I. KHÁI QUÁT
II. BÁCH GIA CHƯ TỬ
III. TƯ TƯỞNG ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
IV. SƠ LƯỢC VỀ TRANG TỬ NAM HOA KINH
I. KHÁI QUÁT
II. BÁCH GIA CHƯ TỬ
III. TƯ TƯỞNG ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
IV. SƠ LƯỢC VỀ TRANG TỬ NAM HOA KINH
Sau khi xử lý xong những đối tượng gây cản trở cho việc nắm quyền của mình thì ông Tập Cận Bình sẽ đưa Trung Quốc đi về hướng nào, vẫn tiếp tục “thoát Trung” hay quay trở về với nguồn cội gốc rễ, đó là vấn đề quốc tế đang quan tâm.
Cuối năm 2015 vừa qua, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) tổ chức lớp học chung, ông Tập Cận Bình đã cho mời một học giả Nho giáo đến thuyết giảng. Quan niệm về trị nước của Nho giáo là thế nào? Có thích hợp với hệ chính trị chuyên chính một đảng không? Bài viết sẽ phân tích vấn đề này.
Ngày 30/12/2015, Giáo sư Trần Lai, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quốc học Thanh Hoa đã được mời đến Trung Nam Hải thuyết giảng. Truyền thông Trung Quốc Đại Lục không đưa tin nhiều. Báo mạng Nhân dân đưa một vài thông tin về ông Trần Lai sau sự kiện này. Những vấn đề thuyết giảng của ông Trần Lai bao gồm: khởi nguồn, hình thành, phát triển, nội dung và đặc điểm của “tinh thần chủ nghĩa yêu nước dân tộc Trung Hoa”.
Theo thông tin, ông Trần Lai đã nhắc lại những câu cách ngôn thời cổ đại có nội dung về chủ nghĩa yêu nước, đồng thời nhấn mạnh câu “Cẩu lợi quốc gia sinh tử dĩ, khởi nhân họa phúc tị xu chi” (làm lợi cho quốc gia không màng chuyện sinh tử, không trốn tránh vì sợ tai họa), câu danh ngôn mà học giả Lâm Tắc Từ từng nhiều lần nhắc này có nguồn gốc từ «Tả truyện».
Ông Trần Lai còn cho rằng, chủ nghĩa yêu nước biểu hiện cụ thể như yêu quê, luyến đất, kính tổ tiên, giữ văn hóa Trung Hoa, bảo vệ thống nhất quốc gia, lo cho dân cho nước, chống lại ngoại bang, vì lý tưởng dân giàu nước mạnh. Nhưng điểm nổi bật trong chủ nghĩa yêu nước của người Trung Quốc nhấn mạnh hòa bình, và giao lưu hội nhập.
Hết khoảng một giờ diễn thuyết còn có thêm 20 phút trả lời câu hỏi. Sau buổi diễn thuyết, ông Tập Cận Bình khen ngợi ông Trần Lai “giảng giải vấn đề rất hay”. Ông Tập nhấn mạnh, nêu cao tinh thần chủ nghĩa yêu nước cần tôn trọng và quảng bá nền văn hóa – lịch sử của người Trung Hoa.
Ông Trần Lai là người có thâm niên nghiên cứu văn hóa truyền thống Trung Quốc. Hiện giữ chức Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quốc học Thanh Hoa. “Tứ đại quốc học đạo sư” nổi danh của Viện Quốc học Thanh Hoa trước thập niên 80 thế kỷ trước lần lượt là: Vương Quốc Duy, Lương Khải Siêu, Triệu Nguyên Nhậm, Trần Diễn Cách.
Học giả Ngô Tộ Lai, một cán bộ cũ của Viện Nghệ thuật Trung Quốc đã chia sẻ:
“Họ muốn dựa vào văn hóa truyền thống để quản trị xã hội hiện đại, đặc biệt là đẩy mạnh giáo dục đạo đức trong nhân dân, vì đây là đại nạn của xã hội Trung Quốc ngày nay.”
Ông Ngô Tộ Lai cho rằng, xã hội Trung Quốc ngày nay không còn pháp luật, không còn chính nghĩa, không còn đạo đức, chính phủ hủ bại, tham quan khắp nơi, tư pháp mục nát, mua quan bán chức, tất cả đều xuất phát từ nội bộ ĐCSTQ.
“Nếu không có tam quyền phân lập, không có xã hội công dân, không có Nghị viên theo đúng nghĩa, không có đa đảng cạnh tranh, không có những yếu tố cơ bản cần có của văn minh hiện đại, chỉ nói đạo đức thì không giải quyết được gì”.
Cũng theo chia sẻ của ông Ngô Tộ Lai, ĐCSTQ là chính quyền kiểu ngoại lai, nó hy vọng Trung Quốc hóa chính mình để thích ứng với tình cảm của người Trung Quốc, vì trên thế giới chủ nghĩa Marx hiện đã phá sản.
“Hình thái ý thức hệ của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tan rã, phương pháp duy nhất của họ hiện nay là giương bài thuốc văn hóa truyền thống để rao giảng đạo đức, cách làm này không có triển vọng gì”.
Trong buổi diễn thuyết của ông Trần Lai tại Hoài Nhân Đường có bàn đến quan niệm trị quốc trong Nho giáo không? Báo Nhân dân không nói rõ. Vào ngày 31/7 năm ngoái, trang mạng của Ủy ban Kỷ luật Trung ương (UBKLTƯ) phỏng vấn ông Trần Lai liên quan đến cục diện chống tham nhũng hiện nay. Nội dung phỏng vấn nhắc đến nhiều vấn đề nhạy cảm, được nhiều báo chí đăng lại dùng tựa đề “Đảng đẩy mạnh Trung Quốc hóa, phát huy văn minh Trung Hoa truyền thống”.
Khi người phỏng vấn hỏi, nội dung chính trong tư tưởng trị quốc của Nho gia là thế nào? Có giúp gì trong tình hình hiện nay không? Ông Trần Lai trả lời, đặc điểm nổi bật của văn hóa truyền thống Trung Hoa là “lấy Đức trị làm gốc”, tư tưởng này trái với tư tưởng “lấy hình pháp làm gốc” đương thời. Khổng tử cho rằng, “Làm chính trị thiên dùng hình luật, dân sợ mà không biết liêm sỉ” (Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ), đây không phải phương pháp trị quốc lý tưởng; chỉ có “Chính trị thiên dùng đạo đức, lễ nghĩa, dân mới phát triển nhân cách” (Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thư cách), đây mới là con đường lý tưởng.
Ông Trần Lai cho biết, trong thực tiễn Nho gia nhấn mạnh sự phối hợp của cả Đức trị, Lễ trị và Pháp trị.
Trang mạng của UBKLTƯ còn dẫn ra nhiều quan điểm của Nho gia không cùng hướng với thể chế chuyên chính của ĐCSTQ hiện nay. Ví dụ:
– Kẻ làm chính trị không phải là hàng ngày nghĩ ngợi làm thế nào sửa người khác, mà phải nghĩ đến sửa mình trước.
– Nhiều vấn nạn hiện nay, trong đó quan trọng nhất là sự suy thoái đạo đức cán bộ là do xem nhẹ phát huy văn hóa truyền thống.
– Trong văn hóa truyền thống chúng ta có hệ thống giám sát, có sự chế ước quyền lực, giám sát quan chức.
– Trong lịch sử chế độ quan lại các nước trên thế giới thì hệ thống của Trung Quốc có từ lâu đời nhất, nên tổng kết chọn lọc những điều tốt để áp dụng cho thời đại hiện nay.
Bàn về đạo đức và pháp trị trong xã hội truyền thống, học giả Ngô Tộ Lai chia sẻ: “Xã hội Trung Quốc cổ đại có 3 nhà tham gia quá trình quản trị, bao gồm Hoàng gia, Nho gia, và Gia đình, đây là kết cấu rất vững chắc.”
“Văn minh truyền thống là văn minh của xã hội nông dân, trên cùng là Hoàng đế, còn Nho gia là tư tưởng dẫn dắt, mọi người phải học theo và qua con đường thi cử mới trở thành người tham gia vào quản lý đất nước”, ông Ngô Tộ Lai nói, “Tầng thấp nhất là tự trị. Nhưng điều này không áp dụng trong hệ thống quản trị của ĐCSTQ, không có cơ chế chọn người ưu tú, vì chỉ phụ thuộc Ban Tổ chức bổ nhiệm nên dễ hình thành tệ nạn mua quan bán chức. Cách làm kiểu khoa cử thời xưa rất khó làm bậy, nên chọn được nhiều người ưu tú, có đạo đức tham gia vào bộ máy quản trị quốc gia, nó là chế độ rất tiến bộ. Chế độ của ĐCSTQ ngày nay là chế độ hỗn loạn”.
Có thể thấy nội dung quan trọng trong tư tưởng trị quốc của Nho gia là“nền chính trị nhân từ bằng Đức trị”, nó hoàn toàn khác với hệ thống chuyên chính của ĐCSTQ.
Những nội dung ông Giáo sư Trần Lai giảng công khai ở Đại Lục cho thấy, văn hóa truyền thống Trung Quốc hoàn toàn không phù hợp với mô hình cai trị hiện nay của ĐCSTQ. Khi nhắc đến quan hệ giữa Nho giáo và xã hội Trung Quốc đương đại, ông Trần Lai nhắc đến 10 câu, trong đó ít nhất có 4 câu phê phán sự chuyên chính, chủ nghĩa duy vật, triết học đấu tranh, và lý luận giai cấp của ĐCSTQ:
1- Đạo đức quan trọng hơn pháp luật;
2- Tinh thần quan trọng hơn vật chất;
3- Hòa hợp có giá trị hơn đấu tranh;
4- Gia đình có giá trị hơn giai cấp.
