, là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho họ và dòng dõi họ sau này.” [1]

Marshall không được thuyết phục cho lắm và đã nói thẳng với Truman rằng ông sẽ bỏ phiếu chống lại vị tổng thống này trong kì bầu cử tới nếu đây là chính sách của ông ta. Nhưng cuối cùng, Marshall đồng ý không công bố sự chống đối của mình. Chỉ hai ngày sau đó, Hoa Kì thật sự công nhận tân quốc gia Do Thái, 11 phút sau khi Israel tuyên bố sự hiện hữu của mình như một quốc gia. Nhiều quan sát viên, trong cũng như ngoài nước Mĩ, gán ghép quyết định của Truman với quyền lực của cộng đồng Do Thái tại Hoa Kì. Họ cho rằng lá phiếu và ảnh hưởng báo đài của người Do Thái, cũng như những đóng góp tài chánh của họ vào quĩ vận động tranh cử là trọng yếu trong cuộc chạy đua sát nút vào Nhà Trắng năm 1948.

Kể từ đó về sau, lối lí giải này cứ thế mà được lặp đi lặp lại. Những chuyên gia khả kính về chính sách đối ngoại của Mĩ thường kêu gọi Washington cần phải thận trọng với vùng Trung Đông và từng cảnh báo nhiều vị tổng thống rằng sự hậu thuẫn quá đáng dành cho Israel sẽ gây tổn thất nghiêm trọng cho Hoa Kì trên trường quốc tế. Khi các tổng thống Mĩ gạt bỏ chuyên gia tư vấn qua một bên để đi theo một lập trường thân-Israel, nhiều nhà quan sát bèn gán ghép động thái này cho nhóm vận động hành lang của Israel và cứ thế mà khen (hay chê) nhóm này vì đã lay chuyển được người đứng đầu ngành hành pháp. Tuy nhiên, còn có một yếu tố khác cần được xét đến. Như người viết tiểu sử cho Truman là David McCullough đã ghi nhận, sự hậu thuẫn mà Truman dành do quốc gia Do Thái “được nhiệt liệt hoan nghênh” trên toàn nước Mĩ. Một cuộc thăm dò ý kiến của Gallup tháng Sáu năm 1948 cho thấy rằng số người Mĩ “đồng tình với người Do Thái” nhiều gấp ba lần số người Mĩ “có thiện cảm với người Ả-rập”. Hậu thuẫn này không phải là một ngọn lửa rơm. Sự ủng hộ rộng lớn của dân ngoại Do dành cho nước Israel là một trong những lực chính trị mạnh nhất trong chính sách đối ngoại của Hoa Kì, và trong 60 năm qua, chưa hề có một cuộc thăm dò nào của Gallup cho thấy số người Mĩ đồng tình với người Ả-rập hay người Pa-lét-tin đông hơn số người bênh vực cho dân Israel.

Hơn thế nữa, qua thời gian, thiện cảm dành cho nước Israel ngày càng gia tăng tại Mĩ, đặc biệt trong các tầng lớp dân chúng phi-Do-Thái (non-Jews). Những năm Bush nắm chính quyền đánh dấu hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel đạt đến mức cao hơn bao giờ cả, và hậu thuẫn này chưa hề suy giảm suốt trong hai nhiệm kì của Bush. Sự gia tăng hậu thuẫn này đã diễn ra thậm chí vào lúc tỉ trọng dân số của người Do Thái trong xã hội Hoa Kì bị suy giảm. Vào năm 1948, người Do Thái chiếm khoảng 3,8 phần trăm dân số Hoa Kì. Cứ cho như hầu hết mọi người Do Thái tại Mĩ ủng hộ một chính sách đối ngoại thân-Israel vào năm đó, thì khoảng 10 phần trăm số người tại Mĩ ủng hộ Israel là có gốc gác Do Thái. Vào năm 2007, người Do Thái chỉ chiếm 1,8 phần trăm dân số Hoa Kì và nhiều lắm họ cũng chỉ chiếm 3 phần trăm số người ủng hộ Israel tại Mĩ.

Những con số này, dù ấn tượng thật đấy, nhưng cũng chưa nói hết mức độ hậu thuẫn thực sự của công chúng Mĩ dành cho Israel. Khi Trung tâm Nghiên cứu Pew đặt câu hỏi trong một cuộc thăm dò ý kiến năm 2006, liệu chính sách Mĩ ở Trung Đông có công bằng không, hay đã thiên vị Israel hoặc thiên vị người Pa-let-tin, có đến 47 phần trăm số người trả lời phỏng vấn cho rằng chính sách này công bằng, 6 phần trăm nói rằng chính sách này bênh vực người Pa-let-tin, và chỉ 27 phần trăm nghĩ rằng chính sách Mĩ đã thiên vị Israel. Cuộc thăm dò được xúc tiến trong thời gian Israel tấn công lực lượng Hồi giáo Hezbolla ở Nam Li-băng, một thời điểm mà sự hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel thậm chí gây nhiều tranh cãi trên khắp thế giới hơn lúc bình thường. Vì thế, chúng ta phải kết luận rằng khi trả lời cuộc phỏng vấn, nhiều người trong số những người Mĩ cho rằng Hoa Kì có chính sách công bằng đối với cả hai phía trong cuộc xung đột Trung Đông thật ra cũng chỉ là những người ủng hộ những chính sách mà hầu hết quan sát viên nước ngoài sẽ cho là thân-Israel một cách quá nồng nhiệt và thậm chí tắc trách. Ít khi công chúng Mĩ thiên về một chính sách đối ngoại nào rõ nét như thế này, sâu sắc như thế này, bền bỉ như thế này – và xung khắc với công luận của nhiều nước khác như thế này.

Ở Hoa Kì, một chính sách đối ngoại thân-Israel không tiêu biểu cho sự thắng thế của một nhóm vận động hành lang nhỏ bé vượt lên trên lên ý chí của đại chúng. Trái lại, nó phản ánh sức mạnh công luận trong việc hình thành chính sách đối ngoại bất chấp cả những lo ngại của giới chuyên gia. Tương tự như cuộc chiến chống ma túy và hàng rào dọc theo biên giới Mê-hi-cô, sự hậu thuẫn dành cho Israel là một chính sách đối ngoại của Mĩ từng làm cho một số chuyên gia ái ngại nhưng lại chiếm được sự ủng hộ rộng rãi của công chúng. Điều này không có nghĩa là “nhóm vận động hành lang cho Israel” không hiện hữu hoặc không ảnh hưởng tới việc định hướng chính sách của Mĩ tại Trung Đông. Điều này cũng không có nghĩa là người Mĩ nên duy trì những định kiến của mình. (Tôi vẫn giữ quan điểm rằng tất cả mọi người, kể cả người Mĩ và người Israel, sẽ được lợi lộc nếu người Mĩ bày tỏ một sự hiểu biết toàn diện hơn và thiện cảm hơn đối với nhu cầu của người Pa-let-tin.) Nhưng điều này thực ra có nghĩa là cội nguồn sâu xa nhất của chính sách Trung Đông của Mĩ nằm ngoài vòng đai thủ đô Washington và nằm ngoài cộng đồng Do Thái. Muốn hiểu lí do tại sao chính sách của Hoa Kì luôn thiên vị Israel hơn là trung lập hay thân với người Pa-let-tin, chúng ta phải nghiên cứu xuất xứ của sự hậu thuẫn này từ giới bình dân và phi-Do-Thái (non-Jewish) đối với quốc gia Do Thái.

Con cái của David [2]

Lịch sử của việc Hoa Kì hậu thuẫn cho một quốc gia Do Thái tại Trung Đông bắt đầu khá sớm. John Adams [vị tổng thống thứ hai của Hoa Kì] đã dùng những lời lẽ bộc bạch nhất của mình: “Tôi thành thật cầu chúc cho người Do Thái có lại một quốc gia độc lập trong vùng Judea.” Ông nói điều này sau khi rời ghế tổng thống. Từ đầu thế kỉ 19 trở về sau, những người dân ngoại Do [3]theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít [4] (gentile Zionists) rơi vào hai trường phái. Phái Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionists) dự kiến người Do Thái sẽ trở về Đất Hứa như cách thể hiện theo nghĩa đen lối giải thích lời các ngôn sứ trong Kinh thánh, những điều tiên tri có liên quan tới sự trở lại trần gian của đức Ki-tô và ngày tận thế. Chẳng hạn, dựa trên lối lí giải của chính mình về Chương 18 của những lời tiên tri của ngôn sứ Isaiah [Cựu ước], mục sư John McDonald thuộc giáo phái Albany Presbyterian đã tiên đoán vào năm 1814 rằng nhân dân Mĩ sẽ giúp người Do Thái phục hồi quốc gia thời cổ đại của họ. Nhiều tiếng nói trong giáo phái Mormon cũng chia sẻ quan điểm này; vào năm 1841, Kì mục Orson Hyde cho rằng việc người Do Thái trở về Đất thánh đã được khởi động: “Không còn hoài nghi gì nữa, bánh xe vĩ đại hiện đang chuyển động, lời của Đấng Toàn Năng đã tuyên bố rằng bánh xe đó sẽ lăn nhanh.”

Những tín đồ Ki-tô giáo khác, ít bám vào nghĩa đen của Kinh Thánh và ít dựa vào ngôn sứ hơn, lại triển khai một chủ nghĩa Xi-ôn-nit tiến bộ (progressive Zionism), một lí thuyết có ảnh hưởng qua nhiều thập niên đối với dân ngoại Do trong nhà thờ cũng như ngoài thế tục. Vào thế kỉ 19, những người Ki-tô giáo phóng khoáng thường tin rằng Thiên Chúa đang xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua sự tiến bộ của loài người. Họ nhận thấy nước Hoa Kì dân chủ và (tương đối) bình đẳng vừa là một gương mẫu của thế giới mới mà Thiên Chúa đang tạo dựng vừa là một công cụ vững mạnh để xúc tiến đồ án vĩ đại của ngài. Một số tín đồ Tin Lành Mĩ (American Protestants) [5] tin tưởng rằng Thượng Đế đang khởi động việc đưa những phần tử gọi là người Do Thái bị xuống cấp và đày đọa trên thế giới trở về Đất Hứa, cũng như Thượng Đế đang nâng đỡ và cải thiện cuộc đời của những người ngu si, kém tin khác xuyên qua sự phát triển những nguyên tắc đạo lí Tin Lành phóng khoáng. Họ mong muốn cho người Do Thái thành lập được một quốc gia riêng vì họ tin rằng sự nghiệp lập quốc này sẽ che chở cho người Do Thái khỏi sự bách hại và, thông qua sức mạnh cứu chuộc của tự do và sự cần lao canh tác lương thiện, sẽ nâng cao và cải thiện tình trạng mà họ cho là sự suy đồi đạo lí và sự dơ dáy đáng trách của người Do Thái đương thời ở đế quốc Ottoman và đông Âu. [Cựu tổng thống Mĩ lúc bấy giờ là] Adams đã nhận định: “Một khi có lại được một chính phủ độc lập và không còn bị bách hại, những người Do Thái này sẽ sớm rũ bỏ phần nào tính cộc cằn thô lỗ, những dị hợm trong nhân cách để có lúc trở thành người Ki-tô giáo cởi mở tin vào một Thiên Chúa Nhất thể [6] (Unitarian Christians).” Đối với những tín đồ Ki-tô giáo phóng khoáng nói trên, chủ nghĩa Xi-ôn-nít Mĩ là bộ phận khắn khít của một chương trình rộng lớn hơn nhằm biến đổi thế giới bằng cách xiển dương những lí tưởng của Hoa Kì.

Không phải tất cả mọi người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiến bộ đều gói ghém lí luận của mình bằng từ ngữ tôn giáo. Ngay từ năm 1816, tờ Niles’ Weekly Register, một báo định kì thông tin và bình luận hàng đầu của Mĩ vào nửa đầu của thế kỉ 19, đã tiên đoán và hoan nghênh sự hồi hương sắp diễn ra của người Do Thái, sự trở về một quốc gia độc lập với thủ đô là Jerusalem. Tạp chí này dự phóng rằng sự nghiệp phục quốc và phục hồi nhân cách của người Do Thái sẽ đẩy mạnh văn minh và tiến bộ – và hiển nhiên là, điều này sẽ rất tốt đẹp cho cả Hoa Kì lẫn người Do Thái.

Về phần mình, những người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionists) trở nên đông đảo hơn sau cuộc Nội chiến của Hoa Kì. Quan điểm của họ được triển khai cao độ về vai trò mà một quốc gia Do Thái được phục hưng có thể nắm giữ trong những biến động dẫn đến ngày tận thế. Vào giai đoạn này, những sách báo nêu bật sự phục quốc được tiên tri trong Thánh kinh của người Do Thái và suy đoán về bản sắc và tiến trình hồi hương các “bộ lạc thất tán” của dân Hêbrơ [7] cổ đại là sách bán chạy nhất từ năm này sang năm khác. Sự liên kết giữa Dwight Moody, một người rao giảng Tin Lành (evangelist) [8] hàng đầu trong nước, và Cyrus Scofield, một học giả Kinh thánh quan trọng, đã đặt lịch sử tương lai của nước Israel ở trung tâm tư duy của đạo Tin Lành bảo thủ Mĩ.

Những nhóm dân ngoại Xi-ôn-nít này tìm được những đồng minh mới, dù đôi khi không như ý, vào khoảng sau năm 1880, tức thời điểm mà đợt nhập cư đông đảo người Do Thái Nga bắt đầu. Một số những di dân mới đến này và một số người Do Thái Đức vốn đã hội nhập vào xã hội Mĩ – cả hai nhóm này – nuôi hi vọng rằng Palestine sẽ thay thế Hoa Kì làm quê hương tương lai cho hạng người bị coi là một tập thể di dân bị khinh ghét khác thường lúc bấy giờ. Đối với những phần tử bài Do Thái (anti-Semites), sự thành lập một quốc gia Do Thái có thể hoặc không có thể “chữa trị” người Do Thái hết những tính chất [tiêu cực] mà nhiều dân ngoại Do gán ghép cho họ, nhưng dù sao đi nữa sự thành lập một quốc gia như thế sẽ giảm bớt làn sóng di dân của người Do Thái vào Hoa Kì.

Năm 1891, những nhóm dân ngoại Xi-ôn-nít liên kết lại với nhau. William Blackstone, lãnh đạo thế tục thuộc giáo phái Methodist, trình lên Tổng thống Benjamin Harrison một kiến nghị kêu gọi Chính phủ Hoa Kì đứng ra làm trung gian triệu tập một hội nghị các cường quốc châu Âu nhằm thúc đẩy Đế quốc Ottoman giao trả Palestine lại cho người Do Thái. Bốn trăm người kí tên, mà tuyệt đại đa số là các nhân vật phi-Do-Thái, gồm có chủ tịch Tối cao Pháp viện; Chủ tịch Hạ viện; các chủ tịch Ủy ban tài chánh Hạ viện và Ủy ban ngoại vụ Hạ viện; tổng thống tương lai William McKinley; thị trưởng các thành phố Baltimore, Boston, Chicago, New York, Philadelphia và Washington; chủ bút và chủ báo các nhật báo hàng đầu trên bờ Đông và Chicago; và hàng giáo phẩm rất đáng nể của các giáo phái như Episcopal, Methodist, Presbyterian và Công giáo. Các lãnh đạo doanh nghiệp tham gia kí bản kiến nghị gồm có Cyrus McCormick, John Rockefeller, và J.P. Morgan. Vào một thời điểm mà cộng đồng Do Thái tại Hoa Kì vừa không đủ lớn, vừa không đủ mạnh, và cả giới vận động hành lang cho Israel chưa hiện hữu, những thành phần nòng cốt của nhóm dân ngoại Do quyền thế trong xã hội Mĩ (the American gentile establishment) đã chính thức hậu thuẫn một nỗ lực ngoại giao của chính phủ Hoa Kì nhằm lập ra một quốc gia Do Thái trên địa bàn của Kinh thánh.

Có chung mười điều răn

Bất cứ một thảo luận nào về thái độ của Hoa Kì đối với Israel phải bắt đầu từ Kinh thánh. Qua nhiều thế kỷ, tư duy của người Mĩ đã được thấm sâu trong Kinh điển Hêbrơ. Ảnh hưởng này có xuất xứ từ việc tái phát hiện Kinh thánh Cựu ước trong thời kì Cải cách (the Reformation), được tăng cường do việc triển khai lí thuyết thần học Calvin [9] (một tín lí nhấn mạnh sự liên lũy giữa những sự sắp đặt tiền định trong thế gian, thời xưa và ngày nay, do hồng ân Thiên Chúa), và được làm sống động hơn lên do những tương đồng lịch sử giữa những trải nghiệm hiện đại của người Mĩ và những gì mà người Hêbrơ cổ đại đã kinh qua. Do đó, ngôn ngữ, các gương anh hùng và tư tưởng Cựu ước luôn thấm sâu vào tâm thức người Mĩ.

Qua một thời gian dài ở giai đoạn đầu của lịch sử Hoa Kì, việc giảng dạy tiếng Hêbrơ của kinh thánh là điều cưỡng bách ở các đại học Columbia, Dartmouth, Harvard, Princeton và Yale. James Madison hoàn tất chương trình học tại Princeton trong vòng hai năm, nhưng ở nán thêm một năm nữa để học tiếng Hêbrơ. Nhiều giáo sĩ và nhiều tác giả thời Thuộc địa không ngớt mô tả nước Mĩ là một Ca-na-an mới, “một miền đất tràn trề sữa và mật”, đồng thời nhắc nhở thính, độc giả của mình rằng cũng như người Hêbrơ đánh mất phước lành khi họ xúc phạm Thiên Chúa, người Mĩ cũng sẽ chịu khổ nạn nếu họ không chịu nghe theo vị Thượng Đế đã dẫn dắt họ vào miền đất hứa. Cho đến ngày nay, những điển cố Cựu Ước vẫn còn thấm đẩm các bài viết cũng như diễn văn chính trị, và thậm chí trong cả địa lí nữa– hơn một ngàn thành phố lớn, nhỏ tại Hoa Kì có tên lấy từ Kinh thánh.

Biểu hiện có tính tôn giáo sống động nhất nói lên tầm quan trọng của Kinh thánh Cựu ước trong văn hoá Mĩ ngày nay là sự trỗi dậy của thuyết nói về mệnh trời trước ngày tận thế (premillennial dispensationalism), đây là một lối diễn giải những điều tiên tri trong kinh thánh, một lý thuyết mang lại trọng lượng đặc biệt cho các ý niệm tôn giáo trong Cựu ước như khoa thần học giao ước (covenant theology) [10] , và dành vai trò quyết định lịch sử tương lai cho quốc gia Do Thái, một quốc gia được phục hồi (với thủ đô là Jerusalem). Khoảng chừng 7 phần trăm dân Mĩ tỏ ra có lập trường thần học này (nghĩa là nhóm này đông gần gấp 4 lần cộng đồng Do Thái tại Mĩ), đồng thời không ít thì nhiều một số đông hơn đáng kể chịu ảnh hưởng của khuynh hướng này. Những người đề xuất quan điểm này thường (dù không luôn luôn) chia sẻ quan điểm của một số người Do Thái chính thống, rằng người Do Thái phải đòi cho bằng được một quốc gia bao gồm tất cả phần lãnh thổ mà người Hêbrơ từng được Thiên Chúa hứa hẹn; họ chống lại bất cứ một khoan nhượng lảnh thổ nào với người Pa-lét-tin và họ hậu thuẫn các khu định cư Do Thái ở bờ Tây sông Jordan. Tuy nhiên, đây vẫn là một quan điểm của thiểu số, ngay cả dưới con mắt những người ủng hộ Israel tại Mĩ.

Trái lại, chủ nghĩa Xi-ôn-nít Ki-tô giáo tiến bộ liên quan nhiều với đức lí Ki-tô giáo, hơn là dựa vào lời của các ngôn sứ. Phần lớn chủ nghĩa này có gốc rễ trong mặc cảm tội lỗi và trong ý thức rằng sự bạc đãi của người Ki-tô giáo đối với người Do Thái trong quá khứ hiện đang cản trở người Do Thái chấp nhận Ki-tô giáo. Hơn một ngàn năm, người Do Thái ở châu Âu đã chịu đựng những hành động tàn ác phi thường và lắm khi không ngôn từ nào diễn tả được do bàn tay của người Ki-tô giáo châu Âu. Mặc dù một số tín đồ Tin Lành Mĩ có thời đã kéo dài lịch sử thiếu độ lượng và bài Do Thái này, nhưng từ thế kỉ 19 trở về sau nhiều tín đồ Tin Lành phóng khoáng Mĩ đã coi việc từ bỏ quá khứ này như một trong những nhiệm vụ xác định tính chất của một giáo hội Mĩ cải cách và giác ngộ. Những tín đồ Tin Lành này có thể (và đã thoải mái) chỉ trích chủ nghĩa bài Do Thái của Công giáo La Mã, gọi đây là một hậu quả do những thối nát đáng tiếc dưới chế độ giáo hoàng; nhưng người ta cũng không dễ gì bỏ qua những hành động và những tuyên truyền bài bác Do Thái do chính những nhà cải cách tôn giáo như [người sáng lập đạo Tin Lành] Martin Luther. Nhiều thành viên trong các giáo phái Tin Lành cởi mở Mĩ đã coi mình có nhiệm vụ thiêng liêng là phải hoàn tất sự nghiệp của thời Cải cách (the Reformation) bằng cách tẩy sạch Ki-tô giáo khỏi những tàn tích “trung cổ” như mê tín, thiên kiến, và chủ nghĩa bài Do Thái. Việc sám hối những tội lỗi quá khứ bằng cách bênh vực người Do Thái đã và đang là một thể nghiệm đức tin quan trọng đối với nhiều (mặc dù hẵn nhiên không phải đối với tất cả) tín đồ Tin Lành Mĩ.

Tương phản với thái độ thân Do Thái, đa số tín đồ Ki-tô giáo Mĩ ít khi hoặc không hề có cảm thức tội lỗi nào về những lối ứng xử trong lịch sử của cộng đoàn mình đối với thế giới Hồi giáo. Nhiều tín đồ Hồi giáo coi cuộc xung đột Ki tô giáo-Hồi giáo kéo dài hơn một ngàn năm qua là một hiện tượng liên tục và tương đối thuần nhất, nhưng tín đồ Tin Lành Mĩ lại không nhìn nhận như vậy. Chẳng hạn, họ thường chê trách những tàn bạo của các cuộc Thập tự chiến (the Crusades) và chỉ trích quan niệm thánh chiến, nhưng họ lại coi đây là những sai lầm của Công giáo La mã chứ không phải của Ki-tô giáo nói chung. Và dẫu sao, họ coi những cuộc Thập tự chiến ấy như đã lùi sâu vào dĩ vãng và âu cũng là phản ứng trả đũa sự xâm lấn trước đó của người Hồi giáo. Họ cũng thường phê phán sự bóc lột thuộc địa của các cường quốc châu Âu trong các thế kỉ vừa qua, nhưng họ lại coi những khai thác bóc lột đó là do tham vọng đế quốc của Cựu thế giới chứ không do Ki-tô giáo gây ra và vì thế đó là điều họ không chịu trách nhiệm. (Một biệt lệ quan trọng đáng được nhắc đến: Nhiều nhà truyền giáo Mĩ hoạt động tích cực ở Trung Đông đã tạo được quan hệ sâu đậm với người Ả-rập trong vùng và đã hậu thuẫn mạnh mẽ cho chủ nghĩa dân tộc Ả-rập, vừa vì họ không ưa thích chủ nghĩa thực dân châu Âu vừa vì họ hi vọng một phong trào dân tộc có tính thế tục sẽ cải thiện vị thế của các Ki-tô hữu Ả-rập. Cộng đồng truyền giáo này vừa góp phần phát triển đội ngũ giới chức quan tâm đến quyền lợi Ả-rập trong Bộ Ngoại giao Mĩ vừa giúp tạo ra phản ứng khá dữ dội trong nhiều giáo phái Tin Lành chính mạch chống lại các chính sách của Israel trong vùng lãnh thổ bị chiếm đóng sau cuộc chiến 1967.)

Khoảng trước năm 1948, nhiều tín đồ Ki-tô giáo Mĩ cảm thấy một gánh nặng lương tâm về món nợ và nghĩa vụ lịch sử đối với người Do Thái, nhưng họ không hề cảm thấy điều này đối với người Á rập. Có chăng là, họ chỉ nghĩ rằng thế giới Hồi giáo phải chịu mang ơn các nhà truyền giáo Hoa Kì đã xây dựng nhiều đại học và bệnh viện hàng đầu tại Trung Đông và rằng chính sự hậu thuẫn của người Ki-tô giáo Mĩ trước và sau Thế chiến II đã góp phần thúc đẩy sự trổi dậy của các quốc gia Á rập và Hồi giáo độc lập, một phong trào đang diễn tiến lúc bấy giờ.

Những người bà con do Chúa chọn

Ý thức về bản sắc riêng biệt và sứ mệnh của Hoa Kì được bồi đắp qua quá trình tiếp thu sử sách và tư tưởng Hêbrơ. Nhà văn Mĩ Herman Merville đã diễn tả quan điểm này như sau: “Người Mĩ chúng ta là nhân dân đặc biệt, được Chúa chọn – là nước Israel thời đại mới; chúng ta gánh lấy chiếc thuyền Nô-ê chứa đầy các quyền tự do trên thế giới.” Từ thời đại của những người Thanh giáo (Puritans) cho đến ngày nay, nhiều giáo sĩ, nhà tư tưởng và chính khách tại Hoa Kì – thế tục cũng như tôn giáo, phóng khoáng cũng như bảo thủ – vẫn coi người Mĩ là một khối nhân dân do Chúa chọn, ràng buột với nhau theo huyết thống thì ít nhưng theo một hệ thống tín lí và một định mệnh chung thì nhiều. Nhiều người Mĩ vẫn còn tin tưởng rằng Thiên Chúa (hay lịch sử) đã đưa họ đi vào một vùng đất mới và làm cho họ trở thành vĩ đại, giàu có, và rằng sự phồn vinh bền vững của họ sẽ tùy thuộc vào việc họ chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa hay theo đúng những nguyên tắc đạo lí đã mang lại ơn phước cho họ từ trước tới nay. Nếu họ sao lãng những nguyên tắc này – như khi người Do Thái quay ra sùng bái con bò bằng vàng lúc Mô-se vắng mặt – thì tai họa sẽ giáng xuống trên đầu họ.

Cả người Mĩ mộ đạo lẫn người Mĩ thế tục đều hướng tới Kinh thánh Hêbrơ để tìm ra một tấm gương của một dân tộc có tính đặc thù nhờ sứ mệnh riêng và được ơn kêu gọi gánh vác một định mệnh là làm thay đổi thế giới. Phải chăng đất đai người Mĩ đang cư ngụ đã có thời thuộc về người khác? Vâng đúng vậy, nhưng trong một cách thế tương tự, người Hêbrơ đã từng chiếm đất của người Ca-na-an. Phải chăng các thuộc địa bé nhỏ tại Mĩ chỉ được trang bị bằng sức mạnh công lí của chính nghĩa mà đã đánh thắng một đế quốc vĩ đại nhất thế giới? Vâng, cũng giống như David, cậu bé chăn cừu khiêm tốn, đã quật ngã người khổng lồ Goliath. [11] Phải chăng người Mĩ vào thế kỉ 19 từng bị cô lập và bị nhạo báng vì những lí tưởng dân chủ của mình? Vâng, trong hoàn cảnh tương tự, người Hêbrơ cũng bị các sắc dân thờ bái thần tượng bao vây. Phải chăng người Mĩ đã từng đánh thắng giặc trong, thù ngoài? Vâng, theo Kinh thánh, người Hêbrơ cũng từng chiến thắng như vậy. Phải chăng vì vi phạm chính những tín lí của mình khi cầm giữ hàng triệu nô lệ, người Mĩ đã bị trừng phạt và hứng chịu nhiều tai hoạ? Vâng, rất giống như người Hêbrơ, một dân tộc đã hứng chịu hậu quả của tội lỗi mình trước mặt Thiên Chúa.

Nhận thức đầy huyền thoại này về bản chất và định mệnh nước Mĩ là một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ và bền bỉ nhất trong văn hóa và tư tưởng Hoa Kì. Như người Hêbrơ cổ đại từng tin tưởng, nhiều người Mĩ ngày nay cũng tin tưởng rằng họ mang một mặc khải, nhiên hậu không những cho chính họ mà cho toàn thế giới; họ thường tự coi mình là nước Israel mới của Thiên Chúa. Một trong những hậu quả của việc nhìn họ hàng (presumed kinship) này là nhiều người Mĩ cho rằng việc một dân tộc được Chúa chọn (chosen people) này hậu thuẫn cho một một dân tộc được Chúa chọn khác là điều vừa hợp lẽ phải vừa chính đáng. Họ không cảm thấy áy náy khi sự hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel, một dân tộc và một quốc gia thường bị nhiều nước cô lập và khai trừ, làm cho Hoa Kì bị ghét lây hoặc gây ra nhiều vấn đề khác. Việc Hoa Kì nhận lãnh vai trò của một kẻ che chở cho Israel và một người bạn của người Do Thái là một cách hợp thức hóa địa vị riêng của một quốc gia được Thiên Chúa giao cho một định mệnh độc đáo.

Hơn thế nữa, từ thế kỉ 19, Hoa Kì đã tự coi mình là đại lí được Thiên Chúa chọn ra để bảo vệ và cứu chuộc dân tộc Do Thái. Người Mĩ từng tin rằng người Do Thái sẽ vươn lên từ thân phận đọa đày khi họ rời bỏ những khu ổ chuột trong thành phố để về sống ở các vùng thôn quê – y như những người di dân đến Mĩ từ khắp châu Âu đã xây dựng được cuộc sống tốt đẹp hơn và nhân cách vững vàng hơn khi họ trở thành những nông dân theo mô hình kinh tế nông nghiệp Jefferson (Jeffersonian farmers) [12] . Những tín đồ Ki-tô giáo cởi mở như [tổng thống] Adams tin tưởng rằng tiến trình này sẽ kịp thời đưa người Do Thái đến với ánh sáng của giáo phái Tin Lành khai phóng, nằm trong nỗ lực là thăng tiến toàn thể nhân loại. Còn những người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nit tiên tri (prophetic Zionism) thì hi vọng rằng việc hàng loạt người Do Thái cải sang Ki-tô giáo hồi sinh (revivalist Christianity) sẽ nhanh chóng chuyển sang giai đoạn khải huyền [tận thế] cùng với sự trở lại thế gian của đức Ki-tô. Bằng cách này hoặc bằng cách khác, vai trò đặc biệt của Hoa Kì trong việc phục hồi nhân phẩm và chỗ đứng của người Do Thái đã thể hiện những kì vọng của dân ngoại Do Mĩ về sự chuyển động của lịch sử và khẳng định niềm tin tưởng của họ về bản sắc và sứ mệnh của Hiệp Chúng Quốc.

Những quốc gia thực dân

Hiệp Chúng Quốc và Israel còn có chung một tình trạng là “quốc gia thực dân”–những nước được thành lập bởi các dân tộc đã giành quyền kiểm soát lãnh thổ cho riêng mình sau khi trục xuất các dân tộc bản địa. Cả hai quốc gia được nhào nặn mạnh mẽ bởi một lịch sử xung đột và đối đầu với những sắc dân bị họ trục xuất, và cả hai đều tìm lí lẽ biện minh cho hành vi của mình từ những nguồn đạo lí tương tự. Cả người Mĩ lẫn người Israel chủ yếu tìm sự biện minh từ Kinh thánh Cựu ước, trong đó có những trang sách thiêng liêng kể lại tích truyện về sự xung đột giữa người Hêbrơ cổ đại và người Ca-na-an, cư dân trước đó của phần lãnh thổ mà người Hêbrơ tin tưởng là Đất Hứa của họ. Người Mĩ tìm thấy nhiều hấp dẫn trong quan niệm cho rằng họ là quốc gia Israel mới của Thiên Chúa một phần cũng vì quan niệm này biện minh cho việc họ đã trục xuất và giành đất của người Mĩ bản địa [dân da đỏ]. Như Theodore Roosevelt đã viết trong cuốn lịch sử miền Tây Hoa Kì, đương thời được liệt là sách bán chạy nhất: “Nhiều người trong những công dân xuất sắc ở vùng sâu vùng xa là những người ham đọc Kinh Thánh, nhưng họ được nuôi dưỡng theo một đức tin phần lớn được rao giảng trong Cựu ước, một đức tin không coi trọng lòng thương hại, sự thật, hay từ bi. Họ nhìn kẻ thù của mình theo cách những ngôn sứ Hêbrơ đã nhìn kẻ thù của Israel. Những hành vi ghê tởm đã khiến cho người Ca-na-an bị tiêu diệt trước mắt Joshua [13] đâu có nghiã lí gì nếu đem so với những sự hèn hạ của bọn mọi da đỏ khiến người Mĩ, cũng là một giống dân Chúa chọn, đến phiên mình có bổn phận phải thừa hưởng đất đai của chúng.” (Bản thân Roosevelt, cũng như những người em họ Franklin và Eleanor, là một người Ki-tô giáo theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít. “Đối với tôi, việc khởi sự thành lập một quốc gia Xi-ôn-nit chung quanh Jerusalem là hoàn toàn thích đáng”, Roosevelt viết như thế năm 1918.)

Ngoài một lời hứa hẹn trực tiếp từ Thiên Chúa, hai biện minh quan trọng mà người Mĩ đưa ra trong những cuộc tranh chấp lãnh thổ với người Mĩ bản địa là quan niệm cho rằng họ chỉ bành trướng vào “những vùng đất hoang vu” và lí thuyết liên hệ của John Locke về “việc sử dụng tài sản công bằng hợp lí”, theo đó một tài sản không có người dùng là một sự phí phạm và là một xúc phạm đối với thiên nhiên. Những người đến lập nghiệp ở Mĩ cho rằng chỉ những ai có thể cải thiện đất đai, bằng cách thiết lập san sát trên đó nhiều nông trại rộng lớn và xây dựng trên đó nhiều phố thị, mới có thực quyền làm chủ đất đai ấy. Từ năm 1802 [tổng thống tương lai] John Quincy Adams đã bênh vực cho luận điểm này: “Liệu [người da đỏ] dám bắt cả một vùng đất bao la của địa cầu phải chịu đời đời hoang phế hay sao…? Còn Thomas Jefferson thì cảnh báo rằng những người Mĩ bản địa nào không chịu học hỏi người da trắng, không đi vào con đường canh tác sản xuất thì phải chịu số phận đen tối. Họ sẽ “thoái hoá trở lại tình trạng man rợ khốn cùng, sẽ hao hụt dân số vì chiến tranh và thiếu đói; khi đó chúng ta buột lòng phải xua đuổi họ, cùng với loài dã thú trong rừng, vào vùng núi đá.”

Suốt phần lớn lịch sử Hoa Kì, những quan điểm như thế có âm hưởng lớn không những đối với dân vùng sâu vùng xa mà còn đối với cả những công dân lịch lãm và phóng khoáng. Những luận cứ này mang một ý nghĩa đặc biệt khi bàn đến Đất thánh. Trong khi người Mĩ mộ đạo miệt mài chiêm nghiệm những huy hoàng của thành Jerusalem cổ đại và Đền Solomon [14] , họ đã vẽ lên trong tâm trí mình một miền đất phì nhiêu hoành tráng – “một quê hương tràn trề sữa tươi và mật ngọt”, như Kinh thánh mô tả. Nhưng vào khoảng đầu thế kỉ 19, khi hàng chục người đầu tiên, rồi đến hàng trăm người, và cuối cùng hàng ngàn người đi hành hương Đất thánh – đồng thời thêm hàng triệu người đổ xô đến dự những buổi thuyết trình để nghe tường thuật những chuyến đi này – người ta mới vỡ lẽ rằng chẳng có chi đáng gọi là sửa tươi và mật ngọt; Palestine lúc bấy giờ chỉ là một trong những tỉnh nghèo nàn nhất, lạc hậu nhất, tả tơi nhất của Đế quốc Ottoman. Trước mắt người Mĩ, những sườn đồi và những cánh đồng sỏi đá của vùng Judea trông rất thê lương, trống trải – khiến nhiều người tin rằng Thiên Chúa đã rủa sả vùng đất này khi ngài đày dân Do Thái vào cuộc lưu vong thứ hai, một cuộc lưu vong mà họ cho là hình phạt người Do Thái phải gánh chịu vì không chịu nhìn nhận đức Ki-tô là đấng Cứu thế. Và vì thế, nhiều người Mĩ tin tưởng, người Do Thái thuộc về Đất thánh và Đất thánh phải thuộc về người Do Thái. Người Do Thái sẽ không bao giờ cất đầu lên được bao lâu mà họ chưa về lại quê nhà, chưa được tự do, và đất thánh sẽ không bao giờ đâm bông kết trái bao lâu mà những người chủ chân chính của nó chưa trở về.

Ngôn sứ Isaiah đã mô tả cuộc hồi hương tương lai của dân Do Thái là hồng ân Thiên Chúa mang nước tưới lên sa mạc. Và nhiều người Mĩ đang chứng kiến mầu mỡ của vùng đất này được phục hồi dưới bàn tay canh tác của những người Xi-ôn-nít đầu tiên mới về lập nghiệp, họ chứng kiến với tất cả cảm giác ngỡ ngàng là những điều tiên tri trong kinh thánh đang trở thành hiện thực ngay trước mắt mình. “Những suối nguồn trong sức mạnh thực dân Do Thái, được nuôi dưỡng hào phóng bằng đồng tiền của cộng đồng Do Thái trên toàn thế giới, đang tuôn chảy tràn trề lên sa mạc”, tạp chí Time đã viết như thế vào năm 1946, vang vọng ngôn ngữ của Tiên tri Isaiah. Hai năm sau, tiếp theo thắng lợi của Do Thái trong cuộc chiến 1948, báo Time lại mô tả dân Ả-rập bằng những từ ngữ khiến người đọc ngày nay phải giật mình nhưng vào thời đó nó tiêu biểu cho cảm thức thông thường của người Mĩ: “Thế giới phương Tây thường coi người Ả-rập như một chinh nhân có đôi mắt diều hâu ngồi trên lưng ngựa trắng. Chàng Ả-rập ấy vẫn còn lẫn khuất đâu đó, nhưng chàng thuộc về một thiểu số quá nhỏ nhoi so với hạng khốn khó, mang đủ thứ bệnh hoạn trong người, đang nằm lây lất trên những con lộ nóng, quá ốm yếu và bạc nhược tinh thần đến độ không còn sức để lăn vào bóng mát.” Người Mĩ chứng kiến một cuộc đọ sức giữa một dân tộc lạc hậu, yếu hèn và một dân tộc có khả năng lập nghiệp trên vùng đất hoang dã và làm cho nó đâm bông kết trái, đang thần kì thể hiện những lời tiên tri xa xưa về một quốc gia Do Thái.

Trước đó, một cách khá phổ biến, người Do Thái bị coi là khối dân đáng chê trách nhất ở đông Âu: dốt nát, sa đọa, mê tín, chia bè chia phái, hay gây gỗ, và lạc hậu hết thuốc chữa. Sự thể đám dân này, sau khi chịu đựng bao nhiêu dã man chưa từng có dưới sự đàn áp của Đức quốc xã, đã thiết lập được một chế độ dân chủ ổn định đầu tiên ở Trung Đông, xây dựng được một nền kinh tế thịnh vượng trong sa mạc và liên tục đánh bại những kẻ thù có đội quân lớn mạnh hơn mình nhiều lần, đối với nhiều người Mĩ là bằng chứng lịch sử hùng hồn về những lí tưởng tôn giáo mà họ ấp ủ sâu xa nhất.

Bước ngoặt hữu khuynh

Mặc dù sự hậu thuẫn của dân ngoại Do Mĩ dành cho Israel vẫn còn mạnh và thậm chí gia tăng kể từ Thế chiến II, nhưng tính chất của hậu thuẫn này đã thay đổi. Mãi cho đến Cuộc Chiến Sáu Ngày, phần lớn hậu thuẫn dành cho Israel đến từ giới chính trị tả khuynh và thường thì phe Dân chủ ủng hộ Israel mạnh hơn phe Cộng hòa. Các thần tượng phóng khoáng như Eleanor Roosevelt, Paul Tillich, Reinhold Niebuhr, và Martin Luther King, Jr., đều là những tiếng nói công khai hàng đầu kêu gọi Hoa Kì ủng hộ Israel. Nhưng kể từ 1967, hậu thuẫn của cánh tả dành cho Israel dần dần suy giảm trong khi hậu thuẫn của phe bảo thủ lại gia tăng.

Nhiều yếu tố khác nhau đã hội tụ lại trong thập niên 1940 để biến chủ nghĩa Xi-ôn-nít ngoại Do tiến bộ (progressive gentile Zionism) thành một thế lực mạnh trong sinh hoạt chính trị của Hoa Kì, nhất là bên cánh tả. Một là, cuộc tàn sát người Do Thái do bàn tay của Đức quốc xã trong Thế chiến II gây chấn động phi thường lên tín đồ Tin Lành Mĩ. Trước đó nước Đức đã có một thời cung ứng lãnh đạo tinh thần cho giáo hội Tin Lành Mĩ, và vì thế thái độ thụ động chấp nhận mà các hầu hết nhà thờ và mục sư Tin Lành Đức dành cho chế độ Quốc xã đã gây sốc đến tận cốt lõi cho toàn khối Tin Lành chính mạch tại Mĩ. Những tín đồ Tin Lành Đức chống chế độ Quốc xã đã trở thành những vị anh hùng đạo lí và thần học tại Hoa Kì thời hậu chiến, đồng thời thái độ chống đối chủ nghĩa bài Do Thái (anti-Semitism) trở thành một thử nghiệm then chốt mà các tín đồ Tin Lành chính mạch Mĩ dùng để đánh giá bản thân và các nhà lãnh đạo. Cơn sốc sâu đậm này đã mạnh mẽ thúc đẩy họ hưởng ứng cứu trợ nhân đạo trước những phát hiện về các lò sát sinh và các cuộc tàn sát tập thể. Nỗi thống khổ của người Do Thái tị nạn, vừa li tán vừa đói nghèo trong một châu Âu hỗn loạn thời hậu chiến, đã khiến điều sau đây trở thành tất yếu: tín đồ Tin Lành Mĩ, sau một thế kỉ vận động đòi quyền sống cho dân Do Thái, sẽ nhiệt tình hậu thuẫn những bước phát triển mà họ cho là có thể đảm bảo an toàn cho người Do Thái châu Âu.

Yếu tố thứ hai là hậu thuẫn mạnh mẽ của người Mĩ gốc châu Phi (African Americans) dành cho người Do Thái vào một thời điểm mà dân da đen bắt đầu đóng một vai trò to lớn hơn trong sinh hoạt chính trị tuyển cử của Hoa Kì. Suốt thập niên 1930, báo chí của người Mĩ gốc châu Phi đã chăm chú theo dõi việc Hitler áp đặt những chính sách phân biệt chủng tộc. Các lãnh đạo Mĩ gốc châu Phi không để lỡ cơ hội vạch ra những điểm tương đồng giữa việc Hitler đối xử với người Do Thái và những luật phân chủng Jim Crow áp dụng tại miền nam Hoa Kì. [15] Đối với nhiều người Mĩ gốc châu Phi, bằng kinh nghiệm bản thân hằng ngày, họ cảm nhận một cách sống động, hiện thực, cảnh đàn áp mà người Do Thái phải chịu đựng. Sự đàn áp này cũng cung ứng cho họ những luận điểm quan trọng để thuyết phục người da trắng rằng kì thị chủng tộc là vi phạm những nguyên tắc đạo lí của Mĩ và vì thế sự đàn áp người Do Thái ở châu Âu đã đưa đến việc xây dựng một liên minh vững mạnh giữa người Do Thái tại Mĩ và phong trào dân quyền [của người da màu], một liên minh tồn tại từ năm 1945 đến cuối đời Martin Luther King. Ngay cả trong Thế chiến II, các nhà tranh đấu da đen W.E.B. Du Bois, Zora Neale Hurston, Langston Hughes, và Philip Randolph đã ủng hộ tiền thân (precursor) của đảng Likud trong nỗ lực thành lập một quân đội DoThái. Nhà lãnh đạo dân quyền Adam Clayton Powell, Jr., còn đi xa hơn, quyên góp đến 150.000 đôla cho tổ chức Xi-ôn-nit chủ chiến Irgun Zvai Leumi – mà ông gọi là “một tổ chức khủng bố bí mật tại Palestine” – trong một cuộc mit-ting tại Thành phố New York.

Sự ủng hộ của Liên Xô đối với một quốc gia Israel độc lập cũng giúp phần nào. Ở Yalta, Joseph Stalin đã nói với Franklin Roosevelt rằng bản thân ông ta cũng là một người Xi-ôn-nit. Vào tháng Năm 1947, Bộ trưởng Ngoại giao Xô-viết Andrei Gromyko tuyên bố trước Liên hiệp quốc rằng Liên xô ủng hộ việc thành lập một quốc gia Do Thái. Hậu thuẫn này, dù có ngắn ngủi chăng nữa, đã củng cố quan điểm của nhiều người Mĩ bên cánh tả, rằng việc thành lập một quê hương cho người Do Thái là một phần của cuộc đấu tranh chung cho tiến bộ trên toàn thế giới. Thật ra, trong những thập niên sau thế chiến, nhiều người Mĩ phóng khoáng (American liberals) đã coi việc hậu thuẫn Israel là một phần đóng góp của họ cho chế độ tự do, cho phong trào giải thực (vì người Do Thái ở Palestine cũng đang đòi độc lập bất chấp sự phản đối của Anh Quốc), cho cuộc đấu tranh chống kì thị chủng tộc và tôn giáo, cho chủ nghĩa thế tục, cho chủ nghĩa nhân đạo, và cho truyền thống tiến bộ trong sinh hoạt chính trị của Hoa Kì. Lúc bấy giờ trong mắt của nhiều người, nước Israel xuất hiện như một thí nghiệm thế tục đầy tính lí tưởng của chế độ dân chủ xã hội (social democracy). Cả người Do Thái Mĩ cũng như người dân ngoại Do Mĩ cùng nhau sang tận Israel để thể nghiệm cuộc sống hân hoan, tham gia lao động và sinh hoạt tập thể tại những trang trại công (kibbutz) của các khu định cư. Vì thế, vào năm 1948, khi Truman quyết định hậu thuẫn việc thành lập nước Israel, ông ta không chỉ nghĩ đến lá phiếu của người Do Thái mà thôi. Hậu thuẫn mà Hoa Kì dành cho Israel cũng được lòng người dân da đen miền Bắc, những người được thu hút đến với đảng Dân Chủ nhờ chính sách New Deal [16] và việc Truman từng bước tiến đến hậu thuẫn cho dân quyền. Sự hậu thuẫn cho nước Israel cũng giúp Truman tranh thủ được nhiều cử tri cánh tả, những người mà nếu không vì lợi ích của Israel có thể đã ủng hộ Henry Wallace và đảng Tiến bộ. Ngọn cờ hậu thuẫn Israel cũng giúp Truman giành phiếu của cử tri miền nam bảo thủ, những cử tri đi nhà thờ, đọc kinh thánh, và nhờ thế tăng cường khả năng chống lại ảnh hưởng của cánh Dân chủ miền nam (Dixiecrats) của Strom Thurmond. Quả thật, hậu thuẫn dành cho Israel là một trong những chủ điểm hiếm hoi còn lại để giữ được liên minh vốn đã bị nức rạn của đảng Dân chủ.

Tuy nhiên, kể từ cuộc chiến 1967, cơ sở của sự ủng hộ dành cho Israel tại Hoa Kì đã chuyển dịch: hậu thuẫn cho Israel có khuynh hướng giảm dần bên cánh tả và gia tăng bên cánh hữu. Bên cánh tả, sự bất mãn đều khắp đối với những chính sách của Israel trong các vùng đất bị chiếm đóng cùng với mối quan tâm ngày một giảm đối với an ninh của nước này, theo sau thắng lợi của nó trong cuộc chiến, đã khiến nhiều người Mĩ gốc châu Phi, nhiều tín đồ Tin Lành chính mạch, nhiều trí thức phóng khoáng, những người một thời từng là đồng minh vững chắc của Israel tại Mĩ, chuyển sang ngày càng có cảm tình với quan điểm của người Pa-let-tin. Ngoài ra, sự đồng cảm ngày một gia tăng của người da đen đối với các phong trào chống thực dân khắp thế giới, sự hao mòn của liên minh da đen-Do Thái trong chính trị nội bộ Mĩ, và thanh thế đang lên của các nhân vật như Malcolm X và các lãnh đạo của tổ chức Nước Hồi Giáo (Nation of Islam) cũng dần dần làm suy giảm sự hậu thuẫn của dân Mĩ gốc châu Phi dành cho Israel. Về phần mình, những giáo phái Tin Lành cởi mở bắt đầu tiếp thu quan điểm của những nhà truyền giáo có thiện cảm với chủ nghĩa dân tộc Ả-rập; đồng thời, khi các giáo phái chính mạch càng ngày càng chỉ trích những quan niệm truyền thống Mĩ về bản sắc và định mệnh quốc gia của Hoa Kì, những tín đồ cởi mở này cũng tránh xa lối tiếp cận Cựu ước truyền thống. (Mặc khác, quan hệ giữa người Công giáo Mĩ và người Do Thái bắt đầu cải thiện sau cuộc chiến 1967, chủ yếu nhờ cách tiếp cận với người Do Thái theo quan điểm thần học mới của Giáo hội Công giáo kể từ Công đồng Va-ti-ca-nô II. [17] )

Bên cánh hữu, thay đổi nổi bật nhất kể từ 1967 là sự gia tăng đột biến hậu thuẫn dành cho Israel trong giới Ki-tô giáo Tin Lành (evangelical Christians)[18] và, tổng quát hơn, trong hàng ngũ những thành phần mà tôi từng gọi là cử tri “có tính chất Andrew Jackson [19] ” (Jacksonians) ở vùng đại bình nguyên giữa bờ Đông và bờ Tây nước Mĩ. Jacksonians là những cử tri bình dân-quốc gia chủ nghĩa [20] (populist-nationalist), họ ủng hộ một quân đội hùng mạnh và thông thường không mấy tin tưởng các tổ chức quốc tế và viện trợ nhân đạo toàn cầu. Không phải tất cả mọi tín đồ Tin Lành đều là Jacksonians, và không phải tất cả Jacksonians đều là người Tin Lành, nhưng có một số người nhất định thuộc về cả hai nhóm cử tri này. Nhiều người da trắng miền nam làJacksonians; nhiều cử tri không kiên định lập trường đảng phái ở miền Bắc, còn gọi là những người Dân chủ ủng hộ Reagan (Reagan Democrats), cũng làJacksonians.

Nhiều Jacksonians đã có định kiến tiêu cực về người Ả-rập từ thời Chiến tranh lạnh. Họ nhận thấy, dân Pa-lét-tin và các quốc gia Ả-rập thường đứng về phía Liên xô và Phong trào phi-liên kết để chống lại Hoa Kì. Người Ai-Cập đáp lại hậu thuẫn của Hoa Kì trong vụ khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956 bằng cách quay sang phía Xô-viết để mua vũ khí và tìm hậu thuẫn, đồng thời chuyên viên Xô-viết và vũ khí Xô-viết đã giúp các đội quân Á-râp chuẩn bị các cuộc chiến chống Israel. Các Jacksonians có khuynh hướng nhìn các biến động quốc tế theo lăng kính độc đáo của mình. Cùng với các biến động diễn ra ở Trung Đông từ năm 1967, họ ngày càng có nhiều cảm tình với Israel ngay cả khi nhiều thành phần khác của xã hội Mĩ – và thêm nhiều người nữa ở những vùng khác trên thế giới – ngày càng mất đi cảm tình đối với Israel. Cuộc Chiến Sáu Ngày (the Six-Day War) đã nhen nhúm lại mối quan tâm của những người Xi-ôn-nit tiên tri đối với Israel và, theo cách nhìn của nhiều Jacksonians, cuộc chiến này đã tăng cường những quan hệ sâu sắc giữa Israel và Hoa Kì. Sau thời Chiến tranh lạnh, những người Jacksonian nhận thấy rằng những quốc gia thù nghịch của Mĩ ở trong vùng, như Iraq và Iran, đồng thời cũng là những kẻ thù hung hăng nhất của Israel.

Những người Jacksonian chiêm ngưỡng chiến công và chiến thắng hoàn toàn là chiến công đẹp nhất. Chiến thắng hoàn toàn, với sức mạnh áp đảo của các binh chủng Israel năm 1967 trước kẻ thù có quân số lớn hơn đến từ ba nước khác nhau là điều mà Jacksonians rất mơ ước – nhất là vào một thời điểm mà khả năng chiến đấu yếu kém của Hoa Kì tại Việt Nam đã khiến nhiềuJacksonians đâm ra bi quan về tương lai của quốc gia mình. Kể từ đó, chính một số hành động quân sự đã làm tổn thương uy tín của Israel đối với hầu hết các nước trên thế giới – chẳng hạn những phản ứng quá đáng đối với quân khủng bố Pa-let-tin – lại gia tăng hậu thuẫn cho quốc gia này từ phíaJacksonians.

Đôi khi chỉ vài đạn pháo từ dải Gaza bắn vào lãnh thổ Israel, quân đội Israel lại phản ứng bằng một hoả lực mạnh hơn, gây nhiều đổ nác và nhiều thương vong hơn. Trong con mắt của phần lớn thế giới, đây là sự trả đũa quá đáng, một vi phạm tương đương hay thậm chí nghiêm trọng hơn cuộc tấn công của kẻ gân hấn. Thế nhưng, Jacksonians coi mỗi loạt pháo kích của người Pa-lét-tin nhắm vào các mục tiêu ở Israel là một hành động khủng bố và họ cho rằng người Israel có toàn quyền, thậm chí có nghĩa vụ, trả đũa bằng tất cả sức mạnh có thể huy động được. Kể từ thập niên 1950, cứ mỗi lần quân đặc công Palestine lẻn qua đường ngưng bắn để tấn công các khu định cư của Israel, nhiều người Pa-lét-tin và người Ả-rập lại biện minh rằng những cuộc đột nhập này là hành động rất can đảm mặc dù phải đối đầu với một hoả lực dữ dội, trấn áp. Nhưng những vụ đột kích nhắm vào các mục tiêu dân sự, và nhất là các vụ tấn công dùng bom tự sát, lại vi phạm các nguyên tắc Jacksonian cơ bản về phương thức tiến hành một cuộc chiến văn minh. Những ngườiJacksonian cho rằng chỉ có một sự trả đủa trấn ác và triệt để chống lại các chiến thuật như thế mới chận đứng việc đặc công đánh phá thêm nữa. Đây là cách người Mĩ sống ở vùng biên đã đối phó với người da đỏ, là cách mà tướng Liên bang [miền Bắc] William Sherman “đã dạy một bài học” cho quân dân miền Nam trong Nội chiến Mĩ, và cũng là cách tướng Douglas MacArthur và Truman đã trả lại cho người Nhật món nợ Pearl Harbor. Những ngườiJacksonian thực tình không hiểu được vì sao thế giới lại chỉ trích Israel vì đã hành sử điều mà họ cho là quyền tự vệ không khoan nhượng – vì đã làm đúng những điều mà chính họ cũng phải làm nếu ở vào vị trí của Israel.

Theo quan điểm của người Pa-lét-tin và những người hậu thuẫn họ, người Pa-lét-tin – bị lưu vong, bị cho ra rìa, bị chiếm đóng, bị chia rẽ – là những người yếu thế nhưng anh hùng, dám đương đầu với một siêu cường trong vùng, mà siêu cường này lại được hậu thuẫn của một nước mạnh nhất thế giới. Nhưng theo quan điểm Jacksonian, Israel, dù với tất cả sức mạnh và chiến công của mình, vẫn chỉ là cậu bé David đang lâm nguy, “tứ bề thọ địch”. Sự thể người Ả-rập và toàn thể cộng đồng gồm một tỉ tín đồ Hồi giáo hậu thuẫn chính nghĩa của người Pa-lét-tin, chí ít bằng khẩu hiệu, đã khiến những người Jacksoniancàng tin thêm rằng Israel là một nước nhỏ bé và đang lâm nguy, đáng được giúp đỡ. Bẽ bàng là, một số thành công quân sự chính trị to lớn nhất của phong trào Pa-let-tin – như triển khai một cuộc kháng chiến võ trang năng động, giành được hậu thuẫn (phần lớn chỉ là khẩu khí) từ các tổ chức như Liên minh Ả-rập và ngay cả Đại hội đồng Liên hiệp quốc, chuyển dịch cơ sở chính trị của cuộc kháng chiến Pa-let-tin từ chủ nghĩa dân tộc thế tục (secular nationalism) sang lãnh vực tôn giáo, và giành được hậu thuẫn của các nước mạnh trong vùng như Iraq dưới thời Saddam và Iran ngày nay – rốt cuộc mang lại hậu quả là những thành công này chỉ tăng cường cũng cố thêm sự hậu thuẫn của người dân ngoại Do Mĩ cho quốc gia Do Thái.