Từ “Hòa hợp” ĐCSTQ cũng thường sử dụng, từ này trong Nho gia gọi là “hòa vi quý”, không cổ súy “đấu tranh”. ĐCSTQ bàn về duy vật luận, trong đó vật chất giữ vị trí đứng đầu, thậm chí là duy nhất; tinh thần là thứ yếu, thậm chí còn bị phủ nhận.
«9 bình luận về Đảng Cộng sản» chỉ rõ: “Triết học” của Đảng Cộng sản có thể nói là đi ngược lại với văn hóa truyền thống Trung Quốc. Văn hóa truyền thống Trung Quốc kính sợ Thiên mệnh, là văn hóa thần luận, Khổng tử cho rằng “Sinh tử có mệnh, phú quý tại trời”, còn Đảng Cộng sản thì không những tin “vô thần luận” mà còn “vô pháp vô thiên”; Nho gia xem trọng gia đình, còn «Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản» thì cho rằng phải “hủy bỏ gia đình”; văn hóa Nho gia xem trọng “nhân giả ái nhân” (người nhân yêu người), còn Đảng Cộng sản chủ trương đấu tranh giai cấp; Nho gia chủ trương “trung quân ái quốc”, còn «Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản» thì chủ trương “vô tổ quốc”.
Sau khi ông Tập Cận Bình lên nắm quyền đã thể hiện thái độ “kiên quyết không bỏ rơi văn hóa truyền thống ưu tú của dân tộc Trung Hoa”. Ngày 9/9/2014, khi tham dự ngày Nhà giáo ở Đại học Sư phạm Bắc Kinh, ông Tập đã phát biểu nhấn mạnh không tán thành việc loại bỏ thơ ca kinh điển và tản văn cổ đại Trung Quốc ra khỏi sách giáo khoa, ông cho rằng “thoát Trung” là rất đáng buồn.
Hai ngày sau, Nhân dân Nhật báo có bài lấy chủ đề “thoát Trung”, phê bình Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, và “Đài Loan độc lập” bỏ Hán văn để “thoát Trung”. Thực ra “thoát Trung” triệt để nhất chính là bản thân Trung Quốc.
Vào tháng 5/2004, trên tạp chí Hoàn Hoa Cương (HuangHuaGang) có bài viết phân tích cho rằng, con đường của ĐCSTQ đi trong hơn nửa thế kỷ qua là “thoát Trung”. Họ quay lưng với văn hóa truyền thống Trung Quốc, phá hủy di sản, sửa lại văn tự, giết hại người Trung Quốc… Vì muốn “thoát Trung” nên họ cho rằng “người công nhân không có tổ quốc”, lấy quốc hiệu của Xô-Viết làm của mình, phá hoại đạo đức luân lý truyền thống Trung Quốc; quay lưng với phẩm chất ôn hòa, khiêm tốn mà văn hóa truyền thống quý trọng.
Vì tôn thờ Chủ nghĩa Mác, nên họ thường nói sau khi chết thì gặp Mác, họ không nói gặp “liệt tổ liệt tông”.
Đại Cách mạng Văn hóa là phong tráo “thoát Trung” hừng hực khí thế, chưa từng có tiền lệ lịch sử, hủy diệt đến tận cùng các di sản văn hóa truyền thống.
Vào năm 2013, Giáo sư Trần Lai chi sẻ về không khí học thuật trên Tuần báo Thời đại: “Chiến tranh thời kỳ quân phiệt (1916 – 1928), rồi các cuộc chiến giữa quân Quốc dân Đảng và Cộng sản, cuộc chiến kháng Nhật, đều ảnh hưởng với những mức độ khác nhau đối với tình hình học thuật. Nhưng Cách mạng Văn hóa không phải chiến tranh mà hủy hoại nặng nề nhất”.
Hơn 30 năm sau Cách mạng Văn hóa, trên trang mạng của UBKLTƯ cho đăng bài viết hô hào “Đảng cầm quyền muốn trở về với Trung Quốc, kế thừa văn minh truyền thống Trung Hoa”. Học giả Ngô Tộ Lai cho rằng, đây là vấn đề chính trị quan trọng mà Trung Quốc đương đại phải đối diện, vấn đề này cùng với phát biểu về tính hợp pháp trong nắm quyền của ĐCSTQ mà ông Vương Kỳ Sơn đưa ra đều rất đáng phải cân nhắc.
Theo ông Ngô Tộ Lai, thứ nhất là cho thấy chính quyền ĐCSTQ đã tự “thoát Trung”; thứ hai là vấn đề khiến mọi người phải suy nghĩ chính quyền ĐCSTQ sẽ “trở về với Trung Quốc” như thế nào? Nếu muốn thực hiện điều này thì họ phải bỏ tư tưởng chủ nghĩa Marx làm chủ và thay bằng tư tưởng Nho gia, vậy thì không còn cái gọi là Đảng Cộng sản nữa.
Về kết cục của Đảng Cộng sản, ông Mao Trạch Đông cũng có dự kiến trước. Trên mạng từng có bài viết được nhiều người chia sẻ, nhan đề“Mao Trạch Đông bàn về lịch sử: nếu quay lại với Khổng tử thì Đảng Cộng sản sẽ nhanh chóng suy sụp”. Bài viết này dựa theo đối thoại với người con Mao Trạch Đông là Mao Viễn Tân, được chỉnh lý hoàn thành, chưa rõ thật giả thế nào, nhưng cho thấy sự xung khắc giữa tư tưởng Đảng Cộng sản và Khổng tử.
Ông Mao Trạch Đông cho rằng, trong lịch sử Trung Quốc, các cuộc khởi nghĩa nông dân và tạo phản đều nhắm vào việc phê bình Khổng Tử, vì đây là cái cớ để tạo phản, tuy nhiên sau khi giành được quyền thống trị thì họ lại bê Khổng Tử về, dùng lý luận của ông để quản trị quốc gia.
“ĐCSTQ khởi nghiệp bằng cách phê Khổng, nhưng chúng ta không thể đi theo con đường trước đây, đã phê rồi lại tôn lên”, Mao Trạch Đông nói, “nếu Đảng Cộng sản không thể tự theo con đường của mình, phải quay lại với Khổng tử thì có thể nói nó cũng sẽ mau chóng biến mất”.
Nhà bình luận thời sự Lý Lâm cũng cho rằng, văn hóa Trung Hoa truyền thống và Chủ nghĩa Cộng sản là như nước với lửa, không thể cùng tồn tại.
Là người nắm quyền ở Trung Quốc, ông Tập Cận Bình phải ý thức được điều này, phải biết con đường mình muốn đi là như thế nào?
Theo ông Ngô Tộ Lai, tư tưởng ông Tập Cận Bình chưa rõ ràng, cả người cha cùng gia đình ông ấy là đối tượng bị bức hại trong Cách mạng Văn hóa. “Lý tưởng của chế độ này hiện không còn sức sống, đó là con đường tà đạo, có vứt bỏ được không phải xem trí tuệ của ông ta như thế nào”.
Liệu ông Tập Cận Bình có từ bỏ thể chế chuyên chế không?
“Nếu ông ta tiếp tục theo con đường này, có nghĩa sẽ trở thành nhà chính trị thất bại”, ông Ngô Tộ Lai nói, “nếu như dám làm cuộc cách mạng thay đổi thể chế, ông Tập Cận Bình sẽ trở thành vĩ nhân lưu danh sử sách. Hiện nay ông Tập đang đối diện cuộc chiến trong nội bộ nên chưa thay đổi được hệ thống Tư pháp hủ bại, cục diện kinh tế thì khó khăn. Trong tình cảnh rối loạn này chúng ta chưa thể biết được ông ta muốn đi như thế nào. Chỉ khi loại bỏ được đối thủ trong hệ thống xong, lúc đó chúng ta mới có thể biết ông ấy muốn quay về xã hội truyền thống hay thực hiện chế độ văn minh hiện đại”.
Ông Ngô Tộ Lai không chỉ tán dương văn minh Trung Hoa mà còn ca ngợi Hiến pháp dân chủ của Đài Loan. Ông nói: “Văn minh Trung Hoa là nền văn minh hàng ngàn năm, dù sao cũng vĩ đại hơn nhiều so với chủ nghĩa Marx. Nếu biết vận dụng hợp lý với lịch sử thời đại thì có thể đưa Trung Quốc vào thế giới văn minh”.
“Đài Loan nhờ có Hiến pháp dân chủ cộng thêm sự kế thừa văn minh Trung Hoa nên đã hòa nhập vào thế giới, đây là con đường cần phải đi, kế thừa văn hóa đa dạng của văn minh Trung Hoa nhưng kết cấu chính trị phải theo chuẩn mực của văn minh thế giới”.
Liệu con đường dân chủ hóa ở Đài Loan có đi vào Trung Quốc Đại Lục được không?
Theo Đại Kỷ Nguyên tiếng Trung
Tinh Vệ biên dịch
http://vietnamese.cri.cn/chinaabc/chapter22/chapter220108.htm
1/ Quá trình hình thành nhà nước-pháp luật. Đặc điểm con đường hình thành nhà nước ở phương Đông.
1. Quá trình hình thành Nhà nước
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc nhà nước.
Theo thuyết Thần học, cho rằng nhà nươc là do thượng đế sinh ra để quản lý xã hội, quyền lực nhà nước là vĩnh cửu và vô tận nên việc phục tùng quyền lực ấy là cần thiết và tất yếu.
Theo thuyết khế ước xã hội, nhà nước là một sản phẩm của một bản hợp đồng(khế ước) giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Khi đó, nhà nước phải phục tùng xã hội, phục vụ mọi thành viên của xã hội. Khi nhà nước không thực hiện được chức năng của nó, các thành viên trong xã hội sẽ huỷ bỏ khế ước cũ lập ra một khế ước mới, một nhà nước tiến bộ hơn sẽ ra đời.
Ngoài ra còn có thuyết gia trưởng, thuyết tâm lý, thuyết bạo lực…
Theo học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước ra đời trên cơ sở của sự tan rã chế độ công xã nguyên thuỷ. Có hai nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ, đó là sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất (nguyên nhân kinh tế) và sự mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối kháng trong xã hôị, mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt đến mức không thể điều hoà được nữa (nguyên nhân xã hội).
Chế độ công xã nguyên thuỷ, thị tộc, bộ lạc, bào tộc là cách thức tổ chức đầu tiên của loài người trong buổi bình minh. Trong chế độ công xã nguyên thuỷ, mọi người đều bình đẳng như nhau trong lao động và hưởng thụ, trong quyền lợi và nghĩa vụ. Khi lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến năng suất lao động ngày càng tăng lên, đặc biệt khi có công cụ lao động bằng kim loại xuất hiện cùng với những kinh nghiệm đã tích luỹ được đã tạo nên bước phát triển nhảy vọt trong trồng trọt và nghề thủ công. Dẫn đến sự phân công lao động lần thứ nhất, trồng trọt tách khỏi chăn nuôi. Sau đó, các nghề thủ công cũng phát triển mạnh tạo ra sự phân công lao động lầ thứ hai : thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Sau hai lần phân công lao động, xã hội đã có sự phân tầng. Sự chuyên môn hoá của các ngành sản xuất đã làm cho nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các bộ phận dân cư ngày một tăng cao. Điều này dẫn đến sự phân công lao động lần thứ ba, giao lưu hàng hoá tăng nhanh và thương nghiệp xuất hiện. Sau lần phân công lao động thứ ba này, xã hội đã bị phân hoá một cách sâu sắc. Do sự phân công lao động nên các ngành kinh tế phát triển mạnh, làm cho sản phẩm lao động ngày càng nhiều lên dẫn đến dư thừa. Lúc này trong xã hội đã xuất hiện một số người có quyền lực công nhiên đi chiếm đoạt phần sản phẩm dư thừa đó và biến nó thành của riêng. Chế độ tư hữu về tài sản dần dần xuất hiện. Những người này dần dần trở thành những người chuyên đi bóc lột còn bộ phận đông dân cư trở thành những người bị bóc lột cả về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Chế độ tư hữu ngày càng được củng cố và phát triển tất yếu dẫn đến việc hình thành các tập đoàn người trong xã hội có địa vị kinh tế khác hẳnh nhau đó là tập đoàn những người giàu có (chủ nô), tập đoàn nông dân-thợ thủ công với chút ít tài sản (bình dân) và tập đoàn thứ ba là tù binh chiến tranh và nô lệ (nô lệ).
Mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột và bị bóc lột ngày càng trở nên gay gắt, làm cho chế độ công xã nguyên thuỷ trước đây với thị tộc, bộ lạc không thể kiểm soát, quản lý xã hội được nữa, mà cần một tổ chuác mới ra đời, đó chính là nhà nước.Nhà nước ra đời, đó là sự thay đổi hẳn về lượng. Đó là một bộ máy bạo lức, gồm có quân đội, cảnh sát, nhà tù…để đàn áp những người lao động.
2. Quá trình hình thành pháp luật
Pháp luật ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước, đó là một điều tất yếu khách quan. Xét về phương diện chủ quan, pháp luật do nhà nước đề ra và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của mình, trở thành một công cụ có hiệu quả nhất để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, nó quản lý xã hội theo mục đích của nhà nước cũng tức là mục đích của giai cấp thống trị.
Trước khi pháp luật xuất hiện, tổ chức thị tộc, bộ lạc quản lý xã hội bằng những phong tục tập quán với bản chất của nó là nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội. Khi nhà nước xuất hiện cùng với việc các quan hệ trong xã hội phát triển vượt bậc cả về bề rộng và chiều sâu, các phong tục tập quán này không còn có thể điều chỉnh được nữa mà cần một loại quy phạm xã hội mới đó chính là pháp luật.
Pháp luật được hình thành bằng nhiều cách với những hình thức khác nhau.
• Con đường thứ nhất là “luật pháp hoá”, “nhà nước hoá”. Nhà nước thừa nhận và nâng lên những tập quán có lợi cho mình. Đó là “ tập quán pháp”. Có tập quán được nhà nước chính thức thừa nhận và đưa vào nội dung bột luật, nhưng cũng cõ những tập quán được nhà nước mặc niên thừa nhận. Như vậy có tập quán pháp thành văn và tập quán pháp không thành văn. Điển hình là ở các nước phương Đông như ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam…
• Con đường thứ hai là do nhà nước ban hành mới. Do nhu cầu điều chỉnh những quan hệ ngày càng phức tạp, phong phú, sâu và rộng mà tập quán pháp không thể điều chỉnh được hết. Pháp luật được tồn tại dưới dạng thành văn và bất thành văn. Pháp luật thành văn ra đời ngay từ khi xuất hiện chữ viết.VD như luật 12 bảng của La Mã cổ đại, bột luật Hammurabi của Lưỡng Hà cổ đại….
3. Đặc điểm con đường hình thành nhà nước ở phương Đông
ở phương Đông, các nhà nước thường được hình thành ở lưu vực những con sông lớn. Điều kiện tự nhiên đã chứa đựng trong đó cả ưu đãi và thử thách. Bất cứ một cộng đồng nào ở đây cũng phải tiến hành công cuộc trị thuỷ và thuỷ lợi. Mặc dù ở phương Đông chế độ tư hưu về ruộng đất gần như không có, xã hội bị phân hoá chậm chạp đồng thời tính giai cấp rất hạn chế và mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng phát triển chưa tới mức độ gay gắt, quyết liệt như ở phương Tây nhưng trong môi trường kinh tế xã hội mới như vậy nhà nước đã phải ra đời. Chính công cuộc trị thuỷ, thuỷ lợi không chỉ là yếu tố duy trì chế độ tư hữu về ruộng đất mà còn là yếu tố thúc đẩy nhà nước phải ra đời sớm. Trước đó tổ chức của công xã thị tộc, với quy mô tổ chức và hiệu lực của nó, không còn đủ khả năng tổ chức công cộng chống lũ và tưới tiêu. Đồng thời nhu cầu tự vệ cũng là một yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình hình thành nhà nước. Nhà nước ra đời sớm, cả về thời gian và không gian, do điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội đặc biệt của phương Đông.
Trong tất cả phạm vi các cộng đồng, tầng lớp quý tộc lúc ban đầu vốn thực hiện “chức năng xã hội” đảm bảo lợi ích chung của cả cộng đồng, rồi chuyển sang “địa vị độc lập đối với xã hội” và cuối cùng “vươn lên thành sự thống trị đối với xã hội”.
2/ Tiền đề kinh tế – xã hội dẫn đến sự tan rã xã hội cộng sản nguyên thủy và sự hình thành nhà nước và pháp luật
Có nhiều quan điểm về sự hình thành nhà nước
Theo thuyết thần học, nhà nước là do thượng đế sinh ra để quản lý xã hội
Theo thuyết khế ước xã hội, nhà nước là sản phẩm của 1 bản hợp đồng của những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Khi nn k thực hiện tốt chức năng của nó thì các thành viên ấy phá bỏ khế ước cũ và lập khế ước mới, nn mới ra đời.
Còn theo quan điểm của cn Mác-Leenin, nhà nước ra đời trên sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thủy:
Tiền đề kinh tế:
Khi lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến năng suất lao động ngày càng tăng lên
Qua 3 lần phân công lao động – Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt
-Thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp
-Thương nghiệp phát triển
Của cải dư thừa => các tiểu gia đình tách khỏi đại gia đình, muốn cuộc sống tốt hơn cho 1 số ít người, không phải làm vì cả cộng đồng nữa => xuất hiện tư hữu về tư liệu sản xuất do một số người có quyền lực chiếm đoạt để tách ra thành gia đình riêng => trở thành những người chuyên đi bóc lột
Tiền đề xã hội:
Những người tư hữu về tư liệu sản xuất đó trở thành những người chuyên đi bóc lột. Từ đó hình thành nên các tầng lớp và giai cấp có địa vị kinh tế khác hẳn nhau :
Chủ nô (chiếm nhiều của cải + tư hữu tư liệu sản xuất)
Bình dân (chỉ có 1 ít của cải)
Nô lệ( tù binh chiến tranh và những nông dân phá sản)
Mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột và bị bóc lột ngày càng tăng, đến mức đỉnh điểm không thể tự điều hòa được => Giai cấp mạnh hơn sẽ đứng lên cầm quyền, trấn áp các giai cấp khác và quản lý theo ý chí của họ. Họ thành lập 1 tổ chức là nhà nước để điều hòa mâu thuẫn ấy.