Tình huynh đệ Ki-tô giáo

Một yếu tố quan trọng khác dẫn đến việc người Mĩ gia tăng hậu thuẫn cho Israel là, kể từ 1967 một loạt phong trào gây lại niềm tin tôn giáo diễn ra đều khắp nước Mĩ, mang lại những hậu quả quan trọng trong thái độ của dân chúng đối với vùng Trung Đông. Một hậu quả là, trong khi các giáo phái Tin Lành chính mạch cởi mở chỉ trích Israel nhiều hơn, họ đánh mất luôn ảnh hưởng chính trị và xã hội của chính mình. Một hậu quả khác là, vai trò của chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionism) tăng lên đáng kể, với sự kiện tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống [21] Mĩ hiện nay quan tâm hơn bao giờ cả về những lời tiên tri trong kinh thánh và về vai trò của Israel trên quá trình dẫn đến sự khải huyền [tận thế].

Nhiều tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống đã không mấy quan tâm đến Israel sau cuộc chiến giành độc lập của nước này. Theo chỗ họ hiểu, những lời tiên tri trong kinh thánh rõ ràng dự kiến người Do Thái sẽ xây lại Ngôi đền trên vị trí cũ của nó; vì thế họ suy diễn, khi những vị trí thiêng liêng của Jerusalem vẫn còn nằm trong tay người Ả-rập, thì tiến trình dẫn đến ngày tận thế có vẻ đã chậm lại. Trong khi đó, nước Israel thế tục và gần như xã hội chủ nghĩa trong thập niên 1950 ít lôi cuốn người Ki-tô giáo bảo thủ hơn lôi cuốn người Ki-tô giáo cởi mở. Vì phải để mắt vào mối đe dọa cộng sản trong những năm cao điểm của Chiến tranh lạnh, tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống ít tích cực tham gia vào chính sách Mĩ ở Trung Đông như họ đã từng tham gia vào thế kỉ 19.

Cuộc chiến Sáu ngày đã thay đổi thái độ đó; nó là lực xúc tác cho phong trào phục hoạt phúc âm và tiếp sức cho chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri. Tính chớp nhoáng và tính quyết định của thắng lợi mà Israel đạt được là một phép lạ trong mắt của nhiều người Mĩ; Israel chiếm được Thành cổ (the Old City), điều này có nghĩa là vị trí của Ngôi đền đã về tay người Do Thái. Cảm thức ngày tận thế đang tới gần là một lực tác động mạnh mẽ cho làn sóng phục hoạt tôn giáo tại Mĩ, một phong trào được khởi động trong giai đoạn này. Kể từ đó đến nay, một loạt sách truyện thuộc loại bán chạy nhất, hư cấu cũng như phi-hư cấu, đã nhắm vào sở thích của hàng triệu người Mĩ trong khả năng là ngày tận thế đang triển khai tại Trung Đông, như đã được các ngôn sứ tiên tri trong Cựu ước và Tân ước.

Từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, thêm một lực tác động nữa đã tăng cường những quan hệ giữa quốc gia Israel và nhiều người Ki tô giáo bảo thủ của Mĩ. Khi cuộc phục hưng tôn giáo mang lại sức mạnh và sinh lực mới cho các giáo hội Tin Lành và chính thống, họ lại càng quan tâm nhiều hơn đến thế giới bên ngoài. Trong quá khứ những cuộc phục hưng tôn giáo như thế đã dẫn đến các cao trào truyền giáo đầy nhiệt tình và rất năng động; cuộc phục hưng tôn giáo hiện nay không khác bao nhiêu. Và khi người Ki-tô giáo Mĩ đã quan tâm nhiều hơn đến an sinh của Ki-tô hữu khắp thế giới, họ đã gặp phải địch thủ quan trọng nhất của Ki-tô giáo toàn cầu, đó là Hồi giáo, và họ bắt đầu nhận chân rằng tình cảnh của người Ki-tô giáo tại một số nước có đa số theo Hồi giáo không được khả quan cho lắm.

Mối quan tâm về người Ki-tô giáo bị bách hại khắp thế giới là nét đặc trưng trường kì của Ki-tô giáo, và điều này không phải chỉ riêng ở Mĩ mới có. Trong quá khứ, chính những nhà lãnh đạo các giáo hội từng tham gia các nỗ lực bảo vệ người Do Thái ở châu Âu và Đế quốc Ottoman thường cũng là những người tham gia các chiến dịch bảo vệ các tín đồ Ki-tô giáo tại Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật bản, và Đế quốc Ottaman cùng các nơi khác trên thế giới. Phong trào cộng sản, được coi như kẻ thù hung bạo nhất của tôn giáo trong thế kỉ 20, nhiên hậu đã thúc đẩy tín đồ Ki-tô giáo Mĩ xây dựng những tổ chức nhằm hậu thuẫn các tín hữu ở sau Bức màn sắt. Từ năm 1989, sự bách hại tín đồ Ki-tô giáo do bàn tay cộng sản đã giảm nhiều (mặc dù chưa biến mất), và nhờ vậy càng ngày trọng tâm của mối quan ngại càng chuyển qua Trung Đông, nơi nhiều tín đồ Ki-tố giáo và tín đồ của các đức tin khác hay người không theo tôn giáo nào hiện bị phân biệt đối xử về mặt xã hội và pháp lí – và cũng là nơi, lắm khi tín đồ Ki-tô giáo bị đánh đập và sát hại vì đức tin của mình. Luật pháp của nhiều nước Hồi giáo còn cấm truyền đạo và cải đạo – những vấn đề chiếm được quan tâm sâu sắc nhất của người Ki-tô rao giảng Phúc âm (evangelical Christians), những người tin rằng kẻ nào đến phút lâm chung mà chưa tiếp nhận Đức Ki-tô vào lòng thì sẽ chịu cực hình trong hoả ngục và rằng sự nghiệp truyền bá đức tin Ki-tô giáo là một trong những nghĩa vụ đạo lí trung tâm. Những cơ quan truyền thông chính mạch của Mĩ thường không coi nạn bách hại các tín đồ Ki-tô giáo ở nước ngoài là trọng tâm chính cho việc đưa tin của họ, nhưng sự thờ ơ này không ngăn cản được vấn đề tôn giáo ảnh hưởng lên quan điểm của nhiều người Mĩ đối với Hồi giáo và, nói rộng ra, đối với cuộc xung đột giữa Israel với một số nước láng giềng.

Dư luận tại Hoa Kì về vấn đề Trung Đông không phải là một khối thuần nhất, cũng không phải bất di bất dịch qua thời gian. Từ 1967 đến nay, nó đã kinh qua nhiều chuyển dịch, một số tổ chức hoặc nhóm cử tri trở nên thiện cảm hơn với Israel và một số khác thì ngược lại. Càng ngày người Mĩ gốc châu Phi càng ít ủng hộ đảng Likud hiện nay hơn họ đã từng hậu thuẫn quân đội Do Thái trong Thế chiến II. Thêm nhiều thay đổi có thể xảy ra. Một giới lãnh đạo Pa-let-tin và Ả-rập nhạy cảm hơn đối với những giá trị và những ưu tiên chính trị của nền văn hóa chính trị Mĩ có thể đã phát triển được những chiến thuật mới mẻ và hiệu quả hơn nhằm làm suy yếu, thay vì tăng cường, hậu thuẫn của Mĩ dành cho quốc gia Do Thái. Chẳng hạn, nếu chịu chấm dứt những cuộc tấn công khủng bố để tiến hành một cuộc đấu tranh dân sự bất bạo động có kĩ luật và có tổ chức, họ có thể đã thay đổi được cách nhìn của những ngườiJacksonian về cuộc tranh đấu của người Pa-let-tin. Một khả năng hoàn toàn có thể xảy ra là, dần dà qua thời gian những tín đồ Tin Lành-chính thống Mĩ sẽ theo bước chân của Jimmy Carter, khi ông ta đi từ một chủ nghĩa Xi-ôn-nít trẻ trung đến một lập trường mà ông cho là quân bình hơn như hiện nay. Nhưng nếu Israel phải đối đầu với bất cứ một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nào, dư luận Mĩ sẽ chuyển hướng ngược lại, và đây có vẻ là một khả năng còn lớn hơn. Nhiều thành phần trong số những người Mĩ ngày nay kêu gọi một chính sách quân bình hơn đối với người Pa-lét-tin, sở dĩ làm như vậy, là vì họ tin rằng trên cơ bản Israel đã được an ninh. Nếu một lúc nào đó thẩm định này thay đổi, những cuộc thăm dò dư luận quần chúng rất có thể sẽ chứng tỏ mức độ hậu thuẫn của Mĩ dành cho Israel còn cao hơn hiện nay.

Chí ít có một điều gần như hiển nhiên. Trong tương lai cũng như trong quá khứ, dù có tốt hơn hoặc xấu hơn, chính sách ngoại giao của Hoa Kì đối với Trung Đông vẫn tiếp tục được hình thành bởi ý chí của đại đa số dân Mĩ, chứ không bởi những thủ thuật hay mưu mô của bất cứ nhóm thiểu số nào, dù một số thành viên của nhóm này có giàu có hay tích cực tham gia vào tiến trình chính trị đến thế mấy đi nữa.

Walter Russell Mead là chuyên viên cấp cao trong chương trình Henry A. Kissinger về Chính sách đối ngoại Hoa Kì ở Hội đồng nghiên cứu Quan hệ đối ngoại và, gần đây nhất, là tác giả của cuốn God and Gold: Britain, America, and the Making of the Modern World (Chúa và Vàng: Anh, Mĩ và Sự hình thành của Thế giới Ngày nay).

Bản tiếng Việt @ 2008 talawas

———————

[1]Lời dịch trích từ website: http://www.tinlanh.de/cuuuoc.html. (Trừ chú thích số 3, các chú thích là của người dịch)

[2]Theo Cựu ước, David là vị vua thứ hai của Vương quốc thống nhất Israel. Kinh thánh mô tả ông là một người công chính, một thi sĩ, nhạc sĩ, một danh tướng. Theo biên niên dựa vào kinh thánh, David ra đời khoảng 1037 và mất khoảng 967 trước Công nguyên. Tiểu sử của David có ý nghĩa sâu sắc trong văn hóa Do Thái và Ki-tô giáo.

[3]‘ngoại Do’: lựa chọn dịch thuật cho tính từ gentile, có ý nghĩa là ‘không phải là người Do Thái’ (về huyết thống và tôn giáo). Để tránh trùng lặp đơn điệu, ở những chỗ khác nhau trong bản dịch này tính từ gentile còn được dịch là ‘phi-Do-Thái’ hoặc ‘ngoại Xi-ô-nít’. (Chú thích của người biên tập)

[4]Chủ nghĩa Xi-ôn-nit (Zionism) là một phong trào chính trị quốc tế, một chủ trương thoạt đầu ủng hộ việc tái lập một quê hương cho người Do Thái tại Palestine và ngày nay vẫn còn tiếp tục hậu thuẫn quốc gia Israel hiện đại.

[5]Protestants còn được dịch là tín đồ “Thệ phản giáo” hoặc “Kháng Cách giáo” để nhấn mạnh chủ trương li khai với Giáo hội Công giáo La Mã, một sự kiện lịch sử diễn ra vào thế kỉ 16. Người dịch chọn từ Tin Lành vì tính phổ biến của từ này trong tiếng Việt, nhất là trong hầu hết các tự điển Anh-Việt thông dụng, và nhất là vì nó không làm thương tổn nội dung nguyên bản. Có lẽ vì tinh thần “đại kết” (ecumenism), một nỗ lực đoàn kết giữa các truyền thống Ki-tô giáo khác nhau, chúng ta không thấy các giáo hội Công giáo hay Tin Lành Việt Nam dùng các từ “Thệ phản giáo” hay “Kháng Cách giáo” trong văn chương của họ.

[6]Những tín đồ Ki-tô giáo theo truyền thống này tin tưởng Thiên Chúa là một ngôi duy nhất, tương phản với quan niệm Chúa Ba ngôi (Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần). Đối với họ, đức Ki-tô là một gương sáng, một vĩ nhân, một ngôn sứ của Thiên Chúa, thậm chí là một đấng siêu nhiên, nhưng bản thân ngài không phải là Thiên Chúa.

[7]Người Hêbrơ (dân Do Thái cổ đại) là sắc dân mà Kinh thánh Cựu ước mô tả là hậu duệ của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Xem thêm chú thích 2.

[8]Người rao giảng Tin Lành (evangelist, evangelical) tin rằng họ có sứ mệnh truyền bá những điều đức Ki-tô đã dạy và được ghi lại trong các sách Phúc âm (tin mừng) của Tân ước (theo Mat-thêu, Mac-cô, Lu-ca và Gio-an).

[9]Lý thuyết tôn giáo của John Calvin, một nhà thần học Pháp thế kỉ 16, nhấn mạnh sự toàn năng của Thiên Chúa và sự cứu rỗi có tính cách tiền định mà Thiên Chúa chỉ dành cho một số người được ngài tuyển chọn (xuyên qua hồng ân của ngài mà thôi). Thuyết này phù hợp với quan niệm “tuyển dân” (chosen people) của một số nhà tư tưởng tôn giáo Mĩ.

[10]Giao ước (convenant) là một tín lí theo đó một cộng đồng tôn giáo tin rằng Thiên Chúa đã liên minh hay hiệp thông với họ. Một ví dụ về quan hệ giao ước trong Do Thái giáo và Ki-tô giáo là quan hệ giữa Áp-ra-ham và Thiên Chúa, theo đó Thiên Chúa giao ước với Áp-ra-ham là ngài sẽ ban phép lành cho con cháu của ông sinh sôi nhiều hơn cả sao trên trời. Theo đức tin Ki-tô giáo, Thiên Chúa làm thêm một giao ước nữa, còn gọi là “giao ước mới”, theo đó đức Giê-su Ki-tô chịu chết trên Thánh giá để chuộc tội cho tất cả loài người.

[11]David và Goliath là hai nhân vật trong một truyện tích nổi tiếng của Cựu ước, trong đó David là một cậu bé chăn cừu và là vua tương lai của Israel (xem chú thich 3). David chỉ dùng chiếc ná bắn một hòn đá và giết chết Goliath. Goliath là chiến sĩ khổng lồ của quân Philistines, được cử ra để thách thức vua quan Israel. Đây là một truyện minh họa sức mạnh của đức tin: David bước ra chấp nhận thách thức, không một manh giáp trên người, nhưng đã làm cho kẻ địch được trang bị đầy đủ binh giáp phải hoảng sợ rút quân.

[12]Phái nông gia theo mô hình kinh tế Jefferson [tổng thống thứ ba của Mĩ] chủ trương rằng kinh tế Hoa Kì phải chủ yếu dựa trên nông nghiệp để sản xuất những hàng hoá chiến lược, hơn là dựa vào công nghiệp. Jefferson khẳng định tin tưởng rằng: “Những người đổ mồ hôi canh tác đất đai… là tuyển dân (chosen people) của Thiên Chúa, nếu có bao giờ ngài có một tuyển dân.”

[13]Theo Cựu ước, Joshua là nhà lãnh đạo Israel tiếp theo sau Mô-se.

[14]Theo Cựu ước, vua Solomon đã xây một ngôi đền để thờ phượng Thiên Chúa tại Jerusalem. Người Do Thái cho rằng ngôi đền mái vòm của Hồi giáo (the Dome of Rock, xây vào thế kỉ 7) hiện đang tọa lạc ngay trên địa điểm của Đền Solomon, còn gọi là Ngôi đền đầu tiên mà họ tin rằng quân Ba-by-lon san bằng vào năm 585 trước Công nguyên.

[15]Theo luật phân chủng Jim Crow, người da trắng và da đen phải sử dụng những phương tiện công cọng riêng rẽ, như xe buýt, công viên, trường học… Jim Crow là tên gọi của của một hệ thống phân chia giai cấp, theo đó người da đen bị dìm xuống thành một loại công dân thứ cấp (secon-class citizens) trong khi người da trắng được đề cao là một chủng tộc ưu việt, thậm chí là một dân tộc được Chúa chọn, theo quan điểm của nhiều người miền Nam trước và sau Nội chiến Mĩ.

[16]Những chương trình và chính sách nhằm thúc đẩy việc phục hồi kinh tế và cải tổ xã hội do tổng thống Franklin Roosevelt đề xuất vào thập niên 1930 với mục đích khắc phục hậu quả của cuộc Khủng hoảng kinh tế. Có nghĩa đen là “chia lại ván bài”, tạo cơ hội mới, New Deal mở ra một bước ngoặt quan trọng, thu hút ngày càng nhiều hậu thuẫn của người da đen. Trước giai đoạn này, đại đa số dân da đen hậu thuẫn đảng Cộng hòa, đảng của tổng thống Abraham Lincoln, người có công giải phóng nô lệ.

[17]Một trong những tuyên bố của Công đồng Vaticanô II, nhan đề Nostra Aetate hay “Trong thời đại của chúng ta”, xúy xoá trách nhiệm của dân Do Thái về cái chết của đức Ki-tô đồng thời lên án việc bách hại và kì thị người Do Thái “vào bất cứ thời nào do bất cứ ai”

[18]Evangelical có nghĩa là “phúc âm, tin mừng, tin lành” (good news). Những người theo đạo Tin Lành (evangelicals) tin vào thẩm quyền tuyệt đối của các sách Phúc âm Tân ước ( theo Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca và Gio-an). Người Tin Lành không những triệt để thay đổi chính bản thân (born again) dựa trên những nguyên tắc của sách Phúc âm, mà còn coi mình có sứ mệnh đi truyền đạo, thuyết phục người của các đức tin khác chấp nhận đức Ki-tô là con đường duy nhất đi đến “sự sống đời đời”.

[19]Andrew Jackson, tổng thống thứ 7 của Hoa Kì (1829-37). Trước khi trở thành tổng thống, Jackson là một nhà quân sự lập được nhiều chiến công lẫy lừng trong các trận đánh chống lại người Anh và các bộ lạc da đỏ liên minh với đế quốc Anh trong Chiến tranh 1812. Ông được coi là một vị anh hùng có công chống ngoại xâm và nới rộng biên cương của Mĩ. Jackson rất được lòng binh sĩ và giới bình dân. Trên cương vị tổng thống, Jackson nới rộng quyền lực của chính phủ liên bang.

[20]Trong bối cảnh của một nước đa chủng như nước Mĩ, từ nationalism nên được dịch là “chủ nghĩa quốc gia”, đối trọng với chủ nghiã quốc tế hay những xâm lấn từ nước ngoài vào. Sự nghiệp nhà binh của Andrew Jackson gắn liền với việc chống sự can thiệp và xâm lấn của đế quốc Anh. Vì thế từ Jacksonianmà tác giả dùng trong bài viết còn có nghĩa là “chống lại sự can thiệp của nước ngoài” kể cả các tổ chức quốc tế như LHQ.

[21]Triệt để tin vào lối giải thích theo nghĩa đen của Kinh thánh (fundamentalist). Các tín đồ Tin Lành-chính thống sống trong một văn hóa bảo thủ, lấy Kinh thánh làm khuôn thước đạo lí, sống đông đảo ở các tiểu bang miền Nam [của Nội chiến Mĩ], những tiểu bang thường được mệnh danh là “Vòng đai thánh kinh” (the Bible Belt).

– See more at: http://nghiencuuquocte.net/2015/08/30/nhung-li-do-dan-phi-do-thai-mi-ung-ho-quoc-gia-do-thai/#sthash.ycB5RnvU.dpuf

Do Thái giáo

Giải mã sự thành công của Israel và người Do Thái

Print Friendly

329295_US Jews

Tác giả: Hoàng Anh Tuấn

Bài liên quan: Tìm hiểu Israel và dân tộc Do Thái

Thành công của người Do Thái nhiều người đã biết, đã nghe từ lâu và có thể kể cả ngày, cả tháng cũng không hết. Là người đã tìm hiểu câu chuyện này cả chục năm nay, càng đi sâu tìm hiểu về những thành công của Israel và người Do Thái, tôi càng thấy phức tạp nhưng cũng hết sức thú vị. Chuyến đi Israel lần này, ngoài các công việc thường lệ, rất nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi, thảo luận với nhiều người, nhiều giới, nhiều nơi khác nhau giúp tôi kiểm chứng, củng cố thêm các nhận định trước đây của mình; biết thêm nhiều vấn đề mới; đồng thời cũng xóa bỏ một số các định kiến một chiều, phiến diện.

Có rất nhiều câu hỏi đeo đẳng trong suốt quá trình tìm hiểu để có câu trả lời thấu đáo, đại loại như:

1. Tại sao chỉ chiếm một phần nhỏ của dân số thế giới, nhưng người Do Thái lại có sự thông tuệ vượt thời gian, hơn hẳn các dân tộc khác trên thế giới? Nếu tính theo chỉ số IQ, chỉ số trung bình của người Do Thái là 110 so với chỉ số trung bình 100 của thế giới. Tuy mức chênh lệch IQ chỉ là 10, nhưng tỷ lệ thiên tài trong nhóm những người có IQ 110 cao hơn nhóm có chỉ số IQ 100 tới 120-150 lần!

2. Phải chăng người Do Thái có “gien” thông minh hơn người và “gien” này được lưu giữ và truyền từ đời này qua đời khác?

Câu chuyện này đã được nhiều nhà khoa học âm thầm nghiên cứu để tìm câu trả lời thấu đáo. Tuy nhiên, người Do Thái lại “bác bỏ” điều nay, cho rằng sở dĩ người Do Thái thành công là do điều kiện, hoàn cảnh bắt buộc họ phải nỗ lực, sáng tạo và vươn lên không ngừng để thích nghi với hoàn cảnh. Vậy thực, hư câu chuyện này ra sao?

3. Nếu như có “gien” Do Thái như vậy thì “gien” này được “lưu giữ” và phát triển ra sao từ thời “Cụ Tổ” của người Do Thái đến nay và trong hoàn cảnh họ bị ly tán, tha phương cầu thực?

Người Do Thái hiện nay đều coi Thủy tổ của mình là ông Abraham (và cũng là của người Hồi giáo – Người Hồi giáo gọi là Ibrahim) ra đời cách đây khoảng 4000 năm, và Nhà Tiên tri Moses, ra đời cách đây khoảng 3600 năm. Ông Mosses đã dẫn dắt các nô lệ người Do Thái chạy trốn khỏi Ai Cập và đến khu vực Bắc Israel hiện nay, thống nhất 12 bộ lạc khác để lập ra nhà nước Do Thái. Hiện nay Israel là quốc gia Do Thái duy nhất trên thế giới, người dân đa phần là người Do Thái và quốc đạo là Đạo Do Thái. Để dễ hình dung, nếu có một nước khác có đặc trưng tương tự như Israel, chẳng hạn Trung Quốc, thì đặc trưng nước đó sẽ là: Người Trung Quốc, nước Trung Quốc, Đạo Trung Quốc. Nhưng trên thực tế ta thấy: người Hán, nước Trung Quốc và Đạo Khổng.

4. Tại khu vực hiện gồm phía Bắc Ai Cập, lãnh thổ Israel, Palestine, Gioóc-đa-ni hiện nay, khu vực phía Nam Syria, và phía Đông Bắc Iraq vốn trước đây là khu vực tranh chấp quyết liệt giữa bộ lạc Do Thái với các bộ lạc khác trong khu vực, cũng như giữa các đế chế lân bang với nhau như Roma, Assyria, Babilon, Ottoman… nhằm kiểm soát khu vực đồng bằng ven biển Israel và khu đồi cao Jerusalem để cho được gần với Đức Chúa trời. Sau sự kiện Ngôi đền thứ nhất của người Do Thái bị đốt năm 586 trước Công Nguyên thì mục tiêu xâm lược là để chiếm miền đất thánh Jerusalem, nơi cả 3 tôn giáo (Do Thái, Thiên chúa, Hồi giáo) đều coi là đất thiêng của mình.

Vậy tại sao trong khi hầu hết các bộ tộc du mục khác bị đồng hóa, hoặc bị tuyệt diệt, nhưng người Do Thái lại “thoát” được nạn này (tuy rằng người Do Thái cũng trải qua nạn diệt chủng Holocaust và một số cuộc truy sát tập thể trong quá khứ)? Vậy họ đã “thoát” bằng cách nào?

5. Tại sao người Do Thái lại có truyền thống hiếu học và tỷ lệ biết chữ rất cao so với những dân du mục cùng thời? Tại sao người Do Thái lại đi tiên phong trong rất nhiều lĩnh vực như khoa học tự nhiên, luật, khoa học chính trị, công nghiệp giải trí…?

Từ hàng ngàn năm trước công nguyên trẻ em Do Thái hầu hết biết đọc biết viết, và khi lưu lạc ở châu Âu, người Do Thái cũng có tỷ lệ biết đọc, biết viết cao hơn người bản địa. Cần nhớ, trước thời kỳ Phục Hưng cả châu Âu chìm đắm trong u muội, tỷ lệ mù chữ lên tới 80-90% dân số. Đến những năm 1930 của thế kỷ trước, người Do Thái gần như độc quyền trong lĩnh vực nghiên cứu năng lượng nguyên tử, thậm chí thời kỳ đó người ta còn gọi ngành khoa học này là “ngành khoa học Do Thái”.

Nhìn rộng hơn, không chỉ người Do Thái quan tâm đến chuyện học hành của con cái, mà người Đông Á, kể cả Việt Nam, cũng vậy và có thể kể ra không ít các tấm gương thành công đáng ngưỡng mộ. Nhiều gia đình sẵn sàng bán nhà, bán cửa để đầu tư chuyện học hành của con cái. Tuy nhiên đạt đến đỉnh cao trí tuệ như Albert Einstein, Karl Marx, Noam Chomski và rất nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel gốc Do Thái lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Tại sao người Do Thái làm được chuyện đó?

6. Trên thế giới đã từng có dân tộc nào bị trục xuất, sống lưu vong trên hai ngàn năm mà vẫn giữ được bản sắc, tiếng nói, chữ viết và tập tục của mình như người Do Thái không?

7. Các giáo sĩ (Rabbi), Hội đồng giáo sĩ và những người Do Thái chính thống là những người có địa vị và tiếng nói quan trọng trong xã hội. Vậy họ có vai trò ra sao trong việc duy trì tập tục, bản sắc và “nòi giống” Do Thái?

8. Tại sao mô hình Kibbudz của người Do Thái lại thành công và có sức sống kỳ diệu ở Israel, trong khi mô hình này lại không thành công hoặc không thể thành công ở các quốc gia khác. Cốt lõi tạo nên thành công của các Kibbudz là gì?

9. Khi người Do Thái được thực hiện giấc mơ “Phục quốc” năm 1948, hàng trăm ngàn người Do Thái từ trên 70 quốc gia khác nhau trên khắp thế giới đổ về mảnh đất Israel, họ đã sát cánh cùng nhau bắt tay xây dựng và bảo vệ đất nước. Tiếp đó, sau các biến động ở Liên Xô và châu Âu trong những năm 1989-1990, 1,5 triệu người Do Thái (tức trên 1/4 dân số) trở về “cố quốc”. Mỹ, Australia, Canada cũng là quốc gia của những người nhập cư, nhưng chưa từng chứng kiến lượng lớn người nhập cư đổ về (tính theo tỷ lệ dân số) trong một thời gian ngắn đến vậy. Tuy đến từ nhiều xứ sở khác nhau, nhưng hầu hết những người Do Thái không bị gặp các rào cản ngôn ngữ và nhanh chóng hội nhập vào xã hội mới. Chuyện này thực hư thế nào và được thực hiện ra sao?

Còn rất nhiều các câu hỏi khác nữa. Vấn đề đặt ra là mô hình Israel và bài học thành công của người Do Thái (tạm bỏ qua một bên các khiếm khuyết và một số “thói hư, tật xấu” của người Do Thái) có thể học được không và áp dụng ở quy mô nào (gia đình, dòng họ, công ty, thiết chế, đất nước…)?

Israel: Cường quốc nông nghiệp giữa sa mạc

Do điều kiện tự nhiên, sa mạc chiếm đến 60% tổng số 20.000 km2 diện tích, nên đất đai canh tác còn lại của Israel rất ít và chủ yếu nằm ở khu vực đồng bằng ven biển. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản Israel trở thành nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới, chủ yếu nhờ đi tiên phong trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.