Pháp luật hình thành khi nhà nước ra đời, là công cụ của nhà nước bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Trước khi hình thành nhà nước thì phong tục tập quán với bản chất là bình đẳng với các thành viên, nhưng khi xuất hiện giai cấp, xuất hiện nhà nước thì các phong tục này k điều chỉnh đc sự bình đẳng nữa, k phù hợp nữa => PL ra đời.
2 hình thức hình thành PL Thừa nhận, nâng lên những tập quán có lợi cho mình
Ban hành những quy tắc mới.
3/ Quy luật chung và những nét đặc thù về sự ra đời nhà nước ở phương Đông và phương Tây thời cổ đại
Quy luật chung: Ra đời trên sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thủy
Ở phương Tây: do 2 nguyên nhân chính là -Tư hữu tư liệu sx(tiền đề kinh tế)
-Phân chia giai cấp(tiền đề xã hội)
=> mâu thuẫn k điều hòa đc => hình thành nn. PL là công cụ của nn để bảo vệ lợi ích cho mình và quản lý xh.
Ở phương Đông: do công cuộc trị thủy- làm thủy lợi và việc chống ngoại xâm, mở rộng lãnh thổ => thúc đẩy quá trình hình thành nn. (cần người tổ chức,ng đứng đầu: Vua)
PL là do vua ban, cùng với 1 số “tập quán pháp” đã có từ trước
4/ Đặc trưng cơ bản của nhà nước và pháp luật phương Đông cổ đại
Nêu sơ qua về quá trình hình thành nhà nước phương Đông.
Nhà nước phương Đông cổ đại có 4 trung tâm văn minh là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc.
+) Tổ chức bộ máy nhà nước
Chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền
Cơ cấu tổ chức đơn giản và sơ khai.
Ở trung ương có: vua , quan đầu triều và quan lại giúp việc
Vua là ng nắm toàn bộ đất đai, chủ sở hữu tối cao, là người tổ chức bộ máy nhà nước, bổ nhiệm quan lại, gây chiến tranh hay hòa bình do vua quyết định.
Quan đầu triều:là 1 vị quan hay hội đồng thân tín của nhà vua, nắm giữ các công việc quan trọng.
Quan giúp việc: hệ thống các quan lại cao cấp. Tùy từng nơi, từng thời kì mà có sự phân công nhiệm vụ, quyền hạn.
Về quân đội: Do thường xuyên xảy ra chiến tranh nên phát triển quân đội rất mạnh. Chỉ huy tối cao là nhà vua. Lực lượng quân đội đông và đa dạng.
Ở địa phương tổ chức bộ máy là thu nhỏ của trung ương, sao chép đơn giản.
Kết luận: Bộ máy nhà nước là bộ máy bạo lực lớn, được thần thánh hóa nhằm bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị một cách triệt để.
+)Pháp luật phương Đông
Vì nhà nước và PL có mối quan hệ chặt chẽ nên khi nhà nước ra đời thì giai cấp cầm quyền cũng đồng thời ban hành PL.
2 bộ luật lớn ở phương Đông thời cổ đại là bộ luật Hamurapi(Lưỡng Hà) và bộ luật Manu(Ấn Độ). Đặc điểm cơ bản của pháp luật Phương Đông cổ đại là:
– Công khai thừa nhận sự bất bình đẳng trong xã hội. Bảo vệ quyền lợi và địa vị của giai cấp thống trị.
– Thừa nhận sự bất bình đẳng trong quan hệ gia đình giữa vợ và chồng, giữa các con với nhau do ảnh hưởng của chế độ gia trưởng.
– Ranh giới giữa hình sự và dân sự mờ nhạt, các hình phạt hà khắc và nặng nề về cả mặt tâm lý và thân thể.
– Bị ảnh hưởng bởi tôn giáo, lễ giáo và tư tưởng thống trị.
– Về hình thức, từ ngữ cụ thể, có tính hệ thống.
5/ Điểm khác biệt cơ bản giữa nhà nước và pháp luật phương Đông và phương Tây cổ đại
a/Nhà nước:
Phương Đông Phương Tây
-Các nhà nước ra đời sớm ở lưu vực các con sông lớn. -Nhà nước ra đời muộn,hình thành trên các bán đảo.
-Thuận lợi pt nông nghiệp. – K thuận lợi pt nông nghiệp mà thuận lợi pt thủ công nghiệp, thương nghiệp.
-Kinh tế hàng hóa chậm pt nên ko có trung tâm kinh tế lớn. -Pt thương nghiệp nên xh thành thị, trung tâm lớn.
-Ruộng đất thuộc quyền sở hữu nhà nước. -Ruộng đất chủ yếu thuộc về tư nhân
-Hình thức quân chủ chuyên chế tập quyền -Hình thức đa dạng.Dân chủ chủ nô, cộng hòa quý tộc, quân chủ chuyên chế
-HÌnh thức cấu trúc là các nước đơn nhất. -Hình thức cấu trúc: Có xuất hiện nhà nước thành bang
-Kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ ko điển hình, mang nặng tính gia trưởng -Kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ điển hình.
-Cả thần quyền và thực quyền tập trung vào tay vua -Vua nắm 1 phần quyền lực, các hội đồng hay tổ chức khác nắm 1 phần quyền lực.
b/ Pháp luật:
Pháp luật dân sự ở Phương Đông kém phát triển hơn Phương Tây. Ở Phương Đông, lĩnh vực pháp luật hình sự với các qui định về tội phạm và hình phạt được qui định nhiều hơn hơn pháp luật dân sự.
6/ Trình bày cơ sở kinh tế – xã hội của sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước phương Đông cổ đại
Nhà nước phương Đông cổ đại ra đời trên sự thúc đẩy của việc trị thủy-làm thủy lợi và nhu cầu tự vệ. Cơ sở kinh tế vẫn là việc tư hữu về tư liệu sản xuất, cơ sở xã hội là sự phân chia giai cấp, nhưng mâu thuẫn giữa những giai cấp không thật sự sâu sắc. Tuy vậy, yếu tố chính làm xuất hiện nhà nước là sự phân hóa giai cấp, còn yếu tố quản lý và vai trò của người thủ lĩnh trong công cuộc trị thủy và chiến tranh là yếu tố thúc đẩy sự ra đời của nhà nước sớm hơn.
Nhà nước phương Đông cổ đại tồn tại và phát triển trên nền tảng lấy kinh tế nông nghiệp làm chủ đạo. Do hình thành ở lưu vực các con sông lớn nên nông nghiệp phát triển mạnh.
7/ Nhà nước Trung Quốc cổ đại
1. Quá trình hình thành nhà nước
Trung Quốc là một trong những nền văn minh lớn của phương Đông cổ đại, cũng như Ai Cạp, Lưỡng Hà, ấn Độ, ở đây cũng có hai con sông lớn chảy qua đó là sông Hoàng Hà ở phía Bắc và sông Trường Giang ở phía Nam. Lịch sử của Trung Quốc cổ đại kéo dài gần 2000 năm. từ khoảng TK 21 TCN đến năm 221 TCN. Trong thời gian đó, lãnh thổ của Trung Quốc từ lưu vực sông Hoàng Hà không ngừng được mở rộng nhưng nhìn chung, nếu so với ngày nay thì còn rất hạn chế.
Vào khoảng TK 3 TCN, cư dân lưu vực sông Hoàng mới chuyển sang chế độ công xã thị tộc phụ hệ. Theo truyền thuyết, ở đây có nhiều bộ lạc nổi tiếng như Hoàng Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ…Qua quá trình đấu tranh và liên hiệp giữa các bộ lạc, cuối cùng hình thành một liên minh bộ lạc lớn mạnh do Đường Ngiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ lần lượt được bầu làm thủ lĩnh.
Trong thời kỳ này, kinh tế phát triển rõ rệt, nghề nông đã phát triển hơn trước nhiều do các công trình thuỷ lợi được xây dựng lại thêm đất đai màu mỡ. Do vậy, trong xã hội đã xuất hiện sự phân hoá tài sản và sự phân hoá xã hội diễn ra mạnh hơn. Tầng lớp quý tộc thị tộc ngày càng chiếm nhiều ruộng đất của công xã.Dần dần tầng lớp quý tộc thị tộc hình thành một giai cấp-quý tộc chủ nô. Đến thời Hạ, số lượng nô lệ ngày càng nhiều lên với nguồn chính là tù binh chiến tranh. Nông dân công xã vẫn là lực lượng xã hội đông đảo thời bấy giờ.
Khi Hạ Vũ chết, các quý tộc thân cận nhà Hạ trong liên minh bộ lạc đã ủng hộ con của Vũ là Khải lên thay. Việc bầu thủ lĩnh đến đây là chấm dứt, việc cha truyền con nối được coi là đương nhiên. Khi trở thành vua, Khải trở thành ông vua có quyền hành rất lớn. Sự kiện này đánh dấu sự hình thành nhà nước ở Trung Quốc.
2. Sơ lược lịch sử các triều đại
• Nhà Hạ (TK 21-16 TCN)
Nối chức thủ lĩnh của cha, Khải trở thành ông vua đầu tiên của Trung Quốc, phải đương đầu với nhiều cuọc chống chọi. Trải qua mấy thế kỷ, Kiệt nổi lên là một bạo chúa, áp bức bóc lột dân chúng thậm tệ, mâu thuẫn xã hội đã tới mức gay gắt. Nhân đó, nhà Thương được thành lập, tấn công nhà Hạ, nhà Hạ diệt vong.
• Nhà Thương (TK 16-TK12 TCN)
Sau khi nhà Hạ sụp đổ, nhà Thương chính thức được thành lập, đóng đô ở phía Nam sông Hoàng Hà. Đến TK 14 thì dời đô sang đất Ân ở phía Bắc sông Hoàng. Cũng từ đó, nhà Thương phồn thịnh trong một thời gian dài, về mọi mặt đều phát triển hơn so với thời nhà Hạ, công cụ và đồ dùng bằng đồng thau tương đối phổ biến. Việc trao đổi, mua bán cũng khá phát triển. Quan hệ nô lệ đã phát triển, nhưng công việc chủ yếu vẫn chỉ là làm việc trong gia đình chủ mà thôi.
Trụ là ông vua cuối cùng của nhà Thương nổi tiếng tàn bạo trong lịch sử Trung Quốc, dùng nhiều hình phạt để đàn áp nhân dân, gây chiến tranh với các bộ lạc xung quanh…Nhân đó nhà Chu ở phía Tây (vốn là nước chư hầu của nhà Thương) đã đem quân tấn công, nhà Thương diệt vong.
• Triều đại Tây Chu ( TK 12-771 TCN)
Sau khi đem quân tiêu diệt nhà Thương, nhà Chu đóng đô ở Cảo Kinh (phía Tây Tây An) nên gọi là Tây Chu.
Chính sách nổi bật trong triều đại này là chế độ phong hầu. Tất cả đất đai đều thuộc sở hữu của vua Chu. Vua cắt đất, phân cho con cháu, thân thuộc, khi phong đất kèm theo phong tước. Đến các chư hầu cũng phong cấp cho bề tôi của mình. Chế độ phân phong đã tạo nên một hệ thống chính trị dựa trên đẳng cấp quý tộc huyết thống, sử dụng hệ thống các nước chư hầu để cai trị trong nước và bành trướng ra bên ngoài.
• Triều đại Đông Chu (771-221 TCN)-thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc
Năm 770 TCN, nhà Chu dời đô về Lạc Dương, phía Đông Trung Quốc nên gọi là Đông Chu. Thời Đông Chu được chia thành hai thời kỳ là Xuân Thu (770-475 TCN) và Chiến Quốc ( 475-221 TCN). Thời kỳ này, nhà Chu ngày càng suy yếu còn các nước chư hầu ngày càng lớn mạnh và diễn ra các cuộc đấu tranh giành quyền bá chủ. Cuối TK 6 TCN, có 5 nước lớn là Tề, Tấn, Sở, Ngô, Việt (“Ngũ bá”). Sang thời Chiến Quốc có 7 nước tranh bá là Tề, Sở, Yên, Hàn, Triều, Ngụy, Tần (“Thất hùng”). Đây là thời kỳ chiến tranh liên miên, quy mô rộng lớn và vô cùng ác liệt.
Một hiện tượng nổi bật là cải cách về mọi mặt, trong đó, nhà Tần năm 359 TCN là cuộc cải cách nổi tiếng nhất và mang lại hiệu quả nhất. Qua các cuộc cải cách ở nước Tần và các nước khác, cơ sở kinh tế và đặc quyền của tầng lớp quý tộc bị phá vỡ, tầng lớp địa chủ mới ngày càng chiếm ưu thế. Đồng thời, qua cuộc cải cách, nước Tần mạnh hẳn lên, đánh bại được 6 nước thống nhất Trung Quốc vào năm 221 TCN. Từ đây, Trung Quốc bước sang thời kỳ phong kiến.
3. Tổ chức bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nươc Trung Quốc được xác lập và hoàn thiện từng bước. Thời Hạ-Thương : bộ máy nhà nước còn đơn giản, mang đậm tàn dư của thị tộc. Thời Tây Chu, bộ máy nhà nước được hoàn thiện về quy mô và cơ cấu tổ chức, tàn dư công xã thị tộc phai nhạt dần. Sang thời Xuân Thu-Chiến Quốc, tổ chức bộ máy nhà nước của các nước đã kế thừa và phát triển tổ chức của nhà Tây Chu..
Tổ chức bộ máy nhà nước :
– Đứng đầu nhà nước là Vua (còn gọi là Đế, Vương, Thiên Tử) : có quyền hành rất lớn về mọi mặt, có quyền lực vô tận, quyết định các công việc trọng đại của đất nước. Ý chí và lời nói của Vua đều gọi là pháp luật, Vua còn tự thần thánh hoá bản thân.
– Bộ máy quan lại ở TƯ :
• Hạ-Thương : mới chỉ có một số chức vụ quản lý các công việc như quản lý chăn nuôi, quản lý xe,..dưới Vua có chức quan Vu có quyền hành lớn nhất, giúp vua quản lý công việc triều đình,
• Tây Chu : bộ máy quan lại triều đình đi vào quy củ. vua thiết lập Tam Công gồm ba chức quan lớn theo thứ tự cao thấp : Thái sư, Thái phó, Thái bảo. Về sau, bỏ Tam công và lập ra 6 chức quan cao cấp (lục khanh) là Thái Tể, Tư Đồ, Tòng Bá, Tư Mã, Tư Khấu, Tư Không. Song song có thái sử liêu gồm: Tả sử, Hữu sử
• Chiến Quốc : xuất hiện chức quan cao cấp nhất trong bộ máy quan lại, tuỳ nước có các tên gọi khác nhau như Lệnh doãn, Tướng quốc, Thừa tướng..Sau này nhà Tần gọi Thừa tướng là Tể tướng.
– Bộ máy quan lại địa phương:
• Cấp hành chính : thời Hạ-Thương, viên quan đứng đầu thường là tù trưởng bộ lạc trứoc đó hay con cháu của của họ. Thời Tây Chu, do chính sách phân phong nên thêm một cấp địa phương là các nước chư hầu. Thời Xuân Thu-Chiến Quốc, do chiến tranh liên miên nên các nước chư hầu trở thành quốc gia độc lập với nhà Chu vì thế bộ máy chính quyền địa phương chủ hầu trở thành bộ máy chính quyền TƯ của một nước.
• Cấp cơ sở : Thời Hạ-Thương, đơn vị hành chính cấp cơ sở là công xã nông thôn do tộc trưởng đứng đầu, do công xã bầu ra. Thời Tây Chu, thôn trưởng vẫn do công xã bầu ra nhưng phải được chính quyền cấp trên phê duyệt. Thời Xuân Thu-Chiến Quốc : có những thay đổi quan trọng tuỳ từng nước.
• Quân đội : rất chú trọng xây dựng. Ngoài quân đội của TƯ, địa phương, các nước chư hầu cũng có lực lượng vũ trang riêng.
Tuy TQ cổ đại bị chia thành nhiều nước nhưng các nhà nước đó đều là nhà nước quân chủ chuyên chế dựa trên cơ sở kinh tế, chính trị-xã hội:
• Kinh tế : hầu hết ruộng đất đều thuộc sở hữu của nhà vua, công xã nông thôn tồn tại bền vững và được quyền sở hữu thực tế ruộng đất của vua.
• Chính trị-xã hội : hệ thống quan lại được hình thành, củng cố theo chế độ tông pháp và chế độ cha truyền con nối. Hầu hết các chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước đều do họ hàng nhà Vua nắm giữ, phẩm tước cao hay thấp phụ thuộc quan hệ gần hay xa. Do đó, đây là chế độ quan chue chuyên chế quý tộc (chủ nô).
8/ Pháp luật Lưỡng Hà cổ đại
Nền kinh tế hàng hoá ở Lưỡng Hà xuất hiện sớm và phát triển bậc nhất ở phương Đông cổ đại nên pháp luật Lưỡng Hà cũng phát triển nổi trội hơn so với các nước khác. Trong đó bộ luật Hammurabi là bộ luật có giá trị lớn nhất. Bộ luật gồm có ba phần : phẩn mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần mở đầu đã tuyên bố các vị thần đã trao đất nước cho nhà vua thống trị. Phần kết luận khẳng định lại công đức và uy quyền của nhà vua Hammurabi. Phần nội dung là phần chủ yếu của bộ luật, kế thừa những bộ luật trước đó, những phong tục tập quán của ng¬êi Xume vµ c¶ nh÷ng quy ®Þnh cña nhµ vua vµ toµ ¸n nhµ vua. Bộ luật gồm 282 điều khoản cụ thể điều chỉnh hầu hết những quan hệ xã hội lúc bấy giờ, từ các chế định về hợp đồng, hôn nhân và gia đình, thừa kế đến các chế định về hình sự, tố tụng.
• Chế định hợp đồng: 3 nội dung cơ bản : hợp đồng mua bán, hợp đồng vay mượn, hợp đồng cho thuê ruộng đất.
– Hợp đồng mua bán : phải có 3 điều kiện : tài sản mua bán phải đảm bảo đúng giá trị sử dụng, người bán phải là người chủ sở hữu thực sự của tài sản, khi tiến hành hợp đồng phải có người thứ ba làm chứng. Chế tài hợp đồng : tất cả các điều khoản trong hợp đồng đều áp dụng luật hình sự. Điều 7 quy định : nếu vật bán thuộc sở hữu của người khác thì sẽ bị xử tử hình.
– Hợp đồng vay mượn : 89-101 quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và người vay. 115-119 : biện pháp đảm bảo cho hợp đồng vay mượn nhằm đảm bảo quyền lợi cho chủ nợ.