Đi thăm các cơ sở nông nghiệp Israel mới thấy trình độ công nghiệp hóa nông nghiệp và khả năng lập kế hoạch sản xuất, dự báo thị trường của Israel đạt đến trình độ rất cao. Có lẽ dùng từ “nông dân” đối với họ là không chính xác, mà là công nhân nông nghiệp. Ngoài ra, đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa 4 “Nhà”, gồm: (i) Nhà nước; (ii) Nhà khoa học; (iii) Nhà buôn; và (iv) Nhà nông. “Nhà nông” ở đây cần được hiểu là người bỏ vốn đầu tư, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất nông nghiệp.

Đất đai ở Israel được nhà nước quản lý rất chặt chẽ. Nhà ở của dân thì xây trên các triền núi đá, khó cải tạo thành đất nông nghiệp, còn đất đồng bằng tuyệt đối sử dụng cho trồng trọt và canh tác. Thậm chí đất hoang mạc, nhưng tương đối bằng phẳng có thể cải tạo thành đất nông nghiệp thì cũng không được làm nhà ở trên đó.

Israel đi tiên phong trên thế giới trong lĩnh vực cải tạo đất hoang mạc, sa mạc thành đất nông nghiệp trù phú. Quy trình như sau (để đơn giản hóa): (i) San bằng đất hoang mạc, sỏi đá; (ii) Phủ lên đó 1 lớp đất dày, ít nhất là 1/2 m; (iii) Trồng các loại cỏ hoặc cây dại không cần tưới nước khoảng từ 3-5 năm, để biến đất chết thành đất màu; (iv) Sau quá trình cải tạo này, đất hoang mạc biến thành đất nông nghiệp và được giao cho các chủ đất (nhà đầu tư) để tiến hành sản xuất.

Về mặt sinh thái, bước vào thế kỷ 21, Israel là nước duy nhất trên thế giới đã mở rộng được diện tích rừng và quỹ đất nông nghiệp.

Tuy là nước nhỏ, có 8 triệu dân, nhưng Israel lại có hệ thống đường dẫn nước tái sử dụng dài nhất thế giới. Toàn bộ lượng nước thải được dẫn trở lại các trung tâm xử lý, lọc lại, sau đó được dẫn ngược trở lại theo các đường ống để sử dụng tưới tiêu cho nông nghiệp.

Hệ thống ống dẫn nước tưới được dẫn đến từng khoảnh vườn, tới từng cây và việc tưới được vi tính hóa qua hệ thống điều khiển ở trung tâm về thời gian tưới, lượng nước tưới sao cho phù hợp nhất với thời tiết, độ sinh trưởng của từng loại cây. Cũng từ trung tâm, các kỹ sư nông nghiệp sử dụng luôn đường ống dẫn nước để dẫn phân bón hoặc chất dinh dưỡng cần cho cây theo định kỳ.

Tại đầu từng khoảnh vườn, có bảng ghi chi tiết vườn trồng cây gì, giống nào, từ khi nào… Nhìn chung các cây trồng (cam, bưỏi, cà chua, ớt.. ) là những loại cây trồng có năng suất cao, đã được lai ghép cho phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng Israel là chịu nắng, chịu khô, chịu sâu bệnh nhưng lại cho năng suất cao và chất lượng quả, trái cây tốt.

Mỗi cây cam hoặc bưởi trông thấp như vậy nhưng lại rất sai quả và có thể cho đến vài tạ quả/cây khi đến mùa thu hoạch. Với lợi thế là trồng cây quả nhiệt đới có chất lượng cao, ổn định, hệ thống kiểm định chất lượng chặt chẽ, ở ngay sát châu Âu và cung cấp những hoa quả nhiệt đới “trái vụ” khi châu Âu bước vào mùa đông nên hoa quả Israel có rất nhiều lợi thế về giá và thị trường.

Đây có lẽ chính là mô hình đầu tư, sản xuất, phát triển và kinh doanh nông nghiệp mà một nước nông nghiệp như chúng ta cần học hỏi và để làm giàu tại ngay chính mảnh đất quê hương mình. Nếu so với Israel, có lẽ đất đai miền Trung Việt Nam còn màu mỡ và có các điều kiện tự nhiên để sản xuất tốt hơn nhiều. Ngay một nước có nền nông nghiệp phát triển nhất ở khu vực như Thái Lan cũng có hàng ngàn thực tập sinh lao động trong các trang trại, mà thực chất là lao động xuất khẩu.

Có điều ít người để ý là trong khi thực tập sinh Việt Nam chăm chỉ làm lụng, tiết kiệm từng đồng gửi về cho gia đình, vợ con, thì khá nhiều “lao động” Thái là các “tình báo” nông nghiệp. Họ là các kỹ sư, con cái các chủ nông trại Thái, những người nuôi chí làm giàu bằng nghề nông và sử dụng thời gian lao động tại Israel như một hình thức “khổ nhục kế”, âm thầm tìm hiểu quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý… để tìm đường khởi nghiệp làm giàu cho mình và cho nước Thái sau này.

Vậy ta nên và sẽ làm gì? Xin nhường câu trả lời cho các bạn trẻ.

Kinh Do Thái, lối sống, bản sắc, và tiếng Hebrew

Có ba câu chuyện ngồi ngẫm lại thấy khá hay và cũng phần nào liên quan đến chủ đề sắp bàn dưới đây.

CÂU CHUYỆN 1: Công việc đã xong, nhưng rủi một cái là không thể bay về được vì là ngày Thứ 7 nên hãng hàng không Israel El Al không làm việc. Nhưng lại có cái may là nhờ đó hiểu được thêm về kỳ nghỉ cuối tuần Thứ 6 và Thứ 7 (lễ Sabbath, người Do Thái đi làm từ Chủ nhật đến hết Thứ 5) của người Do Thái. Khi đi trên đường, đặc biệt ngày Thứ 7, thấy đường phố vắng ngắt và gặp không ít đàn ông Do Thái chính thống (Jewish Orthodox) mặc bộ đồ đen, đầu cũng đội mũ đen rộng vành, đứng trên vỉa hè, hai tay cầm quyển Kinh thánh Do Thái đọc lẩm nhẩm hàng tiếng đồng hồ với động tác hết sức thành kính và giữa trời nắng chang chang, trong khi đầu gật tới gật lui. Điều này không chỉ gây cho tôi sự ngạc nhiên thích thú, mà còn gợi ra rất nhiều điều.

CÂU CHUYỆN 2: Trước đó, khi chia tay Đại sứ Dan Stav, người tháp tùng trong suốt chuyến đi, tôi có nói rằng “Khi tôi mới đến nơi, ông Đại sứ có nói Bộ Ngoại giao Israel có khoảng 1000 nhà ngoại giao. Giờ đây khi đã xong các cuộc tiếp xúc tôi chỉ đồng ý một nửa. Các ông không chỉ có 1000 nhà ngoại giao, mà đó còn là 1000 Giáo sư nữa”. Dan ngửa mặt cười ha hả. Quả thực, hiếm có nước nào, kể cả các cường quốc, lại có nhiều nhà ngoại giao nắm giữ các vị trí chủ chốt nhưng lại có trình độ khá đều tay, am hiểu sâu chuyên môn và có thể trình bày vấn đề mạch lạc như một giáo sư đại học. Không chỉ rành chuyên môn, họ còn thể hiện tác phong hết sức chuyên nghiệp, động tác mạnh mẽ, dứt khoát.

CÂU CHUYỆN 3: Khi vào phòng làm việc với Lãnh đạo Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc Phòng của họ, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy phòng khách bày biện khá đơn giản, không rõ chỗ ngồi của chủ và khách. Bèn hỏi cô lễ tân là ngồi thế nào, cô để “Sếp” cô ngồi đâu. Câu trả lời là: Các ông ngồi thế nào thì tùy và chỉ cần để một chỗ cho ông ấy ngồi là OK. Sau này mới thấy rõ hơn, trừ một số cuộc gặp phải tuân thủ một số nghi lễ ngoại giao bắt buộc, việc ngồi tự do (free sitting) tạo không khí thảo luận thoải mái và bình đẳng giữa chủ và khách, càng ngạc nhiên hơn khi đây cũng chính là cách người Israel ngồi khi thảo luận nội bộ!

Quay trở lại Phần 1, tôi thấy rằng các câu trả lời về nguyên nhân thành công của người Do Thái, sự cố kết của dân tộc này đều khởi nguồn từ 3 yếu tố chính (i) cuốn Kinh Do Thái (Jewish Bible), (ii) cách thức duy trì Đạo, bản sắc và lối sống Do Thái; và (iii) tiếng Hebrew. Các vấn đề khác như “gien” và tố chất thông minh của người Do Thái; tính hiếu học, ham hiểu biết và sáng tạo; cách duy trì và tổ chức cuộc sống, đời sống xã hội một cách văn minh, lành mạnh của họ đều bắt nguồn từ 3 yếu tố trên. Và cũng thật trớ trêu, đây lại là nguyên nhân chính khiến họ bị xua đuổi, miệt thị, truy sát trong hơn 20 thế kỷ qua. Tôi cũng nghiệm thấy rất ít dân tộc, quốc gia có thể học được theo họ, trừ phi anh cũng trở thành… người Do thái như họ!

Ta hãy đi từng vấn đề một:

Thứ nhất, Israel là đất nước duy nhất trên thế giới được định hình bởi 4 yếu tố mang đậm chất Do Thái là: (i) Dân tộc Do Thái, (ii) Đạo Do Thái, (iii) văn hóa Do Thái, và (iv) Đất nước Do Thái.

Trong các tôn giáo trên thế giới, Đạo Do Thái được ghi nhận là đạo có tuổi đời lâu thứ hai trên thế giới (ra đời cách đây khoảng 3000 năm), sau Đạo Hindu (ra đời cách đây khoảng 4000 năm). Tuy nhiên, do Hindu là đạo đa thần, nên Do Thái giáo có thể xem là đạo độc thần (Monotheistic) ra đời sớm nhất thế giới. Đạo Độc thần là đạo chỉ thờ 1 vị chúa/thần/hoặc thánh duy nhất. Đạo Do Thái chỉ thờ duy nhất Chúa trời, nên trên bàn thờ trong nhà thờ Do Thái họ trang trí đơn giản, không thờ người hoặc động vật. Họ cho rằng, người là người, dứt khoát không thể là chúa hay thánh được và chỉ có một Đức Chúa trời duy nhất. Phải chăng điều này làm cho người Do Thái cũng như sinh hoạt tôn giáo của họ “dân chủ” hơn do không bị phân tán, mất bớt quyền lực qua các nhân vật trung gian?

Một điều rất đặc biệt là trong cuốn Kinh Torah (gồm 5 tập, ghi lại các lời của Nhà tiên tri Moses) có ghi người Do Thái được Đức chúa trời chọn (the Chosen People) để truyền đạt thông điệp của Chúa cho các dân tộc khác, dẫn dắt và khai sáng các dân tộc khác. Người Do Thái rất tin vào điều này, tin vào “sứ mạng” được Chúa giao phó. Đây có lẽ là động lực lớn nhất khiến người Do Thái luôn tìm cách đạt đến đỉnh cao của khoa học, phấn đấu đủ tầm trí tuệ “dẫn dắt” nhân loại như họ nghĩ đã được “Chúa lựa chọn”. Do đó, điểm nổi bật nhất ở người Do Thái là họ thấy mục đích cao nhất của cuộc sống là sáng tạo, chứ không chỉ là kiếm tiền, và kiếm tiền cũng như sự giàu có của họ thực ra là hệ quả của các lao động sáng tạo chứ không phải mục đích mà họ theo đuổi.

Thứ hai, trong bất kỳ tôn giáo nào, tính “Giáo điều” đều tồn tại, duy chỉ khác nhau về mức độ. “Giáo điều” là những điều được ghi trong kinh/kinh thánh hoặc được các Bề trên giảng và được coi mặc nhiên đúng, không bàn cãi. Tuy nhiên, bản kinh Torah của người Do Thái lại rất gợi mở để mọi người suy nghĩ, khám phá. Trong 5 cuốn Kinh Torah thì có đến 4 cuốn nói về luật và 1 cuốn về các vấn đề trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày. Torah ghi các vấn đề trong cuộc sống, đặt ra các câu hỏi, gợi mở để suy nghĩ, nhưng lại không chỉ có một câu trả lời, mà có nhiều câu trả lời tùy thuộc bối cảnh khác nhau, và thậm chí còn để khoảng trống để mọi người cho trí tưởng tượng bay bổng với các hỏi và câu trả lời. Trong bữa cơm gia đình cuối ngày, hoặc trong ngày Sabbath, các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng đọc và tranh luận các điều ghi trong kinh thánh, và có thể chính điều này làm tăng thêm năng lực trí tuệ, làm cho họ rất giỏi về luật.

Thứ ba, các bạn Israel cho biết, cuốn Kinh Torah giống như một cuốn sách khoa học hơn là một cuốn kinh với các “Giáo điều”. Chẳng hạn, trong Kinh Torah ghi rõ ngày Thứ 7 là ngày Chúa nghỉ ngơi, nên tất cả mọi người Israel, kể cả các nô lệ và súc vật không được làm việc trong những ngày này. Ngày lễ Thứ 7 của họ gọi là ngày lễ Do Thái (Sabbath) được xem là ngày “nghỉ tuyệt đối”, theo đó Chúa khuyên các thành viên trong gia đình dành thời gian này bên nhau, cùng trò chuyện, đi chơi, vợ chồng “yêu” nhau, gia đình cùng nhau đi đến nhà thờ (Synagogue). Trong ngày này, mọi người không được bật lửa (vì thời xa xưa, bật lửa có nghĩa là phải vào bếp nấu nướng, tức vẫn “đi làm”) và ăn đồ ăn được chuẩn bị từ hôm trước. Thậm chí thang máy trong các cao ốc cũng để “chế độ Sabath”, tức người Do Thái không dùng tay bấm nút (biểu hiện của “làm việc”), mà để thang tự chạy automatic và mở cửa trước từng tầng một từ tầng thấp nhất đến tầng cao nhất của tòa nhà. Ngày Chủ nhật là ngày làm việc đầu tiên của họ, và điều ngạc nhiên là theo cách gọi trong Kinh thánh Do Thái các ngày làm việc trong tuần theo tuần tự là các ngày “sáng tạo”, chứ không phải ngày “đi làm”.

Chỉ bấy nhiêu thôi cũng gợi ra một số điều thú vị:

  • Ngày thứ 7 nghỉ tuyệt đối để lấy sức lao động cho các ngày khác trong tuần và đây có thể là nguồn cảm hứng cho việc đấu tranh đòi quyền của người lao động sau này;
  • Lễ Sabbath tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình (khi cả nhà cùng ngồi ăn quay quần bên nhau), và giữa các thành viên trong cộng đồng (khi hàng xóm cùng kéo nhau đến nhà thờ);
  • Là cơ sở của việc đấu tranh giành quyền bình đẳng phụ nữ (không lao động trong ngày Sabbath) sau này, cũng như quyền của động vật;
  • Vợ chồng “sản xuất” em bé trong ngày nghỉ khi tinh thần thoải mái thì đứa trẻ sau này cũng sẽ thông tuệ hơn.

Người Do Thái coi trọng chuyện học hành

Người Do Thái rất chú trọng đến chuyện học hành và chữ nghĩa của con cái. Cuốn Kinh Talmud từ cách đây trên 2000 năm đã yêu cầu các ông bố, bà mẹ phải dạy cho con cái biết đọc, biết viết từ năm lên 6 tuổi. Điều này, cũng như một số giáo lý khác trong kinh Talmud, được người Do Thái thực hiện hết sức nghiêm túc (sẽ nói kỹ sau), một phần vì thấy đúng, một phần vì sợ bị cộng đồng xa lánh. Do đó, từ cách đây trên 2000 năm người Do Thái cơ bản xóa được nạn mù chữ, với trên 90% người dân biết đọc, biết viết.

Đối với cuộc sống của con người hiện đại thời nay, điều này là quá sức bình thường. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh người Do Thái là những người du mục, nông dân, thậm chí tha phương cầu thực mà vẫn giữ được truyền thống này, trong bối cảnh tới trên 90% dân châu Âu và các sắc dân khác ở Bắc Phi, Trung Đông ở xung quanh thời đó mù chữ thì đây quả là điều phi thường. Không chỉ thời nay người Do Thái mới được trọng dụng và phát huy vai trò, mà vào thời cực thịnh của Đạo Hồi (thế kỷ IX-XIII) sau Công nguyên, người Do Thái được người Hồi giáo tin dùng và đóng vai trò nổi trội là các thương gia biết tính toán, “ăn nên, làm ra” với hệ thống buôn bán kéo dài từ Trung Đông, qua Nam Á và Đông Nam Á, thậm chí tới Thượng Hải.

Vậy trong điều kiện bị chiếm đóng và lưu lạc, họ duy trì được chữ viết và tiếng nói của mình ra sao trong hàng ngàn năm mà không bị mai một? Câu trả lời chính là sự sùng đạo và cuốn kinh Do Thái viết bằng tiếng Hebrew.

Hầu hết những người Do Thái mà tôi gặp, dù là người Chính thống hay người Do Thái bình thường, đều nói rằng khi gặp nạn, vật đầu tiên và cũng là vật quý giá nhất mà người Do Thái đem theo đầu tiên đó chính là CUỐN KINH THÁNH, chứ không phải bất cứ vật dụng nào khác. Cuốn Kinh thánh Do Thái (Hebrew Bible) đối với họ vừa là đức tin, vừa là lịch sử, vừa là nguồn tri thức, vừa giúp họ giữ được bản sắc, vừa giúp họ có tương lai:

Một là, sự sùng đạo, khiến người Do Thái phải đọc kinh liên tục, đọc thuộc làu, đọc ở trong nhà, đọc ngoài đường, đọc ở nhà thờ… giúp người Do Thái giữ được tiếng nói, nhận diện được ngôn ngữ đặc trưng của mình và được truyền từ đời này qua đời khác.

Hai là, khi lưu lạc sang các xứ khác nhau, ngữ âm của họ có bị thay đổi do phát âm theo thổ ngữ địa phương, nhưng cơ bản họ vẫn hiểu được nhau dù lang bạt hàng ngàn năm, và tới tận 73 quốc gia và lãnh thổ khác nhau. Điều đó giải thích tại sao người Do Thái từ “tứ xứ” đổ về, nhưng đã nhanh chóng gắn kết với nhau ngay sau khi Israel được tái lập năm 1948.

Ba là, không chỉ thạo tiếng Hebrew, mà người Do Thái còn thạo tiếng bản địa nơi họ sinh sống. Như vậy trên thực tế, người Do Thái sử dụng thông thạo hai ngoại ngữ từ rất sớm. Khoa học đã chứng minh, những người hoặc nhóm cộng đồng sử dụng được trên 1 ngoại ngữ thường có chỉ số IQ lớn hơn nhóm, hoặc người sử dụng ít ngôn ngữ hơn. Không chỉ vậy, kinh thánh không chỉ là phương tiện duy trì ngôn ngữ, mà còn giúp họ mở mang các kiến thức luật, kinh tế và khoa học thông thường ở trong đó.

Bốn là, niềm ao ước tột cùng trở về Jerusalem cũng được ghi trong Kinh thánh. Thời cổ đại, dù muốn đi đâu, làm ăn gì, thì người Do Thái cũng quy ước về quần tụ tại Jerusalem để hành lễ ít nhất là 4 lần 1 năm. Đến nay, truyền thống đó vẫn được duy trì và người Do Thái ở Israel thường về Jerusalem mỗi năm một lần, còn người Do Thái ở khắp nơi trên thế giới thì về ít nhất 1 lần trong đời. Kinh Thánh Do Thái ra đời trong bối cảnh người dân Do Thái đã từng mất tổ quốc, mất Jerusalem trong một thời kỳ dài từ hàng trăm năm trước đó. Do đó, Kinh Thánh nhắc nhở người Do Thái rất kỹ về điều này. Truyền thống có từ cả ngàn năm nay và đến nay vẫn được duy trì trong cộng đồng Do Thái, là khi gặp nhau, hoặc khi viết thư, họ thường nói đến việc “sớm hẹn gặp nhau tại Jerusalem”, “hẹn gặp tại Jerusalem vào năm tới”. Do đó, ước nguyện trở về Jerusalem, lấy lại Jerusalem luôn cháy bóng trong mỗi người Do Thái và họ không bao giờ quên điều này khi tha hương.

Đạo Do Thái và việc duy trì nòi giống

Việc thực hiện nghiêm ngặt các phong tục tập quán của Do Thái giáo giúp người Do Thái sàng lọc gien “xấu”, lấy và nhân giống gien “tốt”. Thực ra, không chỉ người Do Thái làm vậy, mà các dân tộc khác như ngoài Hoa và Việt Nam cũng có những vần thơ để chọn người xứng đôi, vừa lứa như “Trai anh hùng, gái thuyền quyên”, “Nữ tuệ tam tài nguyên thị đối” (Gái giỏi trai tài nom thật đối), v.v…. Chắc chắn đây không chỉ là chuyện “tâm đầu, ý hợp” của trai gái, mà còn liên quan đến việc duy trì nòi giống sau này.

Nếu như người Đông Á chỉ dừng lại ở mức “khuyên răn” thì người Do Thái đã “luật hóa” và “hệ thống hóa” được việc chọn lọc có chủ đích thay cho việc chọn lọc tự nhiên, vô thức để “hoàn thiện” và “phát triển” gien của mình:

Một là, trong Đạo Do thái, Giáo sĩ (các Rabbis) là những người được chọn từ những người thông minh nhất. Các Rabbis là người diễn giải Kinh thánh có uy tín và trọng lượng nhất, duy trì các giá trị “chính thống” và được xã hội hết sức trọng vọng. Tuy là thầy tu, nhưng các Rabbis vẫn có con như những người bình thường, và thậm chí có rất nhiều con. Do có uy tín cao trong xã hội, nên họ dễ dàng chọn hôn thê và hôn thê được họ ưu tiên chọn thường là con cái của các học giả (scholars), rồi sau đó mới đến con các nhà buôn.

Hai là, không chỉ các Rabbis chọn như vậy, kinh thánh Do Thái thậm chí còn khuyên mọi người là nếu có tiền của thì hãy tìm cách cho con cái của mình lấy con gái của các học giả. Kinh thánh khuyến khích người Do Thái sinh nhiều con, cho rằng sinh 13 con thì sẽ có nhiều may mắn. Nhưng trên thực tế lại có các “phanh hãm” đối với người nghèo, người ít học là sinh ra con cái nhưng phải đảm bảo các điều kiện kinh tế và tài chính. Chính điều này làm cho người nghèo, người ở tầng lớp thấp không “sinh tràn lan”, mà sinh có trách nhiệm và số người này chiếm tỷ lệ ngày một ít đi trong so sánh tương đối với những người có “gien” tốt, hoặc có điều kiện vật chất tốt hơn. Trải qua hàng ngàn năm chọn lọc có điều kiện như vậy nên việc có được nhiều gien tốt trong người Do Thái là điều dễ hiểu.

Ba là, trong quan niệm Do Thái chính thống, và ngay tại các khu vực người Do thái chính thống sinh sống hiện nay tại Israel, phụ nữ, con gái không bao giờ được “bén mảng” đến Nhà thờ. Trái lại, đàn ông dù bận công việc đến mấy cũng tìm cách đến nhà thờ vào lúc 6h chiều hàng ngày để làm lễ trước khi về nhà. Tuy nhiên, phụ nữ Do Thái lại được xem là có “quyền năng” tuyệt đối trong việc duy trì nòi giống. Con của một phụ nữ Do Thái đương nhiên được coi là người Do Thái, còn con của người đàn ông Do Thái với một phụ nữ không phải Do Thái thì chỉ được coi là người Israel (nếu như sống ở Isael), chứ không được coi là người Do Thái. Thời xa xưa, việc gia đình người Do Thái có một cô con gái lấy chồng không phải người Do Thái bị coi là “nỗi nhục” của cả gia đình và dòng họ, và người bố “từ con” bằng cách đào một nấm mộ giả coi như đứa con mình dứt ruột đẻ ra đã chết.

Nhiều nhà thần học mà tôi có điều kiện tiếp xúc cho rằng Đạo Do Thái hiện là một trong số ít tôn giáo “giữ” được “kỷ cương” khá tốt. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh câu chuyện này và cần nghiên cứu sâu hơn mới có câu trả lời thỏa đáng. Quả thực, bất kỳ tôn giáo lớn hoặc quan trọng nào đều đứng trước 3 thách thức lớn trong quá trình phát triển, đó là:

  • Duy trì được sự thống nhất, giữa các dòng, nhánh, xu hướng khác nhau trong cùng một tôn giáo, duy trì một đức tin chung trong thể thống nhất. Ví dụ, sự phân liệt rõ nhất thể hiện ở Đạo Hồi hiện nay với các dòng Shia, Suni, rồi nhánh Wahabis thuộc Suni, nhánh Alewite, Druze thuộc dòng Shia…, mà dòng, nhánh nào cũng cho mình mới là “chính thống”, còn những dòng, nhánh khác là “ngoại đạo”, cần bị loại bỏ để làm “trong sạch” Đạo Hồi;
  • “Đồng hành” cùng xã hội hiện đại, nhưng vẫn duy trì các giá trị, các nguyên tắc “cốt lõi” (tức tính chất “chính thống”, mặc dù việc diễn giải và tự nhận các tính chất này còn nhiều điều phải bàn);
  • Tránh việc tạo ra một tầng lớp “tăng lữ” mới, với các đặc quyền, đặc lợi, hủy hoại chính tôn giáo của mình.

Do Thái giáo cũng không phải là ngoại lệ, nhưng ít gặp các “vấn nạn” ở trên hơn, do:

  • Ngay khi ra đời, Do Thái giáo đã không có “vấn nạn”, đưa đến sự kình chống nhau sâu sắc giữa các dòng tu. Đạo Hồi chẳng hạn, ngay sau khi Nhà tiên tri Mohamed qua đời, sự giằng xé giữa những người cho rằng cần phải chọn người thừa kế hoặc có dòng màu trực hệ để “hướng đạo” hạy chọn những người có khả năng nhất trong việc kế thừa và phát triển di sản của Mohamed đã đưa đến việc phân chia Hồi giáo thành 2 nhánh lớn là Shia và Suni. Do Thái giáo cũng có những dòng hết sức cực đoan, thậm chí không công nhận Nhà nước Israel, nhưng họ vẫn hợp tác, và không đi đến chỗ đối đầu nhau bằng bạo lực. Những người có tác dụng giữ sự hòa hợp và thống nhất Đạo Do Thái là các giáo sĩ và Hội đồng giáo sĩ.
  • Trong hệ thống luật dân sự của Israel, còn có luật Do Thái Halakha tương tự như luật Sharia của Hồi giáo mà một số nước như Arab Saudi, Brunei… áp dụng. Halakha bao gồm 613 điều răn (commandments) với hệ thống tòa án riêng, và các “bản án” tôn giáo đối với người có đạo thậm chí còn đáng sợ và nghiêm khắc hơn các bản án dân sự. Luật Halakha tồn tại trong mọi ngóc ngách của đời sống xã hội, can thiệp sâu và điều chỉnh rất nhiều quy tắc, tập tục của đời sống xã hội. Nếu không tuân theo Halakha, các Rabbis có quyền rút “Phép thông công” (excommunicate) – tương đương với một bản án tử hình – và điều này cũng đồng nghĩa với việc khi qua đời, linh hồn người chịu hình phạt đó không được bay lên Thiên đàng.
  • Người theo Đạo chính thống Orthodox tin và tự chọn cho mình lối sống theo các giá trị truyền thống và nguyên tắc nguyên thủy. Tuy nhiên, họ không tìm cách áp đặt lối sống của mình hay kỳ thị những người thế tục. Bản thân các Giáo sĩ (Rabbis) và những người Orthodox không được hưởng đặc quyền, đặc lợi, họ thỏa mãn với cuộc sống thanh bạch của mình. Trong đạo Hồi chẳng hạn, những người Wahabbis cũng có cuộc sống thanh bạch, khắc khổ, nhưng điều nguy hại là họ lại tìm cách áp đặt lối sống của mình lên những dòng, nhánh khác.
  • Khác với các Đạo giáo khác là tìm mọi cách truyền đạo để mở rộng thành viên, càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, để trở thành một người Do Thái rất khó, phải có căn cứ, bằng chứng xác nhận tới ít nhất 4 đời trước đó và quy theo mẫu hệ. Họ cho rằng, đã là “thiên sứ nhà trời”, “được chúa chọn” thì chỉ có ít người được hưởng vinh dự, chứ đâu có thể kết nạp tràn lan, cứ vào đến synagogue (nhà thờ Do Thái) là trở thành Do Thái ngay được.