– Hợp đồng cho thuê ruộng đất : có 2 hình thức sở hữu là ruộng đát nhà nước vả ruộng đất tư nhân. Được quy định từ điều 42-48 nêu lên quyền và nghĩa vụ của các chủ tư nhân, từ điều 48-50 là các điều khoản quy định chế tài hợp đồng.
• Chế định hôn nhân và gia đình : pháp luật luôn củng cố và bảo vệ chế độ hôn nhân bất bình đẳng, bảo vệ địa vị của người đàn ông trong gia đình. Người chồng có quyền ly hôn, quyền của người phụ nữ không được pháp luật bảo vệ.Hôn nhân hợp pháp phải có giấy tờ.
Điều 128 ghi rõ : nếu người vợ bị mắc bệnh hiểm nghèo thì người chồng có quyền lấy người phụ nữ khác nhưng phải chăm sóc chị ta suốt đời.
Điều 218 quy định : nếu dân tự do lấy vợ mà không có giấy tờ thì người vợ đó không phải là vợ của y.
• Chế định thừa kế : 167-170. Quyền để lại tài sản thừa kế bị pháp luật hạn chế ở một số trường hợp nhất định. Điều 169 quy định : tất cả các con đều được chia tài sản thừa kế như nhau.
• Chế định hình sự : Hình phạt mang tính chất hà khắc, dã man đặc biệt áp dụng quy tắc trả thù ngang bằng. Hầu hết các hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử bằng hình phạt để đảm bảo đặc quyền của gia cấp thống trị, và những hành vi xâm hại đến tài sản của giai cấp thống trị đều bị xử tử hình. Hình thức chuộc lỗi bằng tiền được áp dụng khá phổ biến nhưng mức phạt tiền lại phụ thuộc vào địa vị của người bị hại. Hình thức xử tử có khoảng 30 hình thức khác nhau nhưng đều rất dã man. Điều 196 quy định : nếu dân tự do làm hỏng con mắt của bất kỳ người nào thì phải làm hỏng con mắt của y
• Chế định tố tụng : nội dung chủ yếu là bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị chủ nô. Đó là quy định những kẻ tàng trữ nô lệ hay giúp đỡ nô lệ chạy trốn đều bị xử tử. Hay những quy định khắt khe của những kẻ cho vay nặng lãi đối với con nợ. Bộ luật còn cho pháp chủ nợ có quyền tịch thu tài sản của con nợ thậm chí bắt các thành viên trong gia đình con nợ làm nô lệ.
Bộ luật Hammurabi là bộ luật có giá trị vào bậc nhất ở phương Đông và thế giới cổ đại, là tấm gương phản chiếu rõ nét bản chất giai cấp của nhà nước.
9/ Nội dung và giá trị cơ bản của bộ luật Hammurabi:
* Nội dung bộ luật: Bộ luật Hammurabi là bộ luật tương đối hoàn chỉnh thời lỳ cổ đại, gồm 282 điều (hiện chỉ đọc được 247 điều) bao gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luật. Đây là một bộ luật tổng hợp được xây dựng dưới dạng luật hình, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực và đều có chế tài, chủ yếu là điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan tới lợi ích của giai cấp thống trị.
– Phần mở đầu Vua Hammurabi tuyên bố rằng các vị thần đã trao đất nước cho nhà vua thống trị để làm cho đất nước giàu có, nhân dân no đủ.
– Phần nội dung là phần chủ yếu của bộ luật. Nội dung của bội luật bắt nguồn từ sự kế thừa từ những bộ luật trước đó, cụ thể là những pháp điển của người Xume,ngoài ra chứa đựng những sắc lệnh của vua Hammurabi và nhiều quyết định của tòa án cao cấp bấy h.Trong đó, điều đầu tiên là bộ luật quy định thủ tục kiện cáo, cách xét xử tức tục tố tụng. Tiếp đó là những quy định về hình phạt của tội trộm cắp, bắt cóc nô lệ, về quyền và nghĩa vụ của binh lính, quyền lợi của người lính canh ruộng đất. Tội sử dụng bừa bãi nguồn nước, tội để súc vật tàn phá hoa mầu. Các hình thức cho vay lãi, nô lệ vì nợ cũng được quy định rất cụ thể. Sau đó bộ luật dành nhiều khoản về việc gả bán con gái, về gia đình, về các hình thức trị tội khi làm tổn hại tới thân thể người khác, hình phạt đối với tội thủ tiêu dấu trên mặt nô lệ, trách nhiệm và tiền công của những người làm thuê trong xây dựng, nông nghiệp, chăn nuôi, thủ công nghiệp. Và cuối cùng, những điều khoản quy đinh về mua bán nô lệ.
– Phần kết luận của bộ luật: khẳng định lại công đức và uy quyền của Hammurabi. Nhà vua trừng trị thẳng tay những kẻ nào hủy hoại bộ luật.
• Giá trị cơ bản:
– Vượt ra khỏi hạn chế lịch sử, giá trị xã hội của Bộ luật được thể hiện rõ ngay từ mục đích của Bộ luật, thể hiện ở phần mở đầu của Bộ luật: “Vì hạnh phúc của loài người thần Anu và thần Enlin đã ra lệnh cho trẫm-Hammurabi, một vị quốc vương quang vinh và ngoan đạo, vì chính nghĩa, diệt trừ những kẻ gian ác không tuân theo pháp luật, làm cho kẻ mạnh không hà hiếp người yếu, làm cho trẫm giống như thần Samat sai xuống dân đen, tỏa sáng khắp muôn dân.
– Về kỹ thuật lập pháp, tuy không phân chia thành các ngành luật nhưng bộ luật cũng đc chia thành nhóm các điều khoản có nội dung khác nhau. Phạm vi điều chỉnh là quan hệ xã hội như hôn nhân gia đình, ruộng đất, thừa kế tài sản, hợp đồng dân sự, hình sự, tố tụng..
– Về mặt hình thức pháp lý: đây là bộ luật tổng hợp được xây dựng dưới dạng luật hình, bao gồm các quy phạm Pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực và đều có chế tài.
– Về mức độ điều chỉnh: Bộ luật về cơ bản áp dụng mức độ điều chỉnh cụ thể, chi tiết.
Vượt khỏi hạn chế về tính giai cấp, có thể thấy chứa đựng trong nhiều quy phạm của Bộ luật dù ở dạng thức sơ khai nhất, cổ xưa nhất vẫn chứa đậm nét những giá trị tiến bộ, nhân văn, đặc biệt là về kỹ thuật lập pháp trong các qui định từ hôn nhân gia đình tới kế thừa, qui định hợp đồng. Bộ Luật vẫn chứa đựng nhiều giá trị đương đại đáng kế thừa và phát triển.
10/ Trình bày nét tương đồng và khác biệt giữa bộ luật Hammurapi và Manu.
Trả lời:
So sánh Bộ Luật Hammurabi và Bộ Luật Manu
– Bộ Luật Hammurapi là bộ luật thành văn sớm nhất được xây dựng trên cơ sở lấy từ những tiền lệ pháp của người Xume, những quy định của tòa án và cá phán quyết của tòa án ca lúc bây giờ, và mệnh lệnh chiếu chỉ của nhà vua bởi vậy mà Bộ Luật chú trọng tập trung điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội lúc bấy giờ. Tuy rằng Bộ Luật Manu cùng được xây dựng từ những luật lệ, những tập quán của giai cấp thống trị nhưng nó lại được các giáo sĩ Bà La Môn tập hợp dưới dạng trường ca, được trình bày dưới dạng câu trường ca, tuy có điều chỉnh quan hệ pháp luật nhưng nó còn bao gồm rất nhiều vấn đề như chính trị, tôn giáo, quan niệm về thế giới và vũ trụ, bởi vậy Bộ Luật bao gồm 2685 điều trong khi đó Hammurapi chỉ có 282 điều. Tuy nhiên, bộ Luật Hammurapi lại điều chỉnh các quan hệ xã hội tiến bộ hơn rất nhiều so với Manu.
– Nội dung:
o Chế độ hợp đồng: hai bộ luật điều có phần điều kiện có hiệu lực hợp đồng, Bộ Luật Manu chủ yếu đề cập tới vấn đề hợp đồng vay mượn, BL Hammurapi còn nói đến vấn đề hợp đồng lĩnh canh ruộng đất, hợp đồng gửi giữ, cả hai bộ Luật đều dung chính bản thân con người làm vật bảo đảm, tuy nhiên BL Hammurapi có những quy định cũng như chế tài rõ ràng hơn so với Manu, BL Manu có tính phân biệt rõ ràng đối với đẳng cấp cao đó là Bà La Môn.
o Chế định hôn nhân: BL Manu có sự bất bình đẳng rõ rệt giữa vợ và chồng, hôn nhân mang tính chất mua bán, người vợ được người chồng mua về, trong khi đó bên BL Hammurapi có thủ tục kết hôn, tuy cũng có sự bất bình đẳng nhưng BL vẫn có điều khoản bảo vệ người phụ nữ.
o Chế độ thừa kế: về cơ bản 2 BL đều có 2 hình thức thừa kế là: theo luật pháp và theo di chúc, đều thừa kế theo tài sản người cha. Bên BL Hammurapi có them phần Điều kiện tước quyền thừa kế.
o Chế độ hình sự: BL Manu có sự phân biệt đẳng cấp rõ ràng: khoan dung cho người đẳng cấp trên và trừng trị thẳng tay đối với kẻ đẳng cấp dưới có hành vi xâm phạm tới đẳng cấp trên, bên BL Hammurapi có quan niệm hình sự là trừng trị tội lỗi, mang tính chất trả thù ngang nhau tuy nhiên chỉ là tương đối. Các hình thức xử phạt của hai bộ Luật đều rất dã man.
o Chế độ tố tụng: Bộ Luật Manu thì coi trọng chứng cứ nhưng chứng cứ lại phụ thuộc vào giới tính và đẳng cấp, chứng cứ của đẳng caapscao có tính quyết định. BL Hammurapi cũng coi trọng chứng cứ nhưng ko phân biệt đăng cấp và điều quan trọng là được xét xử công khai rất tiến bộ.
Bộ luật Manu mang tính phân biệt đẳng cấp rất rõ rệt, mọi điều khoản đều ủng hộ đẳng cấp trên. Bộ Luật Hammurapi tuy cũng có sự phân biệt nhưng cùng với đó cũng có tính dân chủ nhất định, cũng có sự bảo vệ với người dân.`
11/ Trình bày cơ sở kinh tế – xã hội cho sự ra đời của Nhà nước Phương Tây cổ đại.
Trả lời:
– Kinh tế phát triển mạnh, do các quốc gia cổ đại phương tây chủ yếu là ven biển,đất đai lại không phù hợp với nông nghiệp do vậy xu hướng buôn bán thương nghiệp rất phát triển, cùng với đó là thủ công nghiệp cũng phát triển rực rỡ làm cho chế độ tư hữu diễn ra nhanh chóng, tư hữu về ruộng đất làm cho phân hóa xã hội diễn ra mạnh mẽ:
+ Những gia đình có thế lực trong xã hội thi tộc trước kia như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự chiếm nhiều ruộng đất và tư hữu tư liệu sản xuất, ngày càng trở lên giàu có trở thành giai cấp quý tộc thị tộc (hay còn gọi là quý tộc chủ nô ruộng đất)
+ Thương nhân, thợ thủ công, bình dân trong qua trình tìm vùng đất thực dân… ngày càng trở lên giàu có. Khi chế độ tư hữu ruộng đất xuất hiện, họ tậu được nhiều ruộng đất, nô lệ.. trở thành tầng lớp quý tộc chủ nô công thương nghiệp hay còn gọi là quý tộc mới.
+ Cùng với sự giàu có của quý tộc chủ nô là sự bần cùng hóa của nông dân, họ giải quyết sự bần cùng hóa của mình bằng 3 cách sau: Lĩnh canh ruộng đất của chủ nô để cày cấy hoặc đi làm thuê và trở thành tầng lớp bình dân; Một số quá nghèo bán mình làm nô lệ; Một số rời bỏ quê hương tìm vùng đất mới, dần dần họ biến nơi đó thành thuộc địa, những người đó càng trở lên giàu có và gia nhập vào tầng lớp quý tộc chủ nô công thương nghiệp.
– Do sự phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ nên mâu thuẫn giai cấp trở lên gay gắt. Trong đó, giai cấp chủ nô bóc lột sức lao động của nô lệ là chủ yếu. Quan hệ nô lệ mang tính chất điển hình. Giai cấp nô lệ phản kháng lại sự áp bức bóc lột bằng nhiều cuộc nổi dậy, để dập tắt những cuộc đấu tranh đó, giai cấp chủ nô thiết lập ra nhà nước để quản lý và đàn áp giai cấp bị trị.
12/ Nhà nước Hy Lạp – La Mã thời cổ đại
1. Địa lý – kinh tế-xã hội
1.1 Địa lý – kinh tế : nền kinh tế sớm có nhiều thành phần
– Nằm trên bán đảo Ban-can ở phía Nam châu Âu, thuận lợi cho việc thương mại, buôn bán, họ có thể vượt qua Địa Trung Hải tới Cận Đông là Bắc Phi, phía Bắc là Bắc Âu, phía Tây là Tây Âu và Đại Tây Dương, có nhiều thuận lợi cho giao lưu hàng hoá, thương nghiệp, nhiều hải cảng tốt
– Sản phẩm : lúa mì, lúa đại mạch, nho(nấu rượu), ôliu (lấy dầu); nghề thủ công, chế tạo vũ khí, công cụ sản xuất cũng rất phát triển
– Công thương nghiệp : chưa có máy móc nhưng nền kinh tế vận hành theo cơ chế hàng hoá thị trường, có chủ nô có trong tay hàng ngàn nô lệ, nền kinh tế thị trường La Mã rất phát triển (tương đối giống CNTB thời kỳ cận đại) khác hoàn toàn châu á
1.2 Xã hội
– TK 8 TCN, Hy Lạp bước vào thời kỳ XH có giai cấp tan rã một cách triệt để, tư hữu phát riển mạnh, nó quyết định cách thức phát triển của xã hội
– XH có 3 giai cấp : chủ nô, nông dân-thị dân, nô lệ
2. Lịch sử Hy Lạp – La Mã
2.1 Lịch sử cổ đại Hy Lạp
Vào TK 8 TCN, nhiều thành bang, có 2 hình thúc nhà nước tồn tại là nhà nước cộng hoà quý tộc chủ nô Spac và cộng hoà dân chủ chủ nô Aten.
Kinh tế, văn hoá, xã hội phát triển rất rực rỡ nhất là vào khoảng TK 5 TCN.
Đến TK 2 TCN : Hy Lạp bị sụp đổ dưới sự xâm lược của đế quốc La Mã.
2.2 Lịch sử cổ đại La Mã
TK 6 TCN, trên bán đảo Italia, hình thành nhiều QG của nhiều tộc người khác nhau.
Người Latin (bao gồm La Mã) đã dựng nước ở miền trung nước Italia, TK 6 TCN, người Latin xây dựng thành Rome ở bên bờ sông Typơrơ.
Sự phát triển của đế quốc La Mã gắn liền với những cuộc chiến tranh xâm lược, mở rộng lãnh thổ, xây dựng một đế quốc La Mã rộng lớn nhất thời kỳ cổ đại. Đế quốc La Mã chinh phục toàn bộ bán đảo Italia, Nam Âu, xâm lược toàn bộ Bắc Âu, Tây Âu (tức là toàn bộ nước Anh bây giờ), qua Địa Trung Hải xâm lược toàn bộ Lưỡng Hà, toàn bộ Bắc Phi, TK 2 TCN là thời kỳ hưng thịnh của đế quốc La Mã, biên giới phía Nam kéo dài xuống tận sa mạc Sahara.
TK 5 SCN, đế quốc La Mã sụp đổ, chế độ nô lệ La Mã kết thúc cũng tức là kết thúc thời kỳ cổ đại.
3. Nhà nước cộng hoà quý tộc chủ nô Spác
3.1 Sự ra đời của nhà nước
Quá trình ra đời NN Spac đồng hành cùng quá trình xâm lược và thiết lập ách thông trị của người Đô-riêng ở Spac.
Vào TK 12-11 TCN, người Đô-riêng tràn vào xâm lược vùng đất của ngươid Akêăng. Cả hai tộc người này đều đang ở trạng thái công xã nguyên thuỷ đang tan rã, Vào TK 9 TCN, người Đô-riêng xây dựng thành Spac. Trong quá trình xâm chiếm, ở thành Spac dần dần hình thành mầm mống của XH có giai cấp và NN. Đến TK 8-7 TCN, người Đô-riêng tiếp tục xâm lược vùng đất bên cạnh của người Ilốt biến cư dân ở đây thành nô lệ tập thể. Sau cuộc xâm chiếm đó, quan hệ nô lệ được xuất hiện trọn vẹn. Sự phân chia giai cấp được xác lập vững chắc với việc phân chia cư dân thành ba giai cấp khác nhau là người Spac (thống trị), người Ilốt (nô lệ) và người Piriecơ (thợ thủ công).
Ngăn chặn không cho tầng lớp công thương nghiệp (người Pirieccơ) giàu lên, phát triển thế lực, NN Spac đã thi hành chính sách hạn chế công thương nghiệp. Thành bang Spac là quốc gia nông nghiệp.
3.2 Tổ chức bộ máy nhà nước cộng hoà quý tộc chủ nô Spac
– Đứng đầu là Hai Vua (tàn dư của chế độ công xã thị tộc-đứng đầu là hai thủ lĩnh), là thành viên trong hội đồng trưởng lão, vừa là thủ lĩnh QS, vừa là tăng lữ tối cao, vừa là người xử án. Tuy nhiêm, khác với những ông vua chuyên chính của phương Đông, quyền lực Hai vua không lớn lắm.
– Hội đồng trưởng lão gồm 28 vị trưởng lão và hai vua. Trưởng lão là người có đọ tuổi từ 60 tuổi trở lên được chọn từ đội ngũ những quý tộc danh vọng, có vai trò quan trọng trong bộ máy NN, có quyền quyết định những vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước.
– Hội nghị công dân, về hình thúc là CQ quyền lực cao nhất, mọi người Spac trên 30 tuổi đều có thể tham gia hội nghị công dân. Mọi người thông qua hay phản đối những vấn đề trong hội nghị bằng những tiếng thét chứ không được thảo luạn gì. Khi biểu quyết những vấn đề quan trọng những người dự hội nghị chia thành hai hàng, qua đó biết được tỷ lệ số người đồng ý hay phản đối. Tuy nhiên, hội nghị công dân thường chỉ mang tính hình thức vì dễ xảy ra tiêu cực lại không được họp thường xuyên mà phải tuỳ theo quyết định của Hai Vua.