Trong những điều kiện khắc nghiệt thời kỳ Đế quốc La mã là bá chủ khu vực Trung Đông, để tránh bị truy đuổi và tận diệt, người Do Thái buộc phải cải đạo sang đạo Thiên chúa. Tuy nhiên họ lại cải đạo trở lại thành người Do Thái khi điều kiện cho phép. Bản thân Hitler là người rất căm thù dân Do Thái, một cộng đồng đoàn kết nhưng sống tách biệt với người bản xứ. Trong con mắt Hitler, đã sinh ra là một người Do Thái thì sẽ luôn luôn là một người Do Thái, cải đạo chẳng giúp ích gì, và quyết truy sát 1 người nếu tìm được bằng chứng trước đó 4 đời họ là người Do Thái.

Tản mạn thay lời kết: Chuyện ăn uống và tố chất của người Do Thái

Đồ ăn Kosher (Kosher food) là đồ ăn được chế biến và ăn theo kiểu Do Thái. Đối với người Do Thái Chính thống, việc sử dụng Kosher là điều gần như bắt buộc, còn đối với người thế tục thì tùy lựa chọn. Các canteen phục vụ tai các cơ quan chính phủ Israel như Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc phòng nghiễm nhiên là các nhà hàng phục đồ ăn Kosher. Đồ ăn Kosher hiện ngày càng trở nên phổ biến tại Israel và trên khắp thế giới và không chỉ người Do thái chính thống mới dùng. Hiện nay, có 100.000 loại thực phẩm Kosher khác nhau được bán trên phạm vi toàn thế giới.

Vậy Kosher là gì và ăn như thế nào? Trong Halakha quy định rất rõ, chi tiết và khá phức tạp, nhưng chung quy lại có một số điểm chính:

Về các thức ăn Kosher:

  • Một số con vật ăn được: chỉ ăn những con vật có móng chẻ, ăn cỏ và nhai thức ăn lại như bò, dê, cừu. Các con vật không ăn được là lợn, ngựa, và lạc đà.  Lợn tuy có móng chẻ nhưng không nhai lại, còn ngựa, lạc đà tuy ăn cỏ nhưng không có móng chẻ.
  • Ăn các loài có cánh như gà, vịt, ngỗng, bồ câu… Không ăn các loài chim ăn thịt như diều hâu, chim ưng, đại bàng.
  • Ăn các loài cá có vây và vẩy như các hồi, cá ngừ, cá trích… Không ăn các con cá không vảy như lươn, các trê, cá tầm, tôm, tép, nghêu sò, ốc hến, các loài bò sát, côn trùng.
  • Các thức ăn trung tính như trái cây, nước trái cây, ngũ cốc, trứng gà vịt, mật ong, rượu vang, chè, café.

Về cách ăn đồ Kosher:

  • Chỉ uống sữa và các vật phẩm chế biến từ sữa của các con vật Kosher như bò, dê, cừu. Chỉ được dùng sữa và các vật phẩm chế từ sữa 6 tiếng sau khi dùng thịt, hoặc 30 phút trước khi ăn thịt chứ không được ăn, uống đồng thời. Đồ chế biến sữa và thịt, kể cả chậu rửa bát nhất thiết phải dùng riêng.
  • Lúa mì, gạo, và một số loại rau, củ nhất định thì ăn được. Không ăn, uống nước trái cây hoặc đồ chế biến từ các loại loại quả như cam, quýt, bưởi… dưới 3 tuổi.
  • Không ăn nội tạng động vật hay gia cầm; không ăn phần phía sau của con thú và không ăn thịt, cá đồng thời.
  • Khi ăn thịt phải lấy hết sạch máu và người chế biến phải học cách giết con vật sao cho con vật chết nhanh nhất, không đau đớn, nhưng lại ra được hết tiết. Thậm chỉ còn phải rửa sạch và ngâm miếng thịt trong nước 30 phút trước khi chế biến để ra hết máu,
  • Các nhà hàng Kosher nhất thiết phải do đầu bếp Do thái chính thống trực tiếp nấu nướng và bị phạt rất nặng, kể cả tước giấy phép kinh doanh, hành nghề nếu vi phạm.

Có lẽ trên thế giới không có dân tộc nào có kiểu ăn “kiêng, khem” phức tạp và rườm rà như người Do Thái chính thống. Các nhà hàng phục vụ đồ ăn Kosher thường đắt hơn từ 20-30% so với nhà hàng thông thường, vậy mà lúc nào cũng đông khách ăn.

Theo tôi, đây không chỉ là đồ ăn kiêng của người Do Thái, mà THỰC CHẤT KOSHER LÀ ĐỒ ĂN, CÁCH ĂN THÔNG MINH, KHOA HỌC, THẬM CHÍ LÀ LÝ TƯỞNG không chỉ của người Do Thái, mà của con người nói chung. Nếu chỉ khuyên nhủ thông thường sẽ ít người theo, nhưng khi khoa học được “phủ” một lớp màu tôn giáo thì Kosher đã trở nên thành món ăn kỳ ảo, mê hoặc và quyến rũ.

Tạm cắt nghĩa một số thứ:

  • Theo người Do Thái, con vật cũng như con người đều có linh hồn. Nếu làm cho con vật chết đau đớn thì nó sẽ oán trách và cả người thịt lẫn người ăn nó đều bị “quở phạt”. Do đó, giết nhanh để con vật mau chóng được hóa kiếp lên thiên đàng.
  • Khi con vật cắt được tiết nghĩa là con vật còn tươi, chứ không phải ăn đồ ôi. Thú tính và sự ngu muội của con vật nằm ở “dòng máu”, và ăn thú vật hay gia cầm có tiết sẽ làm con người lâu dần nhiễm “thú tính” và đầu óc trở nên trì độn, còn nòi giống đi đến chỗ thoái hóa.
  • Thịt ăn cùng với cá không còn tác dụng bổ dưỡng nữa, mà triệt tiêu lẫn nhau. Còn trái cây trong 3 năm đầu thường chứa nhiều chất, độc tố có hại cho cơ thể.
  • Uống sữa sau khi ăn thịt không tốt cho sức khỏe vì bản thân thịt nhiều chất đạm, lâu tiêu lại có thêm chất bổ dưỡng khác nữa làm cho cơ thể không thể hấp thụ nổi và dễ sinh bệnh.
  • Trong điều kiện thiên nhiên hết sức khắc nghiệt của vùng Bắc Phi – Trung Đông, việc ăn uống tốt giúp người Do Thái chống chọi tốt hơn với khí hậu khắc nghiệt, làm cho không chỉ thể trạng khỏe khoắn mà trí tuệ của họ cũng hơn người. Các cụ nhà ta chả nói bệnh vào từ mồm đó sao?

Như vậy, trải qua cả ngàn năm, với cuốn Kinh Thánh Hebrew, người Do Thái không chỉ thành công trong việc bảo tồn, mà còn phát triển bản sắc, văn hóa, tôn giáo của mình. Không những vậy, thông qua ăn uống, cuộc sống tinh thần lành mạnh, làm cho “gien Do Thái” vốn đã ưu việt, ngày một trở nên ưu việt hơn. Khác với các tôn giáo khác, người Do Thái không tìm cách phát triển tôn giáo của mình qua con đường truyền đạo như Đạo Hồi, Đạo Thiên chúa, hay Đạo Phật, mà tìm cách giữ sao cho Do Thái giáo càng “thuần khiết” càng tốt. Phải chăng những người được Chúa “chọn mặt gửi vàng” đâu có thể phát triển tràn lan được!

Có lẽ chính vì vậy mà cách đây từ trên 3.000 năm Nhà tiên tri Moses của người Do Thái đã lường trước điều này khi ông, ngay từ khi đó, đã hình dung ra rằng nếu người Do Thái làm theo các lời răn dạy của ông thì họ sẽ trở thành đối tượng bị săn đuổi và tận diệt của nhiều sắc dân khác và vì vậy đã chuẩn bị cho họ hành trang đầy đủ trong cả ngàn năm thiên di trước khi “trở về Jerusalem”. Điều ngạc ngạc nhiên là người Do Thái không than thân, trách phận mà họ coi đó là “sự thử thách” của Chúa trời đối với dân tộc Do Thái!

TS. Hoàng Anh Tuấn là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược và Ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Bài viết tổng hợp những ghi chép đăng lần đầu trên trang Facebook của tác giả về chuyến công tác tới Israel gần đây, thể hiện quan điểm cá nhân, không phải quan điểm của cơ quan nơi tác giả công tác.

– See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/10/10/giai-ma-thanh-cong-cua-israel-va-nguoi-do-thai/#sthash.XniPT1UR.dpuf

Do Thái giáo

Tìm hiểu Israel và dân tộc Do Thái

 Giải mã sự thành công của Israel và người Do Thái

Print Friendly

120730123442-jerusalem-skyline-horizontal-gallery

Tác giả: Hoàng Anh Tuấn

Trong các sắc dân trên thế giới, có lẽ hiếm có dân tộc nào chịu số phận bị đọa đày, miệt thị và khổ ải như dân tộc Do Thái với hai lần thiên di, lần thứ nhất bắt đầu vào năm 722 và lần thứ hai bắt đầu vào năm 135 Trước công nguyên (BCE). Trải qua 21 thế kỷ lưu vong, tứ tán khắp nơi và đến năm 1948 người Do Thái mới thực hiện được ước mơ “Phục quốc” (Zionism), vốn được một nhà báo Do Thái gốc Áo-Hung khởi xướng tại châu Âu từ năm 1896. Trong cùng cảnh ngộ tương tự, nhiều sắc tộc, dân tộc khác trong cùng khu vực Lưỡng Hà đã bị tiêu vong hoặc đồng hóa từ lâu. Nhưng ngược lại, mặc dù chịu những đau khổ, mất mát (như nạn diệt chủng Holocaust của Đức Quốc xã rồi nạn lưu đày, trại tập trung) nhưng người Do Thái không chỉ duy trì được tôn giáo, văn hóa, nòi giống, bản sắc của mình, mà có những ảnh hưởng vượt trội trong cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đóng góp vào sự tiến bộ chung của nhân loại.

Với tổng số khoảng 14,5 triệu người sống rải rác tại 73 nước trên khắp thế giới (trong đó riêng tại Israel là 6 triệu, ở Mỹ 5,6 triệu), người Do Thái chiếm tỷ lệ rất nhỏ là 0,2% tổng dân số thế giới. Tuy nhiên, trong số những người nhận được giải thưởng Nobel trong các lĩnh vực vật lý, hóa học, kinh tế và y tế từ đầu thế kỷ XX đến nay, các nhà khoa học gốc Do Thái đến từ các quốc gia khác nhau đoạt được khoảng 30% tổng số giải thưởng trên.

Về địa hình, địa thế, Israel nằm ở vị trí hết sức khắc nghiệt, khác với hầu hết các quốc gia khác trên thế giới:

  • Israel nằm ở ngã ba của 3 châu lục (châu Á, châu Phi, châu Âu), là mục tiêu “chinh phạt” trong suốt gần 3000 năm qua của hàng chục đế chế châu Âu, Trung Đông, từ đế quốc La Mã, Assyria, Ottoman và gần đây nhất là Anh do có thành phố Jerusalem mà 3 tôn giáo lớn trên thế giới (Thiên Chúa giáo, Do Thái Giáo và Hồi giáo) đều coi là nơi đạo của mình sinh ra và “phát tích”;
  • Thiên nhiên của Israel hết sức khắc nghiệt. Là quốc gia chỉ có diện tích trên 20,000 km2 (bằng hai phần ba diện tích đảo Hải Nam), mà Israel có tới 60% là sa mạc, lượng mưa trong năm vào khoảng 50mm, tức bằng 1/30 của Việt Nam;
  • Dân số Israel chỉ có 8 triệu người (trong đó có 6 triệu người Do Thái), nhưng lại bị tứ bề bao vây bởi 300 triệu dân Hồi giáo Ả-rập thù địch.

Sau hàng ngàn năm lưu lạc, khi được Liên Hợp Quốc trao quyền lập quốc năm 1948, những người Do Thái từ khắp nơi quay trở về cố quốc, giành giật từng tấc đất “chó ăn đá, gà ăn sỏi” với người Ả-rập. Cũng từ đây họ có cơ hội sử dụng tư chất Do Thái của mình để bảo vệ Đất Thánh (Holy Land), bắt đầu tiến trình được “chúa giao phó” nhằm cải tạo mảnh đất khô cằn này thành Miền Đất hứa (Promised Land) như trong Kinh Thánh Do Thái và bắt mảnh đất này “nhả kim cương”, chứ không phải nhả vàng!

Trên vùng đất khô cằn và thiếu nước này, người Do Thái đã cải tạo và biến Israel trở thành “ốc đảo”, là “vườn rau” của châu Âu trong mùa đông với một nền nông nghiệp có năng suất và hiệu quả cao nhất thế giới. Với một số dân làm nông nghiệp ít ỏi (chỉ 2,5% trên tổng số gần 8 triệu dân), Israel không chỉ tự túc “an ninh lương thực”, cung cấp đủ lương, thực phẩm chất lượng cao cho mình, mà mỗi năm nông nghiệp đem về 3,5 tỷ USD từ xuất khẩu. Một ha đất nông nghiệp của Israel có thể trồng được tới 300 tấn cà chua bi, còn “Cô gái Do Thái” (bò Israel) cho ra sản lượng sữa tới 12 tấn/năm, so với 9 tấn của “Cô gái Hà Lan”.

Một số nguyên nhân chính:

  • Khoa học nông nghiệp phát triển: Các nhà khoa học Do Thái nghiên cứu, lai tạo các cây trồng thích hợp với thổ nhưỡng khắc nghiệt (chịu nhiệt độ cao, khô cằn cần ít nước), nhưng lại cho năng suất cao;
  • Sử dụng có hiệu quả và triệt để “vàng trắng” là nước. Israel là nước đi đầu trên thế giới về công nghệ tái sử dụng nước (khoảng 70% lượng nước đã qua sử dụng); công nghệ biến nước biển thành nước lợ hoặc nước ngọt; công nghệ tưới nhỏ giọt (họ không dùng tưới phun vì lãng phí nước). Chẳng hạn, nước biển được dẫn vào các trang trại nuôi cá nước lợ (sau khi đã khử độ mặn); còn nước nuôi cá lại được tái sử dụng để tưới cây. Hệ thống tưới nước nhỏ giọt với các đường ống dẫn nước tới từng cây trồng trong với hệ thống máy tính đo độ ẩm, mức độ hấp thụ của cây để tự động điều chỉnh lượng nước tưới nhỏ giọt cho phù hợp.

Sức mạnh quốc phòng và ảnh hưởng của Israel

Nói đến bảo vệ đất nước Israel trong môi trường khắc nghiệt như vậy thì không thể không kể đến sức mạnh quốc phòng và ngành công nghiệp quốc phòng của nước này. Israel hiện được xếp trong số 10 quốc gia có sức mạnh quốc phòng lớn nhất thế giới, nhưng lại có ngân sách quốc phòng ở mức thấp nhất trong các nước này (15 tỷ USD/năm).

Để dễ hình dung, mặc dù dân số chỉ bằng khoảng 1/8 dân số nước Anh và ngân sách quốc phòng hàng năm chỉ bằng 1/3 của Anh, nhưng Israel có sức mạnh không quân đứng thứ tư thế giới, tương đương như của Anh. Như vậy nếu tính hiệu quả/số tiền chi cho quốc phòng (nói theo cách của Mỹ là “More Bang For the Buck”), thì Israel có thể là số 1 thế giới.

Tạm gác một bên con số thương vong của Israel và Hamas, trong cuộc chiến vừa qua, cả thế giới đều kinh ngạc khi chứng kiến tính hiệu quả của hệ thống đánh chặn tên lửa Mái Vòm (Iron Dome) khi chặn được tới 90% tên lửa của Hamas bắn sang Israel và gần 7000 tên lửa của Hamas bị phá hủy (cả do bị không quân Israel không kích nữa) có tầm bắn bao phủ 50% lãnh thổ và 80% dân số của Israel. Mặc dù ở ngay sát cạnh Gaza, nhưng tên lửa của Hamas bắn sang chỉ gây thương vong cho 6 dân thường (trong đó có 1 người Thái) và toàn bộ các hoạt động kinh tế khác của đất nước Israel, cũng như sinh hoạt của người dân nước này hầu hết không bị ảnh hưởng và vẫn diễn ra bình thường.

Mặc dù là đồng minh số 1 của Mỹ ở Trung Đông và thế giới, Israel vẫn cho rằng phải tự lực tự cường về quân sự, với chính sách quốc phòng riêng và dựa vào sức mình là chính. Để có sự “độc lập” tối đa, Israel không ký bất kỳ hiệp ước liên minh nào với Mỹ. Ngay cả hệ thống phòng chống tên lửa Patriot của Mỹ khi đưa sang Israel trong cuộc chiến Vùng Vịnh II để chặn tên lửa Scud của Iraq, Israel cũng thấy bất cập vì Patriot gần như bất lực và quá tốn kém khi đối phó với các tên lửa “tự chế” của Hamas.

Một số điểm nổi bật:

  • Ba tổ hợp quân sự của Israel là Elbit System, Israeli Aerospace Industries và Rafael nằm trong số 100 công ty sản xuất vũ khí lớn nhất thế giới. Israel xuất khẩu tới 90% vũ khí sản xuất và hàng năm thu về 3 tỷ USD từ xuất khẩu vũ khí;
  • Các vũ khí của Israel thường được tích hợp rất nhiều tính năng về tầm bắn, mức độ công phá, khả năng sát thương… so với các vũ khí tương tự như của Mỹ, Nga và quan trọng là giá cả lại cạnh tranh hơn rất nhiều. Lấy súng tiểu liên GALIL của Israel so với AK47 làm ví dụ. Đạn sử dụng cho GALIL có đường kính 5,56mm, so với 7,2 mm của AK47, mức độ giật thấp hơn (dễ sử dụng cho lính nữ, mà lính nữ Israel khá đông), điều đó cho phép người lính khi ra trận mang được cơ số đạn nhiều hơn. Theo “triết lý” của người Israel, tuy mức sát thương của GALIL không cao như AK47, nhưng lại có hậu quả lớn. Một là, khi ít người bị chết trận trong chiến tranh thì sự lên án và sức ép quốc tế giảm; Hai là, khi có người lính bị chết thì thông thường đối phương sẽ bỏ lại, nhưng nếu có người lính bị thương thì cần 2, 3 đồng đội dìu và do đó sẽ làm giảm sức chiến đấu của đối phương hoặc tạo ra mục tiêu mới để tiêu diệt; Ba là, làm cho đối phương chịu các hệ quả xã hội lâu dài khi chăm sóc thương binh (vì nếu lính tử thương thì chỉ lo môt lần), và do đó các tiếng nói phản chiến, hoặc gánh nặng xã hội từ bên đối phương sẽ khiến họ phải cân nhắc nhiều hơn các quyết định chiến tranh sau này.
  • Tuy dân số ít, nhưng Israel duy trì được quân số thường trực khá lớn nhờ có luật nghĩa vụ quân sự bắt buộc đối với cả nam (36 tháng) và nữ (24 tháng) – trừ những người Israel gốc Arab hoặc một số ít người được miễn vì lý do tôn giáo, và những người đã khi phục vụ nghĩa vụ quân sự xong đều được đưa vào danh sách lính dự bị. Trong quân đội Israel, lính nữ có vai trò thực sự chứ không phải “lính cảnh” khi họ góp tới 1/3 quân số, chiếm tới 51% tổng số sĩ quan. Đây có thế không hẳn là điểm yếu. Do hầu hết những người trưởng thành ở Israel được tôi luyện trong môi trường quân đội, huấn luyện bài bản về bản lĩnh, tính kỷ cương, và sự quyết đoán, nên tác phong này lan tỏa trong toàn bộ xã hội ở khía cạnh tích cực nhất.

Việc người Do Thái có các nhóm vận động và tác động vào nền chính Mỹ rất mạnh là điều hiển nhiên, và mọi người đều biết. Các nghị sĩ gốc Do Thái thống thường chiếm khoảng 10% trong tổng số 534 nghị sĩ Mỹ và nhiều chính trị gia tầm cỡ gốc Do Thái như cựu Ngoại trưởng Henry Kissinger, ứng cử viên tổng thống Joe Lieberman… có ảnh hưởng lớn đến các quyết sách của Mỹ đối với Israel và an ninh của Israel.

Tuy nhiên, có điều ít người biết về quy tắc “không thành văn” là để vào được vòng cuối, các ứng cử viên Tổng thống Mỹ ngoài việc phải tuyên thệ trung thành với Mỹ, họ phải thuộc nằm lòng câu sẽ bảo vệ an ninh của Israel và thúc đẩy quan hệ đồng minh Mỹ-Israel sau khi đắc cử. Nói đúng nghĩa thì đó là sự vận động “ngược” để được các nhóm vận động Do Thái hậu thuẫn. Nếu không, chắc chắn họ sẽ bị đánh bật từ “vòng gửi xe”.

Không chỉ có vậy, báo chí, và các nhóm vận động có ảnh hưởng của người Do Thái còn “soi” rất kỹ tiểu sử và các phát ngôn của các lãnh đạo cấp cao trong tương lai nữa xem họ có thực sự nghĩ và làm đúng như điều họ nói không. Gần đây nhất, cựu Thượng nghị sĩ Chuck Hagel suýt bị Thượng viện Mỹ (mà hầu hết là “đồng nghiệp” khi Hagel làm Thượng nghị sĩ) cho “té đài”. Số phiếu Thượng viện bỏ cho Hagel với cương vị Bộ trưởng Quốc phòng là 56/100 trong khi theo quy định phải là 60/100 và cuối cùng các nghị sĩ phải “sửa” quy định bỏ phiếu thì Hagel mới “thoát”. Chả là khi còn là Thượng nghị sĩ của Nebrasca, có lần “nóng mắt” vì sự lộng hành của các Nhóm vận động Do Thái mà Hagel buông ra câu: “Tôi không phải là Thượng nghị sĩ Israel, mà là Thượng nghị sĩ Mỹ” (nguyên văn: I am not an Israeli Senator, I am a United States Senator)!

“Chủ nghĩa xã hội” kiểu Israel 

Tư tưởng “xã hội chủ nghĩa” như tự do, bình đẳng, bác ái in rất đậm nét trong tư duy, nền tảng chính trị và xã hội của Israel. Khi tiếp xúc với các giới khác nhau của Israel như như học giả, nhà ngoại giao, kinh tế gia và quan chức chính quyền, họ không những không phủ nhận, mà còn rất tự hào về điều này. Về hình thức có thể thấy như sau:

Một là, các Kibbudz (Công xã của người Do Thái), tương tự như một số “anh em” ở các nước khác như Nông trang tập thể (Liên Xô cũ); Công xã nhân dân (Trung Quốc) hay hợp tác xã của ta. Trong khi hầu hết những người anh em khác đều đã “thăng thiên” thì Kibbudz vẫ sống khỏe, và đang chuyển mình rất mạnh từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang mô hình quản lý hiện đại, có các trung tâm nghiên cứu, sản xuất các mặt hàng công nghệ cao, thiết bị quốc phòng… Hiện tại ở Israel có khoảng 270 Kibbudz, thu hút 100.000 người sinh sống, đóng góp khoảng 12% sản phẩm công nghệ cao và 40% sản lượng nông nghiệp xuất khẩu của Israel.

Các Kibbudznik là những cư dân sống trong các Kibbudz trên cơ sở tự nguyện, không có bất kỳ sở hữu riêng mà làm chung, hưởng chung, sinh hoạt chung và được Kibbudz cung cấp nhà cửa, chăm sóc y tế, trông giữ con cái. Nếu muốn, bất kỳ người Israel nào cũng có thể “làm đơn” xin vào Kibbudz nếu chấp nhận các nguyên tắc, luật lệ chung (do từng Kibbudz đặt ra), ngoài ra họ có thể dời bỏ các Kibbudz bất kỳ lúc nào nếu cảm thấy không còn phù hợp.

Hai là, Công đảng Israel (đảng của người lao động, có nhiều thiên hướng xã hội chủ nghĩa) được sáng lập bởi những người Do Thái trở về từ Liên Xô khi Nhà nước Do thái ra đời năm 1948. Do đó, họ mang nặng ý thức hệ và chịu ảnh hưởng bởi ý thức hệ chủ nghĩa xã hội từ Liên Xô. Từ năm 1948-1977, Công đảng đóng vai trò chi phối hệ thống chính trị Israel, và vai trò “độc quyền” này chỉ bị Đảng Likud “hạ bệ” vào năm 1977.

Ba là, trong giai đoạn 1948-1977, vai trò của nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chi phối nền kinh tế Israel. Sở dĩ nhà nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước có vai trò lớn là do ngoài ý thức hệ, Israel còn được nhận khoản tiền bồi thường rất lớn từ nước Đức do gây ra nạn diệt chủng Holocaust nên dễ bề thao túng chính sách. Tuy nhiên, từ giữa những năm 1970, cùng với sự thay đổi chính trị, kinh tế cũng có những thay đổi theo hướng thị trường với sự ra đời của các doanh nghiệp tư nhân và tiến trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Các đồng nghiệp Israel cho biết, khi sinh thời, Thủ tướng và người sáng lập Nhà nước Do Thái David Ben Gurion rất ngưỡng mộ Hồ Chủ Tịch và phong trao đầu tranh giành độc lập của nhân dân ta. Còn các Tưỡng lĩnh Israel thì coi Võ Nguyên Giáp là nguồn cảm hứng.

Về nguồn gốc tư tưởng “xã hội chủ nghĩa” của người Do Thái, nhiều đồng nghiệp Israel cho rằng có thể lần ngược đến thời kỳ Kinh Thánh ra đời, và trong kinh thánh tiếng Hebrew của người Do Thái đã ghi rõ cả việc đối xử bình đẳng, không chỉ giữa người với nhau, mà còn với cả nô lệ và súc vật nữa. Ngoài ra, suy nghĩ đó còn được hình thành một cách bản năng, ẩn sâu trong suy nghĩ của họ xuất phát từ việc trong hơn 2000 năm chịu thân phận lưu vong, hèn mọn. Do điều kiện sống khắc nghiệt, lại bị miệt thị, khinh rẻ, trong khi phải “chiến đấu” để bảo vệ bản sắc và tôn giáo Do Thái của mình, nên người Do Thái không có cách nào khác hơn là phải sống nương tựa vào nhau, an ủi nhau, cũng chịu “thử thách của chúa” cho đến “ngày trở về Jerusalem”.

Vấn đề bảo vệ nguồn nước

Hiện nay ở phương Tây, và kể cả Việt Nam nữa, đang có phong trào thách đố nhau tự dội nước đá vào đầu (Ice Bucket Challenge) để góp tiền chữa trị bệnh ALS và để thử thách lòng “can đảm” của nhau (mặc dù ở ta mới thấy có một số người dội nước nhưng chưa thấy đóng tiền, có thể vì chẳng biết đóng ở đâu, đóng cho ai và tiền đó có đến tay bệnh nhân ALS hay không…!). Đặt câu chuyện này trong xã hội Israel thì thấy có phần “nhảm nhí”, cả người khởi xướng và người thực hiện có thể phải “ngồi bóc lịch”, bởi lẽ:

  • Do nước là “vàng trắng”, nên Israel là một trong rất ít nước có luật ghi rất chặt chẽ về việc sử dụng nước, phạt rất nặng các hành vi gây ô nhiễm nguồn nước và sử dụng nước lãng phí;
  • Cả nước Israel có một hồ nước ngọt duy nhất là Hồ Galile, còn sông Jordan gần như đã cạn kiệt và có thể “nhảy” qua được ở đáy sông vào bất kỳ mùa nào trong năm. Khi làm việc với Đại sứ Dore Gold, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu các vấn đề công cộng Jerusalem (nguyên Đại sứ Israel tại Liên Hợp Quốc và cố vấn an ninh và đối ngoại của Thủ tướng Netanyahu), bạn cho biết tất cả các báo lớn trong nước sẽ chạy tít hàng đầu nếu có tin mực nước Hồ Galile thấp hơn khoảng 1cm so với năm trước, và cả nước sẽ hân hoan, sung sướng nếu nghe tin nước Hồ Galile cao hơn chỉ 0,5cm!
  • Có điều khá ngạc nhiên là ngay cả khi thực hiện chiến dịch Protective Edge chống Hamas vừa qua, Israel không cắt nước và cắt điện cung cấp cho Dải Gaza (phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn cung của Israel), mặc dù điều này có thể khiến việc chống Hamas dễ dàng hơn vì sợ sẽ gây thảm họa nhân đạo.
  • Việc thực hiện “Ice Bucket Challenge” không chỉ gây lãng phí nước, mà còn cả lãng phí điện (để làm lạnh nước nữa);

Lập luận của người Do Thái là: Một, nếu thực sự quan tâm thì cứ đóng tiền, chứ sao phải dội nước. Hai, còn có rất nhiều hình thức khác vừa “vui nhộn”, vừa tạo sự quan tâm hơn của cộng đồng, mà không cần phải dội nước. Ba, tại sao lại tập trung dồn tiền cho nghiên cứu ALS lớn đến như vậy vì trên thế giới cứ 6000 người, mới có một người mắc ALS. Tạo sao lai không dành tiền và nguồn lực để tạo sự quan tâm của cộng đồng cứu chữa những căn bệnh khác còn nguy hiểm hơn nhiều, như Ebola chẳng hạn. Và còn rất nhiều các lập luận khác nữa. Điều đó, cho thấy trong văn hóa tranh luận và chính trị của người Do Thái, họ luôn nhìn vấn đề từ rất nhiều các góc độ khác nhau để tìm vấn đề và đưa ra giải pháp.

Quốc gia khởi nghiệp 

“Quốc gia khởi nghiệp: Câu chuyện về sự thần kỳ kinh tế của Israel” (nguyên văn: Start-up Nation: The Story of Israel’s Economic Miracle) là cuốn sách của tác giả Dan Senor và Saul Singer in năm 2009 và được khá nhiều người Việt biến đến với bản dịch tiếng Việt in sau đó. Khi đặt chân đến đất nước này, cảm nhận về “quốc gia khởi nghiệp” ngày một rõ nét hơn. Trong trao đổi, các quan chức của bạn nhắc không dưới 15 lần với sự tự hào và kiêu hãnh. “Start-up nation” không chỉ gợi cho mọi người thấy về một đất nước Israel non trẻ, khao khát vươn lên; là nơi các công ty khởi nghiệp (chủ yếu trong lĩnh vực công nghệ cao) chen vai thích cánh; mà còn là cách biểu đạt mới để định vị Israel trên bản đồ công nghệ của thế giới. Start-up Nation không chỉ là câu nói xuông, mà là khẩu hiệu hành động của chính phủ; sự hỗ trợ của cộng đồng và thiết chế; và sự hưởng ứng của trí thức/giới doanh nhân trẻ tạo sự đột phá cho Israel.

Israel chọn hướng đi với thương hiệu “Start-up Nation” là có những lý do riêng của mình:

  • Là nước nhỏ, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và không có tài nguyên, nên muốn vươn lên thì Israel không có cách nào khác hơn là phải dựa vào nguồn chất xám, đầu tư cho nghiên cứu khoa học và tập trung vào các ngành mũi nhọn có khả năng sinh lời “vô hạn”. Chính sách này được Israel thực thi từ khi lập nước, nhưng chỉ mới thực sự đẩy mạnh từ cuối những năm 1970 đến nay. Technion, tức Viện công nghệ Israel (Israel Institute of Technology) có thể sánh ngang với MIT của Mỹ, còn các trường Hebrew University, Tel Aviv University, Ben Gurion University cũng được xếp vào hàng 50 trường Đại học tốt nhất thế giới. Tỷ lệ số người có bằng đại học/tổng số nhân lực tại Israel là 24,5%, cao vào hàng thứ ba thế giới (sau Mỹ và Hà Lan). Hầu hết các “đại gia” phần mềm, công nghệ lớn của thế giới như Apple, Google, Microsoft đều có chi nhánh nghiên cứu, phát triển sản phẩm tại Israel để tận dụng nguồn chất xám có chất lượng tại nước này
  • Người Israel luôn có hàng núi các “ý tưởng”: Trong thời đại ngày nay sức mạnh để cho bất kỳ cá nhân, thiết thế, đất nước đi lên phải bắt đầu từ việc “đẻ” ra càng nhiều ý tưởng mang tính táo bạo, đột phá càng tốt. Cái này cũng giống như câu các cụ nhà ta đúc kết từ lâu: “một người biết lo bằng kho người biết làm”, nhưng chưa được hậu duệ học và làm đến nơi đến chốn. Quả thực, trong thời đại ngày nay, cái quan trọng tạo ra sự khác biệt, tạo ra sự bứt phá là phải là ý tưởng, hiện thực hóa ý tưởng và kinh doanh ý tưởng. Nếu có ý tưởng tốt thì hoàn toàn có thể thuyết phục và thu hút vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm. Thiếu lao động thì có thể ra thị trường trong hoặc ngoài nước thuê mướn. Nhưng không có ý tưởng táo bạo thì chỉ nội đi làm, gia công thuê đến bị vắt kiệt sức cũng không đủ ăn.
  • Phù hợp với đặc tính đất nước Israel là nhân lực có hạn, nhưng lại rất thông minh và trong kỷ nguyên kỹ thuật số (Digital Era) thì cái chính là có lực lượng “tinh” và “chuyên” , chứ không phải là “lượng”. Các công ty “Start-up” về công nghệ khác với các công ty sản xuất và dịch vụ là thường sử dụng rất ít lao động (khoảng từ 8-25, và tối đa là 40-50 người), chủ yếu là các kỹ sư mới ra trường. Tuy gọi là mới ra trường, nhưng kỹ sự của Israel thường “già dặn” hơn kỹ sự trẻ mới ra trường của các nước khác cả về tuổi đời lẫn sự từng trải do hầu hết sinh viên Israel đều trải qua đời quân ngũ trước khi vào đại học. Sự kết hợp hoàn hảo giữa sự chín muồi về tuổi tác, bản lĩnh “gan lì” của người lính, tính sáng tạo của một nhà khoa học, sự khao khát tìm lợi nhuận hầu như đều tồn tại trong mỗi CEO của các công ty Start-up và do vậy giúp họ vững tin trước các sóng gió trên thương trường.
  • Các kỹ sư công nghệ sau khi tốt nghiệp ra trường đều được khuyến khích cả tài chính lẫn chính sách để mở các công ty Start-up, và được khích lệ bởi các tấm gương thành công như phần mềm dẫn đường WAZE bán lại cho Google được 1,3 tỷ USD. Nếu như thất bại, các kỹ sư trẻ này đi làm cho các công ty đa quốc gia ngay tại Israel hay làm việc tại nước ngoài. Sau một thời gian tích lũy cả thêm kinh nghiệm và xây dựng các công ty mới, và lần này khả năng thành công của họ lớn hơn rất nhiều. Ở Israel, Văn phòng khoa học gia trưởng OCS (Office of the Chief Scientist) thay mặt chính phủ xem xét va quyết định hồ sơ vay vốn ưu đãi của các công ty khởi nghiệp vì nhiều ngân hàng sợ rủi ro không dám đầu tư và số tiền này có thể lên tới 500.000 USD. Đầu tư cho chính phủ dành cho các công ty khởi nghiệp ở Israel tính theo đầu người hiện vào khoảng 270 USD (mức cao nhất thế giới), so với 170 USD của Mỹ. Trong hầu hết các trường hợp OSC chọn cách đầu tư, và hy vọng nếu công ty khởi nghiệp thành công thì họ sẽ thu vốn và lời từ bán cổ phần, còn nếu công ty thất bại thì họ coi đó là một khoản đầu tư rủi ro. Bên cạnh đó, hiện rất nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm tiến hành đầu tư vào các công ty khởi nghiệp Israel theo hình thức trên. Nếu tính theo số tiền đầu tư/đầu người, số tiền Israel thu hút được từ các quỹ mạo hiểm này lớn gấp 30 lần so với châu Âu.

Di sản lịch sử

Đến Jerusalem, thăm khu phố cổ (chỉ vẻn vẹn 1km2), được nghe và xem về các bằng chứng lịch sử khu vực này trong suốt trên 3000 năm mới cảm nhận được tính phức tạp của các vấn trong nội bộ một tôn giáo, giữa ba tôn giáo (Do Thái, Thiên chúa và Đạo Hồi) với nhau, và các biến động lịch sử, các cuộc chiến tôn giáo, rồi các cuộc thay ngôi, đổi chủ. Chẳng hạn:

  • Bất cứ một con đường, một nhà thờ, một ngôi nhà, một khu dân cư… đều đậm nét lịch sử hình thành và tồn tại riêng. Các bằng chứng khảo cổ học trong khu Thành cổ không chỉ trùng khớp với những gì ghi trong kinh thánh của cả 3 tôn giáo, mà còn ẩn chứa trong đó các giai tầng văn hóa, lịch sử tầng tầng, lớp lớp;
  • Ba tôn giáo lớn (Do Thái, Thiên chúa và Đạo Hồi) tuy kình chống nhau quyết liệt, nhưng vẫn tìm cách chung sống hòa bình. Như căn phòng có bữa tiệc cuộc cùng (trước khi Đức chúa bị hành hình) không chỉ có các kiến trúc của đạo Thiên chúa, mà còn các dấu ấn Hồi giáo như nơi làm lễ hướng về Mecca của người Hồi giáo. Ví dụ, như ngay phía dưới căn phòng này là Mộ của Vua David – Vị Vua có công thống nhất đất nước Do Thái. Với cả 3 tôn giáo đều có sự hiện diện trong căn phòng và tòa nhà này, vậy nếu phân chia sở hữu thì sẽ chia như thế nào? Một ví dụ khác là Nhà thờ Hồi giáo mái vàng (Dome of the Rock) được xem là một trong 3 nơi thiêng liêng của người Hồi giáo, nhưng lại đươc xây trên tảng đá linh thiên của người Do Thái ngay sau khi Ngôi đền của họ bị “đốt”.
  • Việc thảo luận về quy chế của Jerusalem không thể chỉ diễn ra giữa Palestine và Israel, mà còn phải tính đến thái độ của cả 1 tỷ người theo đạo Thiên chúa sống rải rác khăp nơi trên thế giới vì họ cũng coi đây là “đất tổ” của mình. Đáng chú ý là ngay Nhà thờ Mộ chúa trong thành cổ Jerusalem có tên là “Church of the Holy Sepulchre”, gồm 6 nhánh của Thiên chúa giáo như Nhà thờ Ethiopia, Nhà thờ Ai cập, Nhà thờ chính thống Armenia hay Nhà thờ chính thống Nga… Như vậy, để hiểu được văn hóa chính trị Trung Đông thì điều cốt yếu là phải hiểu được các vấn đề tôn giáo ở khu vực.

Trở lại vấn đề Israel, hầu hết những người nghiên cứu chính trị Israel, nắm được tư duy Do Thái, và tính phức tạp trong cấu trúc kinh tế, chính trị, xã hội và tôn giáo Israel đều có nhận định chung là: tuy chỉ có hơn 8 hơn triệu dân, nhưng hệ thống chính trị của Israel được xem là hệ thống chính trị phức tạp nhất thế giới. Điều này là do:

  • Người Do Thái rất thông minh, rất nhiều ý kiến;
  • Cấu trúc hệ thống chính trị Israel buộc các chính trị gia phải tiếp xúc, lắng nghe và đưa tiếng nói của người dân (hoặc các đại diện của người dân) khi ra các quyết sách;
  • Bất kỳ người Israel nào cũng cho rằng mình có khả năng nắm cương vị cao nhất của đất nước. Họ thậm chí còn chất vấn gay gắt ông Thủ tướng về các quyết định của mình, cho rằng “ông Thủ tướng cũng đi tỵ nạn ở châu Âu như chúng tôi, vậy tại sao ông ấy lại gạt bỏ chúng tôi trong các quyết định của mình”.

Trước đây khi đọc câu nói của bà Golda Meir (vị nữ Thủ tướng dân cử thứ ba của thế giới) khi gặp Tổng thống Nixon rằng, “ông là Tổng thống của 150 triệu dân, còn tôi là Thủ tướng của 6 triệu Thủ tướng” thì chưa thực sự biết hàm ý câu này. Giờ mới thấy rõ ý câu này là làm chính trị ở Israel khó hơn ở Mỹ và Mỹ không nên hiểu, không ép Israel một cách quá mức.

TS. Hoàng Anh Tuấn là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược và Ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Bài viết tổng hợp những ghi chép đăng lần đầu trên trang Facebook của tác giả về chuyến công tác tới Israel gần đây, thể hiện quan điểm cá nhân, không phải quan điểm của cơ quan nơi tác giả công tác.

– See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/10/09/tim-hieu-israel-va-dan-toc-do-thai/#sthash.7drXPvGz.dpuf

Do Thái giáo

Những chuyện giật mình ở “dân tộc thông minh”

“Có một lời nguyền của Chúa Jesus đối với Judas, tông đồ người Do Thái đã phản ông ấy, rằng nếu dân tộc Do Thái tụ tập lại ở một nơi, thì thế giới sẽ diệt vong. Người Israel có thể không tin ở lời nguyền đó, nhưng rất ý thức xử sự với thế giới theo cách đó”

 

LTS:Người ta thường nói “ngoại giao chính trị thúc đẩy ngoại giao kinh tế”. Nhưng trong một số ít trường hợp, từ mối quan hệ kinh tế là nảy sinh nhu cầu về chính trị. Mối quan hệ của Việt Nam với Israel, được thiết lập cách đây đúng 20 năm, cũng bắt nguồn từ chuyến đi trước đó 2 năm của một chuyên gia kinh tế, Tổng Thư ký Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI, Phạm Chi Lan.

Nhân kỷ niệm 20 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Israel và sứ quán Israel được mở ở Việt Nam, BBT xin giới thiệu cuộc phỏng vấn với bà Phạm Chi Lan.

Nước nhỏ mà dám đánh nhau với mấy nước lớn

Isael, Phạm Chi Lan, kinh tế, khoa học kỹ thuật

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan (Ảnh Hoàng Ngọc)

Chuyến đi tại sao lại được tổ chức, thưa bà?

Tháng 8.1991, chúng tôi trình được đề án tổ chức chuyến đi khảo sát Israel. Đề án của chúng tôi được ông Vũ Khoan, Thứ trưởng Ngoại giao, ủng hộ. Văn phòng Chính phủ, với toàn những người đầu óc mở và cải cách, cũng rất ủng hộ, để thông qua Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) bắt tay với các công ty Israel.

Sở dĩ có đề xuất như vậy, bởi vì trước đó, VCCI có tiếp xúc với một số công ty Israel trong khu vực, từ Singapore và Hồng Kông. Họ đã vào Việt Nam từ năm 1988 để xem xét xem Việt Nam đổi mới thế nào, có cơ hội gì làm ăn hay không.

Hồi đó, họ vào Việt Nam với sự cho phép của chính phủ (đối với thị trường nhạy cảm), nhưng rất may trong không khí vừa đổi mới, lại vừa chịu sự cấm vận của Mỹ, chính phủ lại rất thoáng, cho phép mở những kênh mới là Hàn Quốc, Đài Loan và Israel – 3 kênh Việt Nam không có quan hệ ngoại giao chính thức – qua kênh VCCI là tổ chức phi chính phủ.

Sau những lần làm việc với các doanh nghiệp Israel từ khu vực, chúng tôi tiến bước nữa là mời Phòng Thương mại Israel từ Tel Aviv sang Việt Nam, vào năm 1989. Vào Việt Nam, thấy cũng có triển vọng, họ mới mời lại VCCI sang đó.

Tôi được làm trưởng đoàn. Đoàn có thêm một người của Bộ Ngoại giao, ông Nguyễn Quang Khai (sau này là đại sứ Việt Nam tại Israel), để tham dò khả năng mở quan hệ, cũng như phản ứng của các nước Ả rập ở Trung Đông, và một người của Bộ Thương mại, ông Ngô Luân, phụ trách về thi trường Trung Đông và Bắc Phi, về khả năng mở quan hệ thương mại.

Sang bên đó, cơ quan nào đã đón mình?

Bộ Ngoại giao là chủ yếu. Người tiếp chúng tôi là Tổng Vụ trưởng Bộ Ngoại giao J. Hadass, người sau đó một năm rưỡi đã sang thăm Việt Nam.

Chúng tôi cũng thăm nơi làm việc của David Matnai, người 2 năm sau trở thành đại sứ đầu tiên của Israel tại Việt Nam. Ông này phụ trách về Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, và ông này rất thích Việt Nam. Vào phòng ông này thấy có tượng Hồ Chí Minh. Và trong các bức tranh thì có bức chụp Đại tướng Võ Nguyên Giáp (kiểu như áp phích của mình), và một số cờ Việt Nam nho nhỏ.

Chúng tôi hỏi tại sao ông có những thứ đấy, ông ấy nói rằng đoàn Phòng Thương mại Israel sang Việt Nam về đã cho ông, vì biết ông thích Việt Nam. Khi Phòng Thương mại Israel sang Việt Nam, ông đã lo thủ tục cho họ. Ông dặn phải mang về những kỷ niệm về hai nhân vật mà ông rất yêu quí là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp.

Họ tìm thấy sự tương tự…

Đúng thế. Chúng tôi có tiếp xúc với một số công ty, họ thấy Việt Nam là gần gũi với họ nhất. Bởi vì Việt Nam là nước nhỏ mà dám đánh nhau với mấy nước lớn và chiến thắng, trong khi đó Israel là một nước nhỏ, bị bao vây bởi thế giới Ả rập hơn 300 triệu dân, và họ cũng chiến thắng.

Tức là Israel không bị ám ảnh bởi mặc cảm rằng Mỹ là đồng minh của Israel, và Việt Nam đã thắng Mỹ?

Đúng thế. Thậm chí, họ còn không biểu hiện cái mặc cảm là Việt Nam thân với Liên Xô, vốn là nước ủng hộ Ả rập trong cuộc chiến với Israel. Họ cũng không hề đả động tới những tuyên bố trước nay của Việt Nam về họ trong cuộc chiến với thế giới Ả rập. Họ cứ nhắc đi nhắc là điểm tương đồng giữa hai nước trong thế giới hiện đại là cùng là nước nhỏ mà không sợ nước lớn.

Chính ông Tổng Vụ trưởng đã nhắc đi nhắc lại cái ý rằng Israel muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, bởi 2 nước như thế này phải gắn bó với nhau, để cùng phát triển.

Và kết quả của chuyến đi là mở ra mối quan hệ về ngoại giao năm 1993?

Trên đường về, tôi nói với ông Khai là nhiệm vụ của chúng tôi là phải báo cáo cấp trên để triển khai mối quan hệ chính thức, bởi có quan hệ chính thức thì mới làm ăn thuận lợi được. Tôi thấy có rất nhiều thứ Israel có thể trao đổi, làm ăn với Việt Nam.

Isael, Phạm Chi Lan, kinh tế, khoa học kỹ thuậtXe tăng chiến đấu chủ lực nâng cấp T-55M3 -gói nâng cấp mạnh nhất của T-55 tại
Việt Nam được thực hiện với sự hợp tác giúp đỡ của Israel. Ảnh Internet

Điều làm tôi giật mình

Trong khi đó, thái độ của Việt Nam với Israel thế nào?

Trước khi chúng tôi đi, thông tin ở Việt Nam về Israel nói chung ít, và có thì nói chung là xấu. Lý do tại sao thì anh biết rồi đấy.

Dù rằng tôi không đi Israel với trang bị ban đầu bằng thông tin trên báo chí, bởi làm ở VCCI ở những năm Việt Nam còn rất khép về thông tin, chúng tôi có thuận lợi lớn là có những kênh để tìm kiếm những thông tin khác với thông tin được cung cấp một chiều, qua Israel tôi vẫn thấy ngỡ ngàng, nếu không nói là giật mình.

Một trong những điều đầu tiên làm tôi giật mình là thông tin về lịch sử của Israel, khi trong nước chỉ có khoảng 5 triệu người, trong khi khoảng 7 triệu người sống ở các nước khác trên thế giới. Tôi được biết rằng có một lời nguyền của Chúa Jesus đối với Judas, tông đồ người Do Thái đã phản ông ấy, rằng nếu dân tộc Do Thái tụ tập lại ở một nơi, thì
thế giới sẽ diệt vong.

Người Israel có thể không tin ở lời nguyền đó, nhưng rất ý thức xử sự với thế giới theo cách đó, tức là không tụ tập dân tộc ở một nơi. Bằng cách đó, người Israel đã giúp cho dân tộc mình biến khó khăn, thách thức, thành thuận lợi, tức là khả năng toàn cầu hóa rất cao.

Điều giật mình thứ hai là chúng tôi tiếp xúc với một Tướng Israel đã nghỉ hưu, Tổng Tư lệnh của quân đội Israel đã chiến thắng người Ả rập ở Cao nguyên Golan năm 1967. Ông này nghe tin có đoàn Việt Nam sang đã khẩn khoản xin được gặp chúng tôi.

Trong cuộc gặp đấy, ở một quán cà phê, ông nói rằng động lực tinh thần cho thắng lợi của Israel chính là hình ảnh của Việt Nam ở Điện Biên Phủ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Khi chỉ huy quân sĩ chiến đấu trong vòng vây của kẻ địch, ông chỉ nghĩ rằng người Việt Nam đã đạt được thắng lợi như vậy trong cuộc chiến với người Pháp, và Israel cũng phải cố gắng đạt được điều tương tự.

Chúng tôi rất ấn tượng khi nghe câu chuyện đó, và rất thiết tha mời ông có dịp sang Việt Nam. Ông ấy nói rằng đó cũng là mong muốn của ông, và ông muốn gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Rất tiếc sau đó ít lâu, các bạn Israel báo cho tôi rằng ông đã bị mất vì đau tim.

Trong chuyến đi đó, bà đi những nơi nào, tiếp xúc những ai, và mở ra những cơ hội gì?

Trong khoảng 5 ngày ở đó, chúng tôi tiếp xúc với Bộ Ngoại giao, Phòng Thương mại, và mấy tập đoàn công ty lớn.

Họ giới thiệu với chúng tôi những thế mạnh của họ gồm công nghệ cao, công nghệ thông tin, y tế, và nông nghiệp, ở trình độ phát triển rất cao.

Người Israel giải thích với tôi rằng dân tộc Israel mãi về sau này mới được ở cùng với nhau (1948), đặc biệt sau sự thảm sát của Phát xít Đức, nên muốn tồn tại được phải rất mạnh khoẻ, đặc biệt ở vùng đất sa mạc, chính vì vậy người Israel có một trình độ y tế cao.

Thế còn công nghệ cao thì ý chí họ rất đơn giản là ở vùng đất hoang tàn như Israel cần phải tìm một thế mạnh riêng cho mình trên cơ sở một thế mạnh là trí tuệ.

Nông nghiệp Israel phát triển được là nhờ công nghệ cao. Những người Israel đã đi Việt Nam kể rằng Việt Nam được thừa hưởng mảnh đất có ưu thế thuận lợi để phát triển nông nghiệp, nhưng không hiểu tại sao chất lượng quá thấp, và Israel muốn giới thiệu mô hình và các kỹ thuật cao của Israel để Việt Nam học tập.

Tôi đã đến thăm chỗ họ trồng cà chua, năng suất rất cao (50 tấn trên một héc ta, so với Việt Nam là vài tấn một héc ta). Tôi nhìn cây cà chua của họ trĩu trịt quả, loại cà chua không hột, thịt rất đặc, vỏ mỏng, nhưng rất vững chắc. “Như vậy chúng tôi mới bán sang châu Âu được với giá 2 USD một ki lô”, họ nói.

Loại cà chua này đã được nhập vào trồng ở Việt Nam, nên ở Hà Nội nhiều người cứ tưởng là cà chua Trung Quốc, vì mùa hè cũng có.

Hay họ dẫn đi thăm vườn cam, trồng bạt ngàn, trong khi đất trồng cam rất cằn cỗi. Và, lần đầu tiên, tôi đã được tham quan hệ thống tưới nhỏ giọt của họ. Sau này, cách đây ba năm, Đặng Lê Nguyên Vũ mới đưa về, và thử nghiệm cho người nông dân trồng cà phê. Vừa tiết kiệm nước, tiết kiệm phân, tiết kiệm sức lao động, vừa điều tiết được những chất cần thiết cho cây trong từng thời kỳ một.

 

Huỳnh Phan(Thực hiện)

Do Thái giáo

Nguyên Nhân Thành Công Của Những Người gốc Do Thái ???

 

Nguyên Nhân Thành Công Của Những Người gốc Do Thái ???

  

Cả một dân tộc giỏi làm kinh tế

Chúng ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là Hebrew) là dân tộc thành công nhất trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng có lẽ ít ai biết họ thực ra còn cực kỳ xuất sắc trên mặt kinh tế, tài chính, thương mại.

Họ đạt được những thành tựu đó trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: toàn bộ dân tộc Do Thái buộc phải sống lưu vong phân tán, “ăn nhờ ở đợ” suốt 2000 năm qua trên khắp thế giới, đi tới đâu (trừ ở Mỹ) cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi, tước đoạt, thậm chí hãm hại, tàn sát vô cùng dã man, bị cấm được sở hữu bất cứ tài sản cố định nào như nhà đất, tài nguyên thiên nhiên ….

Chỉ cần lướt các mạng tìm kiếm là ta có thể sưu tầm được ngay một số thành tựu cực kỳ gây ấn tượng của người Do Thái trên lĩnh vực kinh tế, dù là về mặt lý thuyết hay thực tiễn. Hãy xem một số số liệu sau đây:

Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là quyết định tới quá trình trình tiến hóa của nhân loại:

– Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra “giá trị thặng dư” và xây dựng học thuyết kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là một trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);

– Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử làm Chủ tịch Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức Cục Dự trữ liên bang Mỹ) nắm quyền sinh sát lớn nhất trong giới tài chính Mỹ, thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn cầu;

– 41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người Do Thái (cộng 13 người), chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman (2008) … là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng…

Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người :

– Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; đầu thế kỷ XX do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã cho chính phủ Nhật Bản vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905. Nhớ ơn này, trong đại chiến II Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở Trung Quốc tuy đồng minh số Một của Nhật là phát xít Đức Hitler có nhờ Nhật “làm hộ” chuyện ấy.

– Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ năm 2007, với tài sản cá nhân lên tới 26,5 tỷ USD.

– George Soros giàu thứ 28 ở Mỹ (7 tỷ USD) nổi tiếng thế giới hiện nay về ý tưởng đầu tư và làm từ thiện quy mô lớn.

– Michael Bloomberg có tài sản riêng 5,1 tỷ USD, làm thị trưởng thành phố New York đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế, đang được mong đợi sẽ là ứng cử viên Tổng thống Mỹ khóa tới…

Cộng đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do Thái trên toàn thế giới là quần thể thiểu số thành công nhất ở Mỹ dù chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21 trong số 40 nhà giàu đứng đầu bảng xếp hạng của tạp chí Forbes là người Do Thái, và cộng đồng Do Thái có mức sống bình quân cao hơn mức trung bình của nước này.

Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính Mỹ, tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Nhờ thế trên vấn đề Trung Đông chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ Israel.

Nước Israel nhỏ bé với hơn 5 triệu người Do Thái tuy ở trên vùng sa mạc khô cằn nhưng nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật đều rất phát triển, dân rất giàu, GDP đầu người năm 2003 bằng 19.000 USD. Nhờ sức mạnh mọi mặt ấy, quốc gia nhỏ xíu này đã đứng vững được trong làn sóng hằn thù và công kích của cả trăm triệu người A Rập xung quanh …

Nguyên nhân do đâu?

Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như vậy? Lịch sử đã chứng minh, yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc ấy.

Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000 năm qua.

Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị tiêu diệt hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn lên hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ.

Muốn vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew Bible) – kinh điển này hơn 10 thế kỷ sau được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các nhà sáng lập Ki-tô giáo viết. Ta cũng cần xem xét một kinh điển nữa của đạo Do Thái gọi là Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho tới thời nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.

Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con người.

Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi.

Với phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành; ngoài ra họ chú trọng truyền đạt cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề. Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ, thể hiện ở chỗ họ chiếm tỷ lệ cao nhất trong sinh viên các trường đại học hàng đầu cũng như trong giới khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật.

Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Đây là một điểm độc đáo khác hẳn đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo Nho, ta cần phân tích thêm.

Có lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau (đấu tranh giai cấp) và chiến tranh giữa các quốc gia. Heghel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học cổ điển Đức từng nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền (sở hữu) về tài sản.” Chính Marx cũng nói: Chủ nghĩa cộng sản “là sự phục hồi chế độ sở hữu của cá nhân trên một hình thức cao hơn”.

Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài sản, đều giàu có thì khi ấy mới có sự bình đẳng đích thực, người người mới có nhân quyền. Một xã hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có.

Triết gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Chúa” (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên thiên đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô thân cận với người nghèo khổ. Nho giáo và đạo Phật lại càng khinh thường tài sản, tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.

Ngược lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này rất quý” (Genesis 2:12). Ý tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do Thái, họ đều muốn giàu có.

Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn 3000 năm khi vua Ai Cập bồi thường cho vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái là Abraham, khiến ông này “có rất nhiều súc vật, vàng bạc” (Genesis 13:2). Thượng Đế Jehovah yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài. Thượng Đế cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật.

Những người xuất thân gia đình giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David … đều được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập được công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và đều trở thành lãnh đạo, vua chúa. Ngược lại, văn hóa phương Đông thường ca ngợi phẩm chất của những người nghèo.

Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái.

Họ coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn.

Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại – về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố định nào.

Người ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là bản năng kiếm tiền; thứ hai là bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền – họ là cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ ngày nay chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn (còn ai kiếm tiền dễ hơn ngành ngân hàng?).

Tuy vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê bai. Bạn nào đã đọc tiểu thuyết Ai-van-hô (Ivanhoe) của Walter Scott chắc còn nhớ mãi hình ảnh ông lão Do Thái Isaac (I-sắc) đáng thương, bố của nàng Rebeca xinh đẹp và thánh thiện, lúc nào cũng khư khư giữ túi tiền và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo báng khinh bỉ thậm tệ. Kịch của Shakespeare đưa ra nhiều hình ảnh khiến người ta có cảm giác người Do Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá. Tập quán cho vay lãi của người Do Thái bị nhiều nơi lên án.

Hệ thống cửa hiệu của người Do Thái ở Đức là đối tượng bị Quốc Xã Hitler đập phá đầu tiên hồi thập niên 30. Người Đức có câu ngạn ngữ “Chẳng con dê nào không có râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành.” Karl Marx từng viết: Tiền bạc là vị thần gắn bó với người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự xóa bỏ chủ nghĩa Do Thái.

Người Do Thái có đóng góp rất lớn về lý thuyết và thực hành trong việc xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Đạo Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con người; nói “nặng nề” vì người giàu có trách nhiệm to lớn đối với xã hội: họ không được bóc lột người nghèo mà phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện. Những người Do Thái giàu có luôn sống rất giản dị, tiết kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng cúng 4 tỷ USD (trong tổng tài sản 7 tỷ) cho công tác từ thiện. Không một nhà giàu Do Thái nào không có quỹ từ thiện của mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng đồng Do Thái lại cùng giàu có như thế.

Tại sao người Do Thái thông minh?

Cuốn START-UP NATION, của Alphabook đăng một số bài viết liên quan tới những câu chuyện về nền kinh tế thần kỳ của Israel. Đính kèm là một bài viết “quảng cáo”.

” Người Do Thái là dân tộc thông minh nhất thế giới, họ dường như được sinh ra là để làm chủ thế giới này”. Có bao giờ bạn tự hỏi tại sao họ lại thông minh như vậy? Tại sao họ lại được sinh ra với quá nhiều ưu việt như thế? Có phải tất cả đều là tự nhiên? Liệu Việt Nam chúng ta có thể tạo ra những thế hệ ưu việt như thế không?
Tất cả câu hỏi trên đều có thể giải đáp được, ngoại trừ câu hỏi cuối cùng vì nó sẽ được trả lời bởi chính các bạn, những con người của dân tộc Việt Nam. Bài viết dưới đây được lược dịch từ luận án của một tiến sĩ nước ngoài với tiêu đề gốc là “Why Jews Are Intelligent” (tạm dịch là “Vì sao người Do Thái thông minh”).
Trước hết xin được cung cấp một số thông tin tìm hiểu được về IQ (Intelligence Quotient) của người Do Thái. Hiện nay các nhà nghiên cứu về giáo dục và tâm lý tin rằng IQ trung bình của người Do Thái vào khoảng từ 110. Để so sánh thì IQ trung bình của thế giới là 100 và IQ trung bình của người Việt Nam là 94. Cách biệt sẽ không rõ ràng nếu chỉ nhìn vào những con số này. Mọi thứ sẽ trở nên thực sự khác biệt nếu như ta so sánh đến tỉ lệ (“thiên tài” IQ>=140 – cũng là mức yêu cầu trong số dân).

Với IQ TB của dân số là 94 thì tỉ lệ “thiên tài” sẽ là 1/924 hay 0,1%, tỉ lệ này sẽ là 1/261 hay 0,4% nếu IQ TB là 100. Sự khác biệt sẽ cực lớn vì với mức IQ TB là 110 như người Do Thái thì tỉ lệ những người có IQ đạt mức thiên tài này sẽ lên tới 2,3% (nghĩa là cứ 100 người sẽ có hơn 2 thiên tài).

Bài này tôi lược dịch và tổng hợp từ nhiều nguồn, nhân dịp nghe chuyện người Do Thái và vì thầy hướng dẫn hiện tại của tôi là một Giáo sư người Do Do Thái. Để mở đầu, xin được trích dẫn rằng, dân số Do Thái ở Anh có tên tuổi khiến tôi đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

Do Thái trên thế giới hiện nay vào khoảng xấp xỉ 13 triệu người (tức là khoảng 0.21% dân số thế giới – số liệu năm 2000), tức là cứ 470 người thì có 1 người Do Thái. Vậy nhưng, vào khoảng giữa thế kỷ 19, 1/4 các nhà khoa học trên thế giới là người Do Thái, và tính đến năm 1978, hơn một nửa giải Nobel rơi vào tay người Do Thái. Như vậy có đến 50% đóng góp cho sự tiến bộ của loài người chỉ do 0.21% dân số đảm nhiệm.
Những tên tuổi lớn của thế kỷ 20 có thể kể đến như bộ óc thế kỷ Albert Einstein, Sigmund Freud, Otto Frisch, .v.v. đều là người Do Thái. Dù không phải là chủng tộc lớn, vậy nhưng không một nhóm chủng tộc nào có thể sánh được với người Do Thái về khả năng và thành tích vượt trội. Kết hợp với những tính cách di truyền của người Do Thái như tham vọng, ham hiểu biết, tích cực, trí tưởng tượng phong phú, bền bỉ, sự thông minh của người Do Thái thực sự đã là đòn bẩy khiến người Do Thái đứng đầu trong tất cả các lĩnh vực cuộc sống.

Những tên tuổi Do Thái hiện nay có thể kế đến là nhà tài phiệt George Soros (người có thể làm khuynh đảo thị trường tài chính thế giới, được xem là người đứng sau sự sụp đổ hệ thống chính trị ở Đông Âu và khủng hoảng tài chính Châu Á 1997); các cựu và chủ tịch Ngân hàng thế giới World bank đương nhiệm đều là người Do Thái ví dụ như James Wolfensohn, Paul Wolfowitz, Robert Zoellick. Diễn viên điện ảnh thông minh và có học thức thuộc hàng top Hollywood hiện nay là Natalie Portman cũng là người Do Thái, vừa theo học đại học Havard và tham gia bộ phim siêu phẩm Chiến tranh giữa các vì sao”.
Trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống như kỹ thuật, âm nhạc, khoa học và kinh doanh, 70% các hoạt động kinh doanh thế giới hiện nay đều do người Do Thái nắm giữ. Các lĩnh vực kinh doanh nổi bật như mỹ phẩm, thời trang, thực phẩm, vũ khí, khách sạn, công nghiệp phim ảnh (kể cả Hollywood và các trung tâm điện ảnh khác).

Trong năm thứ 2 đại học, vào tháng 12 năm 1980, tôi định đến California và tôi nảy ra ý tường, tôi tự hỏi sao trời lại cho họ những khả năng siêu phàm như vậy, liệu có điều gì trùng hợp chăng, loài người có thể tạo ra những người giống họ như việc sản xuất hàng hóa từ nhà máy không? Luận văn của tôi mất 8 năm để tập hợp thông tin từ tất cả các nguồn tin chính xác như đồ ăn, văn hóa, tôn giáo, sự chuẩn bị khi mang thai, .v.v. và tôi đem so sánh với những chủng tộc khác.

Người Do Thái ở Mỹ
Hãy bắt đầu bằng việc chuẩn bị cho thai kỳ. Ở Israel , điều đầu tiên tôi nhận thấy đó là người mẹ khi mang thai sẽ thường xuyên hát, chơi đàn, và luôn cố gắng giải toán cũng chồng. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy người mẹ luôn mang theo sách toán và đôi khi tôi giúp cô giải bài. Tôi hỏi cô, ‘việc này có phải là giúp cho thai nhi?’. Và cô trả lời, ‘Đúng vậy, tôi làm thế là để đào tạo đứa trẻ từ khi còn trong bụng mẹ như vậynó sẽ trở nên thông thái về sau.’ Và cô tiếp tục làm toán cho đến khi đứa trẻ được sinh ra.
Một điều khác tôi nhận thấy là đồ ăn. Người mẹ rất thích ăn hạnh nhân (almonds), chà là (dates) cùng sữa tươi. Bữa trưa cô ăn bánh mỳ và cá (không ăn đầu), salad trộn với hạnh nhân và những loại hạt khác vì họ tin rằng thịt cá tốt cho sự phát triển trí não nhưng đầu cá thì không. Thêm vào đó, theo văn hóa của người Do Thái, người mẹ khi mang thai sẽ cần phải uống dầu gan cá. Khi tôi được mời đến dùng bữa tối, tôi thấy rằng họ luôn dùng cá (phần thịt ở mình cá), họ không ăn thịt vì họ tin rằng thịt và cá khi ăn chung sẽ không tốt cho cơ thể.
Salad và các loại hạt là điều bắt buộc, đặc biệt là hạnh nhân. Họ luôn ăn hoa quả tươi trước bữa chính. Lý do là vì họ tin rằng việc ăn bữa chính trước rồi hoa quả sẽ khiến chúng ta buồn ngủ và khó tiếp thu bài ở trường.
——
Nguồn: ST

http://www.gocnhinalan.com/bai-cua-khach/nguyn-nhn-thnh-cng-ca-nhng-ngi-gc-thi.html

Do Thái giáo

Vì sao Người Do thái thông minh nhất thế giới?

 

Ở Việt Nam, một đứa trẻ đi học về mà được cha mẹ quan tâm thường sẽ được hỏi “Hôm nay con được mấy điểm?”, trong khi trẻ Do Thái nhận được câu hỏi “Hôm nay con có hỏi gì thầy cô không?”

 

Người Việt chúng ta thường tự hào là dân tộc thông minh và hiếu học. Lòng tự tôn đó dễ khiến ta coi mình là nhất rồi, không cần học tập ai nữa, thành thử hóa ra có hại cho chí tiến thủ của dân tộc. Người Việt có thể thông minh, hiếu học, nhưng cũng nhiều dân tộc khác thông minh, hiếu học hơn, trong đó có dân tộc Do Thái. ..

Nhà bác học Albert Einstein là người gốc Do Thái

Thông minh như người Do Thái

Hãy nhớ câu khen “Thông minh như Do Thái”. Quả là dân tộc Do Thái, dân tộc có chỉ số thông minh (IQ) trung bình 110 – đặc biệt là dòng Do Thái từng sinh sống vùng sông Rhin (Đức) sau đó di cư sang các nước châu Âu rồi Bắc Mỹ – là hết sức nổi bật về trí tuệ.

Nếu IQ trung bình trên thế giới là 100, nhưng dân tộc Do Thái có IQ trung bình là 110 thì điều này có ý nghĩa gì ?Một dân tộc A có chỉ số IQ trung bình là 100 thì tỉ lệ người có khả năng thành thiên tài sẽ là 0,4%, nhưng với mức 110 như người Do Thái thì tỉ lệ những người có khả năng thành thiên tài này sẽ lên tới 2,3%, nghĩa là cứ 1.000 người sẽ có 23 thiên tài, cao gấp 6 lần mức của dân tộc A kia.

Vậy cho nên chỉ với 13 triệu người – chỉ bằng 0,2% dân số thế giới, số người Do Thái hay người có gốc Do Thái thành danh lại nhiều hơn bất kỳ dân tộc nào trên thế giới. Đầu thế kỷ 20, ngành khoa học hạt nhân non trẻ còn được biết đến dưới cái tên là “khoa học Do Thái”.

Albert Einstein, nhà vật lý học lớn nhất thế kỷ 20 – cha đẻ của thuyết tương đối – là người gốc Do Thái. Giải Nobel vật lý được “cha truyền con nối” bởi hai cha con nhà vật lý học Niels Bohr (Henrik David và Aage) là người gốc Do Thái. Trong nửa cuối thế kỷ 20, người gốc Do Thái giành được 29% số giải Nobel văn chương, y học, vật lý và hóa học. Tính chung trong cả thế kỷ 20, tỉ lệ này là 32%. Riêng tại Mỹ trong thế kỷ 20, nơi cộng đồng Do Thái chỉ chiếm 3% dân số thì 27% giải Nobel và 25% số giải Turing – được xem là giải Nobel dành cho những người có đóng góp xuất chúng cho ngành điện toán – đã rơi vào tay người Do Thái.

Trong cả 6 lĩnh vực được xét giải Nobel là văn chương, y sinh học, vật lý học, hóa học, kinh tế và hòa bình, chưa hề có một chủng tộc nào trên thế giới có thể sánh được với Do Thái bởi họ thành danh trên cả 6 lĩnh vực này. Đến năm 2011, chỉ riêng các nhà khoa học Israel (người Do Thái mang quốc tịch Israel – một quốc gia vỏn vẹn 7,8 triệu dân, xấp xỉ dân số TP. Hồ Chí Minh) đã giành đến… 10 giải Nobel.

Người Do Thái còn nổi tiếng khắp thế giới với tài buôn bán từ nhiều thiên niên kỷ nay. Ngân hàng Thế giới có các cựu chủ tịch và chủ tịch đương nhiệm như James Wolfensohn, Paul Wolfowitz, Robert Zoellick đều là người gốc Do Thái. Các lĩnh vực kinh doanh nổi bật như mỹ phẩm, thời trang, thực phẩm, vũ khí, khách sạn, công nghiệp phim ảnh (kể cả Hollywood và các trung tâm điện ảnh khác) do người Do Thái nắm.

Nhà phân tâm học Sigmund Freud cũng là người Do Thái. Những người chế ra vắc xin ngừa bại liệt Jonas Salk và Albert Sabin cũng có gốc Do Thái. Đến cả nhạc sĩ thiên tài như Johan Strauss – người được mệnh danh là vua nhạc valse, tác giả bản nhạc bất hủ Sông Danube xanh, hay diễn viên nổi tiếng như Natalie Portman vừa theo học Đại học Havard vừa tham gia bộ phim siêu phẩm Chiến tranh giữa các vì sao… cũng có gốc Do Thái. Karl Marx – nhà tư tưởng để lại tên của mình cho một học thuyết vĩ đại có ảnh hưởng mạnh nhất trong thế kỷ 20 cũng là người có gốc Do Thái! Quá nửa số nhà vô địch thế giới về cờ vua là người gốc Do Thái. Và còn vô số ví dụ khác.

Người Do Thái tài giỏi, điều này không ai phủ nhận nổi, nhưng nguyên nhân là gì? 

Tính hiếu học đặc biệt

Có nhiều tài liệu, công trình khoa học lý giải việc này bằng các yếu tố về gien, về hoàn cảnh lịch sử – xã hội của cộng đồng Do Thái, về tính hiếu học đặc biệt của người Do Thái. Nếu hai yếu tố đầu là các yếu tố đặc thù, không thể bắt chước được thì tính hiếu học của người Do Thái hoàn toàn có thể là tấm gương để người Việt Nam tự soi mình và noi theo. Tính hiếu học này được rèn luyện, hình thành và phát triển trong cả ba môi trường gia đình, nhà trường và xã hội.

Gia đình

Cha mẹ Do Thái vô cùng chăm lo đến việc phát triển trí tuệ của con. Bà mẹ Do Thái dạy con từ thuở còn… thai: khi mang thai, bà mẹ thường nghe nhạc, chơi đàn, hát và còn làm toán nữa cho đến khi sinh con ra. Các thai phụ làm vậy vì tin rằng cách đó sẽ làm đứa bé sau này trở nên thông minh. Người mẹ chọn ăn hạnh nhân, chà là, uống dầu cá và ăn cá nhưng tránh ăn đầu cá – thật khác với thói quen thích ăn đầu cá của nhiều người Viêt Nam, cũng vì tin rằng tất cả điều đó sẽ giúp cho con trở nên thông thái.

Từ lúc còn ẵm ngửa đứa bé, bà mẹ đã tạo cho con thói quen thích sách bằng cách dùng cái mẹo là nhỏ vài giọt mật lên cuốn sách và cho bé liếm. Khi đó, trong nhận thức non nớt của đứa trẻ, sách là cái gì đó rất ngọt ngào, hấp dẫn. Ủy ban công nghiệp thành phố New York (Mỹ) có cuộc điều tra nguồn nhân lực vào năm 1950 và nhận thấy có sự khác biệt lớn về việc đi làm công nhân giữa phụ nữ Ý với phụ nữ Do Thái.

Phụ nữ Ý thường phải đi làm và thường còn bắt con nghỉ học để đi làm phụ cha mẹ, các bà mẹ Do Thái thì không. Dù kinh tế khó khăn, họ vẫn ở nhà để nuôi dạy con, dồn hết trách nhiệm kiếm sống cho chồng, người ban ngày đi làm nhưng tối về có nghĩa vụ học và dạy cho con học. Cha mẹ Việt Nam, nhất là các gia đình ở nông thôn nên học theo các gia đình Do Thái ở điểm này. Có thể thấy ở một vài vùng miền là vùng trũng về giáo dục của nước ta, cứ gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn về kinh tế là cha mẹ bắt con bỏ học để đi làm phụ giúp mình.

Nhờ sự chăm sóc, động viên của cha mẹ mà học sinh Do Thái nổi tiếng trong trường về thành tích học tập và tính chuyên cần, khác hẳn với học sinh nhiều dân tộc khác học kiểu được chăng hay chớ và dễ dàng bỏ học để đi làm với lý do phụ giúp cha mẹ. Vào năm 1954, hệ thống trường công của thành phố New York phát hiện ra 28 học sinh có chỉ số IQ cực cao – 170 điểm, thì trong đó 24 là học sinh Do Thái. Ở Việt Nam, một đứa trẻ đi học về mà được cha mẹ quan tâm thường sẽ được hỏi “Hôm nay con được mấy điểm?”, trong khi trẻ Do Thái nhận được câu hỏi “Hôm nay con có hỏi gì thầy cô không?”. Họ quan niệm điểm không quan trọng bằng cách học, mà đã học thì phải hỏi. Người Việt mình hay ghép học với hỏi thành từ học hỏi. Điều này là rất hay, mọi gia đình nên khuyến khích con em mình đặt câu hỏi.

Nhà trường

Nhà trường Do Thái không chỉ chăm bẵm lo truyền thụ thật nhiều kiến thức lý thuyết mà còn chú ý trau dồi nhân cách học sinh. Học sinh Do Thái nào cũng phải chơi nhạc cụ piano hay violon, nhờ đó mà khả năng cảm thụ cái đẹp và sự nhạy cảm được bồi bổ.

Qua học bắn cung, bắn súng hay chạy bộ, trẻ em luyện được khả năng tập trung và tính kiên trì. Học sinh Israel dùng hai ngôn ngữ chính thức là tiếng Do Thái và tiếng Arập. Tiếng Do Thái là ngôn ngữ chính và thứ nhất của quốc gia, được đa số dân cư sử dụng. Tiếng Arập là của thiểu số người Arập và một số thành viên cộng đồng Do Thái. Tiếng Anh được dạy trong các trường học và đa phần dân cư coi đó là ngôn ngữ thứ hai.

Do đặc điểm dân cư tụ về quốc gia này vốn sinh sống từ nhiều nước nên các ngôn ngữ khác được dùng ở Israel còn có tiếng Nga, tiếng Pháp và một số ngôn ngữ khác. Thông thường, học sinh Israel có thể nói được ba thứ tiếng. Nếu thành ngữ Pháp “Một người biết thêm ngôn ngữ thứ hai thì bằng hai người” là đúng thì một trẻ em Israel sẽ có thể bằng… ba người.

Tính dạn dĩ của học sinh luôn được khuyến khích bởi người Do Thái quan niệm hỏi cũng quan trọng như trả lời. Hỏi quan trọng không kém đáp bởi đòi hỏi khả năng quan sát và suy nghĩ, công cụ quan trọng để chiếm lĩnh tri thức. Chẳng lạ gì mà người Do Thái luôn nổi bật về tính độc lập suy nghĩ và tài lập luận.

Nhà trường Do Thái rất coi trọng tính thực hành. Trong thời khóa biểu, ngoài các môn học thường gặp ở mọi nhà trường, cấp tiểu học Do Thái còn có môn kinh doanh. Từ trung học, học sinh học giảm dần các môn lý thuyết mà chuyển dần qua học cách tạo ra “sản phẩm” với các bài tập thực tế. Tất cả “sản phẩm” của học sinh dù còn ngây ngô nhưng đều là những thử thách thật sự nghiêm túc với người tạo ra chúng và những sản phẩm có ý tưởng tốt có thể được giới thiệu lên các viện hay trường đại học để khai thác.

Trong khi đó thì cách dạy – cách học và nội dung học nhà trường của Việt Nam từ phổ thông đến đại học đều chăm bẵm nhồi nhét cho học sinh lý thuyết suông, song người học khi ra đời thì lóng ngóng không biết áp dụng thế nào hoặc có khi lại còn không muốn áp dụng.

Xã hội

Xã hội Do Thái là một xã hội đặt trí tuệ vào bậc cao nhất trong thang giá trị. Do vậy mà cứ điều gì có hại cho trí tuệ là người Do Thái cố tránh, có lợi cho trí tuệ thì họ cố làm, từ chuyện “vặt” như hút thuốc lá đến chuyện trọng đại như lập gia đình. Người Do Thái rất bài trừ thuốc lá, cho nên dù là khách quý vào nhà mà hút thuốc cũng sẽ bị chủ nhà lịch sự mời ra ngoài. Đơn giản bởi các nhà khoa học Do Thái chứng minh rằng nicotine trong thuốc lá làm thoái hóa tế bào não.

Hãy nhìn ra xã hội Việt Nam, thuốc lá bán khắp nơi và số người hút không hề giảm sau bao lời cảnh báo về tác hại của thuốc lá; ở nhà thì đàn ông tự do hút thuốc, tự do đầu độc não con em mình bằng nicotine. Người Do Thái có uống rượu nhưng rất chừng mực vì sợ uống nhiều sẽ bị dư luận xã hội chỉ trích, sợ bị nhà thờ trừng phạt, sợ hại trí tuệ bởi lượng rượu uống kiểu người nghiện sẽ làm chết các tế bào não. Rượu cồn là thứ thuốc độc thực sự, vậy mà ở Việt Nam, các nhà máy bia cứ đua nhau mọc lên và mở rộng sản xuất, nên người Việt Nam thuộc loại có thứ hạng cao trên thế giới về số lít bia rượu tiêu thụ theo đầu người; trong nhà, ngoài quán, người Việt ta cứ ép nhau, thách nhau uống, xem có tửu lượng cao là thành tích, không hề cân nhắc hậu quả mà mình cùng vợ con, cháu chắt và xã hội sẽ phải gánh.

Xã hội Do Thái từ rất sớm đã rất coi trọng việc xóa mù chữ, coi trọng sách và người có học thức. Dân tộc Do Thái là dân tộc đầu tiên trên thế giới – từ năm 64 đầu Công nguyên – mà nhà thờ quy định tất cả nam giới phải biết đọc viết và tính toán; sang thế kỷ thứ 2 thì bắt buộc mọi đàn ông phải có nghĩa vụ dạy con trai mình đọc, viết, tính toán.

Như vậy họ đã thực hiện phổ cập giáo dục cho nam giới trước các dân tộc khác hàng mười mấy thế kỷ. Israel là nước đứng đầu thế giới về dân số từ 14 tuổi đọc sách, đứng đầu về số đầu sách xuất bản theo đầu dân. Không một người Do Thái thành đạt nào lại không tranh thủ thời gian để đọc, để học, để làm giàu hiểu biết.

Ngay cả tại nghĩa trang, người ta cũng để sẵn sách vì tin rằng những đêm có trăng, các linh hồn sẽ ra đọc sách. Thì ra trong lúc người Viêt Nam ta đang kêu gọi hãy đọc sách và học suốt đời thì người Do Thái đã thực hiện học… quá đời! Dân tộc Do Thái coi trọng học giả, coi trọng người thầy.

Tri thức được trọng vọng hơn của cải, hơn cả chức tước, là điều khác hẳn với quan niệm của số đông người Việt Nam hiện nay. Do vậy người Do Thái sẵn sàng hy sinh cả gia tài để được làm thông gia với gia đình trí thức. Theo truyền thống, hôn nhân giữa người thuộc gia đình người có học thức cao với thành viên gia đình thương gia là một cuộc hôn nhân lý tưởng, làm cho việc kinh doanh càng trở nên có trí tuệ hơn. Từ ngàn xưa, người Do Thái đã xem tri thức là loại vốn đặc biệt vì có thể sinh ra vốn và của cải, lại không bị cướp đoạt được.

Người Do Thái đã tự khai sáng mình ngay từ buổi bình minh của lịch sử loài người như vậy đấy và thành quả mà con cháu họ đạt được ngày nay trong nhiều lĩnh vực đời sống là kết quả tất yếu, là sự tưởng thưởng xứng đáng. Người Việt Nam phải phục họ thì không có gì phải xấu hổ. Người Việt Nam cần quyết tâm tự khai sáng noi theo dân tộc Do Thái, cùng đồng tâm nhất trí loại trừ những thói quen gây hại cho việc phát triển trí tuệ trong cả ba môi trường giáo dục là gia đình, nhà trường và xã hội, cùng nhau hình thành thang giá trị mới, trở nên thật sự hiếu học và có thói quen học suốt đời.

* Năm 2011, chỉ riêng các nhà khoa học Israel đã giành đến… 10 giải Nobel.

* Từ ngàn xưa, người Do Thái đã xem tri thức là loại vốn đặc biệt vì có thể sinh ra vốn và của cải, lại không bị cướp đoạt được.

Nguồn: Sưu tầm

Do Thái giáo

Bí quyết thành công của người Do Thái: ‘Tôi đâu còn lựa chọn nào khác’

Nhìn lại lịch sử, những quốc gia với xuất phát điểm thấp nhưng biết cách “lựa chọn” thái độ trước thời cuộc đều đã thành công.

Nội dung nổi bật:

– Nghèo khổ, lang bạt, bị đối xử khinh thường, cuộc sống đầy rẫy bất ổn… nhưng cũng nhờ đó, người Do Thái học được bài học về sự sáng tạo, về lòng quả cảm, trí tưởng tượng phong phú và nỗ lực khẳng định vị thế dân tộc mình. Cho tới nay, khi những cống hiến của người Do Thái dần được công nhận, người ta mới nhìn họ với một con mắt khác. 

– Ví dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Lịch sử cũng một lần nữa chứng minh tài năng của người Do Thái trong kinh doanh, với những cái tên như vua dầu mỏ John Rockefeller, trùm tài chính George Soros, huyền thoại thời trangRalph Lauren…

– Nhìn lại lịch sử, những quốc gia với xuất phát điểm thấp nhưng biết cách “lựa chọn” thái độ trước thời cuộc đều đã thành công.

Tôi cứ nghĩ mãi về điều gì khơi nguồn cho sự tỏa sáng của người Do Thái trong hầu hết khía cạnh cuộc sống, cho tới khi đọc lại Eran Katz:“Có lần, tôi gặp một người mù. Ông ấy có một trí nhớ phi thường. Ông ấy thuộc lòng số điện thoại, những cuộc hẹn của mình từ hàng tháng trước hoặc sẽ có trong hàng tháng sau đó, mà không hề cần sổ ghi chép hay sắp xếp các cuộc hẹn. Khi tôi hỏi ông ấy làm thế nào mà nhớ được, ông ấy có vẻ hơi ngạc nhiên và câu trả lời của ông ấy đến giờ vẫn văng vẳng trong tâm trí tôi: ‘Tôi đâu còn lựa chọn nào khác chứ?’ ”.

Và tôi tự hỏi, liệu có phải lý do của người Do Thái cũng bắt nguồn từ việc họ từng là một dân tộc “đâu còn sự lựa chọn nào khác”?

Từ 2000 năm lưu vong

Điều 1 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 tại Pháp ghi: “Mọi người đều được sinh ra tự do và bình đẳng”. Thế nhưng đó là câu chuyện của 1948.

2000 năm trước, có một dân tộc mà nhiều người từ khi sinh ra đã là một đứa trẻ mất nước, đi tới đâu cũng bị xua đuổi, tàn sát, người dân bị cấm sở hữu bất cứ tài sản nào… Họ chính là dân tộc Do Thái. Ngay từ những giai đoạn đầu tiên, người Do Thái đã phải sống lưu vong, bị cướp bóc tài sản do những quan niệm trái ngược về tôn giáo. Vào thời đại di chuyển khá hạn chế, người Do Thái trở thành những người tị nạn đầu tiên. Ngày xưa cũng như bây giờ, dân di cư luôn bị đối xử với sự nghi ngờ.

Tới Thế chiến II, khi Adolf Hitler với thuyết “người Đức là một dân tộc thượng đẳng”, vì sợ sự vượt trội của người Do Thái đã bắt họ phải sống trong các trại tập trung với ý đồ để họ chết dần chết mòn. Kết quả, không dưới sáu triệu người bao gồm cả phụ nữ, trẻ em đã bị sát hại dã man.

Nghèo khổ, lang bạt, bị đối xử khinh thường, cuộc sống đầy rẫy bất ổn… nhưng cũng nhờ đó, người Do Thái học được bài học về sự sáng tạo, về lòng quả cảm, trí tưởng tượng phong phú và nỗ lực khẳng định vị thế dân tộc mình. Cho tới nay, khi những cống hiến của người Do Thái dần được công nhận, người ta mới nhìn họ với một con mắt khác.

[Một giả thuyết thú vị], phải chăng quá trình chọn lọc tự nhiên quá dài và khắc nghiệt đã khiến chỉ những cá nhân xuất sắc nhất mới có thể tồn tại để tạo nên một dân tộc tinh hoa như vậy?

Kinh Talmud, tri thức và tiền

Đã có không ít nghiên cứu về công thức thành công của người Do Thái: Từ việc mang thai của người mẹ, việc đào tạo thanh niên trong quân đội, việc chính phủ cởi mở trước ý tưởng sáng tạo cho tới truyền thống của một dân tộc thông thái… Nhưng khởi điểm căn bản, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của Kinh Talmud. Kinh Talmud là một văn bản trung tâm của giáo sĩ Do Thái giáo gồm 63 bài luận với độ dài hơn 6.200 trang thể hiện những ý kiến của hàng ngàn giáo sĩ Do Thái trong nhiều chủ đề như pháp luật, đạo đức, triết học, phong tục, lịch sử, thần học, truyền thuyết và nhiều chủ đề khác.

Kinh Talmud

Kinh Talmud viết: “Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu được”. Với phương châm đó, người Do Thái đặc biệt coi trọng giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành. Nhìn toàn cục, đạo Do Thái coi trọng học vấn và phân tích. Họ không chấp nhận những giá trị bề ngoài, mà luôn đi sâu tìm hiểu “tại sao”, “như thế nào”. Với lịch sử, bộ óc thế kỷ Albert Einstein, nhà tâm lý học Sigmund Freud, cha đẻ Chủ nghĩa Cộng sản Karl Marx…hay thậm chí chúaJesus, tất cả đã chứng minh đóng góp tri thức vĩ đại của người Do Thái với nhân loại.

Chẳng con dê nào không có râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành”.

Ngạn ngữ Đức

Một điểm đặc biệt của Kinh Tadmud, khác với những tôn giáo khác như Phật giáo, Thiên chúa giáo là ở chỗ coi trọng giá trị của tiền bạc. Với người Do Thái: “Vàng ở xứ này rất quý”. Rõ ràng, không có tiền thì làm sao có thể tồn tại ở những quốc gia nơi người Do Thái sống nhờ ở đợ, chịu mọi chèn ép, khó khăn? Cũng chính trong hoàn cảnh đó, họ đã sáng tạo ra nhiều ý tưởng kinh doanh rất khôn ngoan.

Ví dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Lịch sử cũng một lần nữa chứng minh tài năng của người Do Thái trong kinh doanh, với những cái tên như vua dầu mỏ John Rockefeller, trùm tài chính George Soros, huyền thoại thời trang Ralph Lauren

Tới hồi kết nở hoa

Nhìn lại lịch sử, những quốc gia với xuất phát điểm thấp nhưng biết cách “lựa chọn” thái độ trước thời cuộc đều đã thành công. Hoa Kỳ, sau cuộc nội chiến vươn lên trở thành một cường quốc quyền lực. Nhật Bản, dù hứng chịu không ít bom nguyên tử, động đất, sóng thần vẫn là nơi mặt trời luôn mọc. Singapore, từ một mảnh đất bé xíu thuộc về Malaysia, ô nhiễm, pha tạp, trở thành một đất nước xanh và năng động bậc nhất không chỉ tại châu Á.

Và tất nhiên, không thể không nhắc tới Israel, quê hương của những người con Do Thái, nơi đã viết nên câu chuyện rằng bất kể quá khứ của một dân tộc ra sao, với sự sáng tạo, cầu tiến của mình, họ đều có thể viết nên tương lai mới.

Hoa đã nở trên những cao nguyên cằn khô tại “quốc gia khởi nghiệp”, nơi mà toàn bộ diện tích bao phủ bởi sỏi đá, chỉ gần 1% là nước. Israel- quốc gia nhỏ bé chỉ gồm hơn 7 triệu dân, mỗi ngày trôi qua là một ngày đối diện với hàng trăm thế lực thù địch xung quanh, vẫn vươn mình phát triển trên hầu hết các lĩnh vực, nông nghiệp, kinh tế, khoa học… Như một tất yếu, người dân Israel rất giàu, GDP đầu người năm 2013 vào khoảng 34.900 USD(*)- xếp thứ 40 thế giới.

Hitler (nếu còn sống) hẳn sẽ buồn vì sức sống của người Do Thái sau chừng ấy thử thách, quả không thể nào dập tắt!

(*) Theo The World Factbook

 

Đàm Linh

Theo Trí Thức Trẻ

 

Do Thái giáo

Vì sao người Do Thái thông minh nhất thế giới?

Từ ngàn xưa, người Do Thái đã xem tri thức là loại vốn đặc biệt vì có thể sinh ra vốn và của cải, lại không bị cướp đoạt được.

Vì sao người Do Thái thông minh nhất thế giới?

Trong lịch sử, người Do Thái được biết đến là một sắc tộc tôn giáo có nguồn gốc từ Israel. Dù hiện nay người Do Thái sống rải rác tại nhiều quốc gia khác nhau, nhưng chỉ có Israel là quốc gia Do Thái duy nhất trên thế giới, người dân đa phần là người Do Thái và quốc đạo là Đạo Do Thái.

Dân số người gốc Do Thái trên thế giới hiện nay vào khoảng gần 13,8 triệu người (khoảng hơn 0,19% dân số thế giới – số liệu năm 2013), tức là cứ khoảng 517 người thì có 1 người Do Thái. Thế nhưng, vào khoảng giữa thế kỷ 19, 1/4 các nhà khoa học trên thế giới là người Do Thái, và tính đến năm 1978, hơn một nửa giải Nobel rơi vào tay người Do Thái. Như vậy, có đến 50% đóng góp cho sự tiến bộ của loài người chỉ do 0,19% dân số đảm nhiệm. Những tên tuổi lớn của thế kỷ 20 có thể kể đến như bộ óc thế kỷ Albert Einstein, Sigmund Freud, Otto Frisch… đều là người Do Thái.

Vậy tại sao các thế hệ người Do Thái lại có được trí tuệ như vậy (chỉ số IQ trung bình của người Do Thái là 110 so với chỉ số trung bình 100 của thế giới)? Trong cuốn “Bí mật người Do Thái dạy con làm giàu” có đưa ra lời giải thích cụ thể cho vấn đề này.

Vai trò của bà mẹ Do Thái

Bà mẹ Do Thái dạy con từ khi mang thai. Các bà mẹ thường nghe nhạc, chơi đàn, hát và… làm toán cho đến khi sinh con ra. Các thai phụ làm vậy vì tin rằng cách đó sẽ làm đứa bé sau này trở nên thông minh. Người mẹ chọn ăn hạnh nhân, chà là, uống dầu cá và ăn cá nhưng tránh ăn đầu cá vì tin rằng tất cả điều đó sẽ giúp cho con trở nên thông thái.

Từ lúc còn ẵm ngửa đứa bé, bà mẹ đã tạo cho con thói quen thích sách bằng cách dùng mẹo nhỏ vài giọt mật lên cuốn sách và cho bé liếm. Khi đó, trong nhận thức non nớt của đứa trẻ, sách là cái gì đó rất ngọt ngào, hấp dẫn.

Ủy ban công nghiệp thành phố New York (Mỹ) có cuộc điều tra nguồn nhân lực vào năm 1950 và nhận thấy có sự khác biệt lớn về việc đi làm công nhân giữa phụ nữ Ý với phụ nữ Do Thái. Phụ nữ Ý thường phải đi làm và còn bắt con nghỉ học để đi làm phụ cha mẹ, các bà mẹ Do Thái thì ngược lại. Dù kinh tế khó khăn, họ vẫn ở nhà để nuôi dạy con, dồn hết trách nhiệm kiếm sống cho chồng – người ban ngày đi làm nhưng tối về có nghĩa vụ học và dạy cho con học.

Nhờ sự chăm sóc, động viên của cha mẹ mà học sinh Do Thái nổi tiếng trong trường về thành tích học tập và tính chuyên cần, khác hẳn với học sinh nhiều dân tộc khác. Vào năm 1954, hệ thống trường công của thành phố New York thống kê được 28 học sinh có chỉ số IQ cực cao lên tới 170 điểm, thì trong đó 24 là học sinh Do Thái. Ngoài ra, những người này còn quan niệm điểm không quan trọng bằng cách học, mà đã học thì phải hỏi. Chính vì vậy, học sinh Do Thái được khuyến khích đặt thật nhiều câu hỏi cho giáo viên.

Cũng theo các nhà khoa học Do Thái, sự rung động của âm nhạc sẽ kích thích bộ não và đó là lý do vì sao có rất nhiều thiên tài người Do Thái…

Hệ thống giáo dục phổ thông

Từ lớp 1 đến lớp 6, những môn học ưu tiên trẻ em gồm kinh doanh, toán học, khoa học. Tất cả trẻ Do Thái đều tham gia vào các môn thể thao như bắn cung, bắn súng, chạy bộ vì họ tin rằng bắn cung và bắn súng sẽ rèn luyện cho bộ não trở nên tập trung vào cách quyết định và sự chính xác.

Ở trường trung học, học sinh sẽ giảm dần việc học khoa học mà sẽ học cách tạo ra sản phẩm, đi sâu vào những kiểu bài tập thực tế như vậy. Dù một số dự án/bài tập có vẻ nực cười và vô dụng, nhưng tất cả đều đòi hỏi sự tập trung nghiêm túc đặc biệt nếu đó là những môn thuộc về vũ khí, y học, kỹ sư, ý tưởng sẽ được giới thiệu lên các viện khoa học hoặc trường đại học.

Khoa kinh doanh cũng được chú trọng ưu tiên. Trong năm cuối ở trường đại học, sinh viên sẽ được giao một dự án và thực hành. Họ sẽ hoàn thành nếu nhóm của họ (khoảng 10 người/nhóm) có thể tạo ra lợi nhuận 1 triệu USD. Đừng ngạc nhiên, đây là thực tế và đó là lý do vì sao một nửa hoạt động kinh doanh trên thế giới là của người Do Thái.

Xã hội Do Thái từ rất sớm đã coi trọng việc xóa mù chữ, sách và người có học thức

Dân tộc Do Thái là dân tộc đầu tiên trên thế giới – từ năm 64 đầu Công nguyên – mà nhà thờ quy định tất cả nam giới phải biết đọc viết và tính toán; sang thế kỷ thứ 2 thì bắt buộc mọi đàn ông phải có nghĩa vụ dạy con trai mình đọc, viết, tính toán. Như vậy họ đã thực hiện phổ cập giáo dục cho nam giới trước các dân tộc khác mười mấy thế kỷ.

Israel cũng là nước đứng đầu thế giới về dân số từ 14 tuổi đọc sách, đứng đầu về số đầu sách xuất bản theo đầu dân. Không một người Do Thái thành đạt nào lại không tranh thủ thời gian để đọc, để học, để làm giàu hiểu biết.

Như vậy, từ ngàn xưa người Do Thái đã xem tri thức là loại vốn đặc biệt vì có thể sinh ra vốn và của cải, lại không bị cướp đoạt được. Và đây nhân tố quan trọng giúp người Do Thái đạt được trí thông minh vượt bậc so với phần còn lại của thế giới.

Phương Linh (Tổng hợp)

Theo Trí Thức Trẻ

Do Thái giáo

Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế?

 

Print Friendly

wedding_hats_2139761b

Tác giả: Nguyễn Hải Hoành

Giỏi thực hành và giỏi cả lý thuyết kinh tế

Ai cũng biết người Do Thái từ xưa đến nay đều rất giỏi làm kinh tế. Nếu không thì họ không thể nào tồn tại nổi trong suốt 2.000 năm bị trục xuất ra khỏi tổ quốc mình, phải sống lưu vong khắp thế giới, phần lớn đi tới đâu cũng bị hắt hủi, xua đuổi thậm chí hãm hại, tàn sát, bị cấm sở hữu bất cứ tài sản cố định nào như nhà đất, tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, nguyên vật liệu …). Cho tới năm 1948 dân tộc lưu vong này mới được Liên Hợp Quốc chỉ định cho một “mảnh đất cắm dùi” rộng 20.770 km2 – tức nước Israel hiện nay, nơi tập trung khoảng 43% trong tổng số 13,9 triệu người Do Thái trên toàn thế giới.

Israel nghèo tài nguyên, thiếu cả nước ngọt, lại luôn luôn sống trong tình trạng bất ổn do bị các nước A Rập xung quanh đe dọa chiến tranh, nhưng người dân nước này đã vượt qua mọi khó khăn xây dựng được một nền kinh tế phát triển. GDP bình quân đầu người năm 2014 đạt 32.700 USD, cao thứ 50 trên thế giới, là nước có mức sống cao ở vùng Trung Đông và châu Á.[1] 

Cộng đồng Do Thái ở Mỹ có 5,7 triệu người, chiếm 40% tổng số người Do Thái trên toàn thế giới, là quần thể dân tộc thiểu số thành công nhất, có mức sống bình quân cao hơn mức trung bình của dân Mỹ. Dù chỉ chiếm khoảng 1,7~2,6% số dân nước Mỹ (số liệu 2012; tùy định nghĩa thế nào là người Do Thái) nhưng người Do Thái chiếm khoảng một nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ. Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính nước này, tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Nhờ thế trên vấn đề Trung Đông chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ Israel những khoản tiền khổng lồ.[2]

Trong 50 người giàu nhất thế giới hiện nay do tạp chí Forbes đưa ra (3/2015) có tới 10 người Do Thái.[3] Đó là :

  • Larry Ellison, tài sản 54,2 tỷ USD, nhà sáng lập và CEO Oracle Corp., giàu thứ 3 nước Mỹ
  • Michael Bloomberg, 35,5 tỷ USD
  • Mark Zuckerberg, 33,4 tỷ USD, tỷ phú trẻ nhất thế giới (sinh 1984)
  • Sheldon Adelson, 32,4 tỷ USD, vua casino
  • Sergey Brin và Larry Page (29,2 và 29,7 tỷ USD), đồng sáng lập Google
  • George Soros, 24,2 tỷ USD, nhà đầu tư và từ thiện
  • Carl Icahn, 23,5 tỷ USD, nhà đầu tư và từ thiện
  • Len Blavatnik, 20,2 tỷ USD, người giàu nhất nước Anh (sinh tại Liên Xô cũ),
  • Michael Dell, nhà sáng lập Dell Computer Founder.

Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết họ xây dựng nên đã ảnh hưởng to lớn nếu không nói là quyết định tới tiến trình tiến hóa của nhân loại:

  • Karl Marx[4] người xây dựng học thuyết kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản, được gọi là một trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);
  • Trong tổng số 74 chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1969-2014, có 22 là người Do Thái, chiếm tỷ lệ gần 30%, dù người Do Thái chỉ chiếm 0,19 % số dân toàn cầu. Chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman (2008)… là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng…
  • Từ năm 1987 tới nay có ba người Do Thái kế tiếp nhau làm Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed, tức Ngân hàng Trung ương Mỹ), cơ quan nắm quyền sinh sát trong giới tài chính Mỹ và thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn cầu. Đó là ông Alan Greenspan 19 năm liền (2/1987-2/2006) được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử vào chức vụ này. Tiếp sau là ông Ben Bernanke (nhiệm kỳ 2/2006-2/2014) và bà Janet Yellen (từ 2/2014 tới nay).
  • Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James D. Wolfensohn, hai cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước đang phát triển, đều là người Do Thái.

Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người:

  • Jacob Schiff (1847-1920), chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; năm 1904 do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã cho chính phủ Nhật vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905. Nhớ ơn này, trong Thế chiến II phát xít Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở Trung Quốc, tuy đồng minh số một của Nhật là phát xít Đức có nhờ Nhật “làm hộ” chuyện ấy. Schiff là người nước ngoài đầu tiên được Nhật Hoàng Minh Trị tiếp kiến tại Hoàng cung Nhật.
  • George Soros, nổi tiếng về ý tưởng đầu tư và làm từ thiện quy mô lớn, từng làm chao đảo thị trường tài chính toàn cầu.
  • Michael Blooomberg, sáng lập và sở hữu 88% Bloomberg L.P., một công ty truyền thông về tin tức tài chính và dịch vụ thông tin. Blooomberg từng trúng cử liền 3 khóa thị trưởng thành phố New York (2002-2013) với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế thế giới.

Nguyên nhân sâu xa

Vì sao người Do Thái lại giỏi làm kinh tế, tài chính trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như vậy?

Lịch sử cho thấy yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của họ.

Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man trong suốt 2.000 năm qua. Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị tiêu diệt hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn lên hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ.

Muốn vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew Bible) – hơn 10 thế kỷ sau kinh điển này được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các nhà sáng lập Ki-tô giáo viết. Cũng cần xem xét một kinh điển nữa của đạo Do Thái là Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho tới nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.

Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con người. Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi. Với phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành. Ngoài ra họ chú trọng truyền cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề. Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ.

Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Đây là một điểm độc đáo khác hẳn quan điểm của đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo Khổng, ta cần phân tích thêm.

Có lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau và chiến tranh giữa các quốc gia. Hegel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học cổ điển Đức từng nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền về tài sản.” Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài sản, đều giàu có thì khi ấy mới có sự bình đẳng đích thực, toàn dân mới có nhân quyền. Một xã hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có, tức cùng có nhân quyền và thực sự bình đẳng với nhau.

Triết gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Chúa” (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên thiên đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô thân cận với người nghèo khổ, là tôn giáo của người nghèo. Khổng giáo và đạo Phật lại càng khinh thường tài sản, tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.

Ngược lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này rất quý” (Genesis 2:12). Ý tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do Thái, họ đều muốn giàu có.

Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn 3.000 năm khi vua Ai Cập bồi thường cho Abraham vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái, khiến ông này “có rất nhiều súc vật, vàng bạc” (Genesis 13:2). Thượng Đế yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài.

Thượng Đế Jehovah cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật. Những người xuất thân gia đình giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David … đều được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập được công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và đều trở thành lãnh đạo, vua chúa.

Ngược lại, văn hóa phương Đông thường ca ngợi phẩm chất của những người nghèo.

Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái. Họ coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn. Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại – về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố định nào.

Người ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là bản năng kiếm tiền; thứ hai là bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền – họ là cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ ngày nay mà chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn.

Tuy vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê bai. Ai từng đọc tiểu thuyết Ai-van-hô (Ivanhoe) của Walter Scott chắc còn nhớ mãi hình ảnh ông lão Do Thái Isaac (I-sắc) đáng thương, bố của nàng Rebecca xinh đẹp và thánh thiện, lúc nào cũng khư khư giữ túi tiền và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo báng khinh bỉ thậm tệ. Các vở kịch của Shakespear đưa ra nhiều hình ảnh khiến người ta có cảm giác người Do Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá. Tập quán cho vay lãi của người Do Thái bị nhiều nơi lên án. Hệ thống cửa hiệu của người Do Thái ở Đức là đối tượng bị bọn Quốc Xã Hitler đập phá đầu tiên hồi thập niên 1930. Người Đức có câu ngạn ngữ “Chẳng con dê nào không có râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành.”

Karl Marx xuất thân gia đình khá giả, vợ ông cũng là con nhà quý tộc, nhưng ông không coi trọng đồng tiền. Marx từng nói: Đồng tiền là con đĩ của loài người.[5] Trong bài viết “Về vấn đề Do Thái” công bố năm 1843, ông mạnh mẽ công kích dân tộc Do Thái: “Sự sùng bái cá nhân của người Do Thái là gì? Lừa đảo. Đức Chúa Trời của họ là gì? Tiền!”.[6] Ông cho rằng tiền bạc là vị thần gắn bó với người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự xóa bỏ chủ nghĩa Do Thái. Như vậy nghĩa là Marx đã thừa nhận người Do Thái tham dự sáng lập ra chủ nghĩa tư bản, một chế độ xã hội mới thay thế chế độ phong kiến và làm nên phần chủ yếu trong cộng đồng quốc tế hiện nay. Quả thật, người Do Thái có đóng góp rất lớn về lý thuyết và thực hành trong việc xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Kinh Talmud viết: Mọi người phải yêu Thượng Đế với toàn bộ trái tim, cuộc đời và của cải của mình; mỗi người đều phải quan tâm tới tài sản; không ai được phép dùng tài sản của mình để làm hại kẻ khác và không ai được trộm cắp tài sản người khác; tài sản của một người nhưng không phải chỉ là của người đó mà phải dùng nó để giúp kẻ khác … Có thể hiểu “Yêu Thượng Đế với toàn bộ tài sản của mình” nghĩa là phải sử dụng tài sản riêng của mình theo lệnh Thượng Đế, nghĩa là phải chia bớt cho người nghèo. Quy ước này đã đặt nền móng cho tư tưởng nhân ái, bình đẳng của văn minh phương Tây. Từ đó ta dễ hiểu vì sao cộng đồng Do Thái ở đâu cũng giúp đỡ nhau để tất cả cùng giàu lên, không có ai nghèo khổ.

Đạo Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con người; nói “nặng nề” vì người giàu có trách nhiệm to lớn đối với xã hội: họ không được bóc lột người nghèo mà phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện. Những người Do Thái giàu có luôn sống rất giản dị, tiết kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng góp 4 tỷ USD (trong tổng tài sản 7 tỷ khi ấy) cho công tác từ thiện. Không một nhà giàu Do Thái nào không có quỹ từ thiện của mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng đồng Do Thái lại cùng giàu có như thế.

Người Do Thái luôn nghĩ rằng Thượng Đế giao cho họ nghĩa vụ và quyền làm giàu. Đây là động lực chủ yếu khiến họ ở đâu cũng lo làm giàu, không bao giờ chịu nghèo khổ. Hai nghìn năm qua, dù sống lưu vong ăn nhờ ở đợ các quốc gia khác và ở đâu cũng bị cấm sở hữu mọi tài sản cố định nhưng dân tộc này vẫn nghĩ ra nhiều cách kinh doanh hữu hiệu bằng các dịch vụ như buôn bán, dành dụm tiền để cho vay lãi …

Muốn làm giàu, điều cơ bản là xã hội phải thừa nhận quyền tư hữu tài sản.

Kinh Talmud viết: Ai nói “Của tôi là của tôi, của anh là của anh” (mine is mine and yours is yours) thì là người bình thường (average); nói “Của tôi là của anh, của anh là của tôi” thì là kẻ ngu ngốc; nói “Của tôi là của anh và của anh là của anh” thì là ngoan đạo (godly); ai nói “Của anh là của tôi và của tôi là của tôi” là kẻ xấu (evil). Nghĩa là họ thừa nhận quyền tư hữu tài sản là chính đáng, không ai được xâm phạm tài sản của người khác.

Tuy thừa nhận quyền sở hữu tài sản và luật pháp bảo vệ quyền đó, nhưng đạo Do Thái không thừa nhận quyền sở hữu tài sản tuyệt đối và vô hạn, cho rằng tất cả của cải đều không thuộc về cá nhân mà thuộc về Thượng Đế, mọi người đều chỉ là kẻ quản lý hoặc kẻ được ủy thác của cải đó. Tài nguyên thiên nhiên do Thượng Đế tạo ra là để ban cho tất cả mọi người, không ai có quyền coi là của riêng mình. Đây là một quan niệm cực kỳ tiến bộ và có giá trị hiện thực cho tới ngày nay: tài nguyên thiên nhiên, sự giàu có của đất nước là tài sản của toàn dân, tuyệt đối không được coi là của một số nhóm lợi ích hoặc cá nhân.

Kinh Talmud viết nhiều quy tắc hữu dụng về kinh doanh. Chẳng hạn: – Vay một quả trứng, biến thành một trại ấp gà;  – Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin (tín dụng) là mất tất cả;  – Nghèo thì đáng sợ hơn 50 loại tai nạn;  – Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản; ki bo chỉ làm nghèo đi;  – Chỉ lấy đi thứ gì đã trả đủ tiền cho người ta;  – Biết kiếm tiền thì phải biết tiêu tiền;  v.v…

So sánh Cựu Ước và Talmud với Tân Ước, có thể thấy đạo Do Thái là tôn giáo của người muốn làm giàu, còn đạo Ki-tô là tôn giáo của người nghèo. Khác biệt căn bản ấy là một trong các lý do khiến Giáo hội Ki-tô ngày xưa khinh ghét người Do Thái (hy vọng trong một dịp khác chúng tôi sẽ trình bày về vấn đề này).

Từ sự phân tích sơ qua về quan điểm đối với tài sản và tiền bạc nói trên, có thể thấy hệ thống tư tưởng của đạo Do Thái rất phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại và chính vì thế nó tạo dựng nên truyền thống văn hóa bất hủ của dân tộc Do Thái – nền móng vững chắc làm cho dân tộc này dù phải sống lưu vong không tổ quốc hàng nghìn năm nhưng cuối cùng vẫn là dân tộc thành công nhất trên hầu hết các hoạt động của loài người.

Đồng thời các nguyên lý chính của đạo Do Thái đã tác động không nhỏ tới giáo lý đạo Ki-tô và đạo Islam; hai tôn giáo lớn này đều có nguồn gốc từ đạo Do Thái.

Cuối cùng, nhờ có những điểm độc đáo nói trên, văn minh Do Thái của phương Đông trong quá trình giao lưu kết hợp với văn minh Hy-lạp của phương Tây đã sinh ra một nền văn minh mới – văn minh Ki-tô giáo, cuối cùng trở thành nền văn minh phương Tây rực rỡ mấy nghìn năm nay. Có lẽ đây là thành tựu đáng kể nhất mà nền văn minh Hebrew đã đóng góp cho nhân loại. Điều đáng nói là, do các nguyên nhân lịch sử phức tạp, lâu nay người ta đã coi nhẹ nền văn minh ấy, và bây giờ đã đến lúc loài người nên xem lại quan điểm này./.

Nguyễn Hải Hoành là dịch giả và nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội.

Xem thêm: Giải mã sự thành công của Israel và người Do Thái

——————–

[1] Theo The CIA World Factbook.

[2] Tham khảo: http://www.wrmea.org/2013-october-november/congress-watch-a-conservative-estimate-of-total-u.s.-direct-aid-to-israel-more-than-$130-billion.html

[3] Theo http://www.timesofisrael.com/10-jews-in-forbes-top-50-billionaires/  March 3, 2015

[4] K. Marx là một trong hai lãnh tụ cộng sản người Do Thái phủ nhận nguồn gốc này của mình [người kia là Lev Davidovich Trotsky, tức Лев Давидович Троцький, 1879-1940, lãnh tụ Đảng Cộng sản Bôn-sê-vich Nga]. Cha và mẹ Marx đều là người Do Thái. Cha ông có nguồn gốc nhiều đời là giáo sĩ Do thái, về sau đã cải đạo sang Tin Lành vì nếu không sẽ không được hành nghề luật sư (ở nước Phổ).

[5] Theo http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/con-di-cua-nhan-loai-da-ngu-tri-trai-dat-ra-sao

[6] Theo http://nghiencuuquocte.net/2014/05/20/marx-chong-lai-chu-nghia-tu-ban-p1/

– See more at: http://nghiencuuquocte.net/2015/10/12/vi-sao-nguoi-do-thai-gioi-lam-kinh-te/#sthash.Qx5fzjiK.dpuf