– Về sau, do mâu thuẫn giữa hội đồng trưởng lão và hội nghị công dân ngày một gay gắt nên một CQ có quyền hạn rất lớn được thành lập đó là Hội đồng 5 quan giám sát-là đại biểu của tập đoàn quý tộc bảo thủ nhất, có quyền hành rất lớn như giám sát vua, giám sát hội đòng trưởng lão…Thực chất, nó là CQ lãnh đạo tối cao xủa NN nhằm tập trung quyền lực vào tay tầng lớp quý tộc chủ nô.
– NN Spac đặc biệt chú trọng quân đôị. Lục quân Spac là đội quân thiện chiến. Mọi ngưòi trong toàn đất nước đều chú ý phát triển quân đội, các bé trai được huấn luyện từ năm 7 tuổi để trở thành chiến sĩ dũng cảm, nhanh nhẹn..đến năm 20 tuổi được mặc quân phục và đến năm 60 tuổi mới được cởi bỏ bộ quần áo lính.
Trong quá trình phát triển của lịch sử Hy Lạp cổ đại, NN Spac là dinh luỹ của thế lực chủ nô phản động nhất, chống lại những thành bang theo chính thể CH dân chủ chủ nô. Quyền lực NN tập trung tối đa vào tay tập đoành quý tộc chủ nô và quyền dân chủ của những người tự do bị hạn chế tới mức tối thiểu. Bởi vậy, NN Spac là NN CH quý tộc chủ nô điển hình nhất.
4. Nhà nước cộng hoà dân chủ chủ nô Aten
4.1 Quá trình Aten chuyển sang chính thể cộng hoà
Cũng như nhiều vùng khác ở Hy Lạp, đến khoảng TK 8 – TK 6 TCN, Aten bắt đầu bước vào xã hội có giai cấp và có nhà nước.
ở Aten, công thương nghiệp phát triển rất sớm với tốc độ rất nhanh, bên cạnh tầng lớp quý tộc chủ nô, tầng lớp chủ nô mới (chủ nô công thương) xuất hiện rất sớm, tăng nhanh về số lượng và mạnh về kinh tế, họ giữ vai trò quan trọng trong quá trinhg hình thành và phát triển chính thể cộng hoà dân chủ chủ nô Aten sau này.
Quá trình chuyển biến sang chính thể cộng hoà được chuyển biến và đấu tranh bằng nhiều hình thức như bạo lực, cải cách giữa một bên là chủ nô nông nghiệp (chủ nô cũ) và một bên là chủ nô công thương (chủ nô mới) để thiết lập nền cộng hoà, chủ yếu chuyển biến bằng cải cách với những cuộc cải cách lớn như cải cách Xôlông, cải cách Clixten, cải cách Pêriclet. Các cuộc cải cách đều theo hướng có lợi cho chủ nô công thương, hạn chế quyền lực chính trị của chủ nô nông nghiệp và tăng cường thế lực kinh tế, chính trị của chủ nô công thương và bình dân.
Qua các cuộc cải cách đã hình thành các đặc trưng cơ bản của nhà nước :
– chia dân cư theo khu vực hành chính để cai trị.
– cơ quan quyền lực công cộng : Đại hội công dân, hội đồng 500
Chủ nô công thương và bình dân thắng triệt để hình thành chính thể cộng hoà dân chủ chủ nô Aten.
4.2. Cấu trúc bộ máy nhà nước
Biểu hiện
5. Nhà nước La Mã
5.1. Quá trình hình thành và phát triển nhà nước La Mã
Bán đảo Italia vươn ra Địa Trung Hải có nhiều đồng bằng rộng và đất đai màu mỡ, lag nơi gặp gỡ của những luông văn minh Đông và Tây Địa Trung Hải. Trước khi La Mã chiếm toàn bộ Italia, ở đây coa 3 tộc người sinh sông, người Hy Lạp ở phía Nam, người Êtơrutxcơ ở phía Bắc và người Latin ở phía trung. Người Latinn cho xây dựng thành La Mã nên họ được gọi là người La Mã.
Quá trình hình thành NN La Mã là kết quả của cảc hai yếu tố : sự phân hoá XH, phân hoá giai cấp ở tộc người Latin và tộc người Êtơrutxcơ và cuộc đấu tranh của người Latin chống lại sự xâm lược của người Êtơrutxcơ. Xã hội người La Mã thời kỳ này vẫn là chế độ quân sự bộ lạc, sau đó, XH dần bị phân hoá thành quý tộc chủ nô, nô lệ, bình dân.
XH từng bước chuyển sang XH có giai cấp và nhà nước xuất hiện.
5.2 Tổ chức bộ máy NN La Mã (chính thể CH quý tộc sau đó chuyển sang chính thể quân chủ chuyên chế chủ nô)
[Viết theo: Special report by Catholic Answer, USA]
Trước kia, ‘Jihad-Thánh chiến’ là một từ hầu như không ai biết. Nhưng giờ đây Jihad không những xuất hiện thường xuyên trên báo chí, trên hệ thống truyền thanh truyền hình, mà nó còn xuất hiện nơi các buổi hội thảo chính trị cũng như trong các cuộc họp mặt thân thiện. Bọn khủng bố và các nhóm dân quân Hồi Giáo đã nhân danh jihad để gây lên cảnh tang thương chết chóc cho bao người vô tội.
Lịch sử thế giới đã sang trang sau biến cố 11.9. 2001. Các tay khủng bố làm rúng động và thức tỉnh thế giới, khi bọn chúng ra tay vẽ lại bộ mặt Nữu Ước bằng cách làm sụp đổ hoàn toàn tòa nhà đôi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới cao ngất, và phá hủy một phần Ngũ Giác Đài đồ sộ. Và để mở trận chiến tiêu diệt bọn khủng bố, các nhà lãnh đạo Mỹ trước tiên trấn an cộng đồng Hồi Giáo bằng cách lên tiếng xác nhận Hồi Giáo là một tôn giáo hoà bình và đang bị một nhóm quá khích và khủng bố lợi dụng, nên việc truy lùng và đánh trả của nước Mỹ không có liên quan gì đến thế giới Hồi Giáo.
Tuyên bố của nước Mỹ là như vậy, nhưng thế giới Hồi Giáo có tin không, hay chỉ cho đó là một chiến thuật đánh lạc hướng dư luận của ‘đế quốc’ Mỹ. Nếu cộng đồng Hồi Giáo trên thế giới cho rằng nước Mỹ đang tấn công Hồi Giáo, thì lúc đó mọi tín đồ Hồi Giáo có nhiệm vụ phải chiến đấu để bảo vệ tôn giáo của mình: The duty of jihad, nghĩa vụ thánh chiến. Lúc đó thì cuộc chiến chống khủng bố, thay vì cố tìm cách dập tắt một ngọn lửa thì lại làm cho khối lửa jihad bùng cháy trên toàn thế giới, trong đó các quốc gia Hồi Giáo trên thế giới gồm 1.2 tỉ người được huy động để chống lại nước Mỹ và Tây phương.
Những người biện hộ cho đạo Hồi cũng vội thanh minh với công luận rằng, Hồi Giáo là một tôn giáo hòa bình. Họ tuyên bố một cách chưa trung thực lắm rằng, theo tiếng Ả Rập thì Islam (Hồi Giáo) có nghĩa là hòa bình. Họ cố gắng mô tả đám khủng bố chỉ là một nhóm nhỏ đứng ngoài cộng đồng Hồi Giáo chân chính.
Điều này chưa hẳn đúng.
Theo nghĩa thông dụng trong tiếng Ả Rập, Islam thường được dùng để chỉ ý nghĩa ‘tùng phục’ hơn là ‘hoà bình.’ Và nếu những kẻ khủng bố chỉ là một nhóm nhỏ đứng bên ngoài, thì tại sao những người Hồi Giáo khắp nơi trên thế giới lại hân hoan ăn mừng khi đám không tặc tông vào tòa nhà đôi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới và Ngũ Giác Đài? Tại sao các chính quyền Hồi Giáo lại không dám nhiệt tình công khai ủng hộ cho cuộc chiến chống khủng bố? Hơn nữa, tại sao tất cả các chính quyền đang lén lút ủng hộ đám khủng bố lại tập trung trong thế giới Hồi Giáo?
Thật ra, Hồi Giáo là một tôn giáo có xu hướng thiên nhiều về bạo lực. Nói như vậy không có ý cho rằng mọi người theo đạo Hồi đều bạo động. Có nhiều người Hồi Giáo thực sự yêu hòa bình. Có những người Hồi Giáo mong muốn một cuộc sống hòa bình như mọi người khác trên thế giới. Nhưng bạo động vẫn đang tàng ẩn nơi tiềm thức của họ như những người Hồi Giáo khác. Và đạo Hồi, với danh nghĩa một tôn giáo và một ý thức luận, có khả năng khai thác điều tàng ẩn đó.
Mặc dù có hàng triệu người theo Hồi Giáo muốn có sự liên hệ thân thiện với Tây phương, hàng triệu người Hồi Giáo mong muốn sống trong các xã hội tự do như nước Mỹ chẳng hạn. Nhưng dù sao đi nữa, ở đó cũng tiềm tàng khuynh hướng bạo động mạnh mẽ và khó lường của đạo Hồi. Đây là điều thật quan trọng mà những người Mỹ và Tây phương cần hiểu.
Để có thể hiểu được sự liên hệ giữa đạo Hồi và bạo lực, người ta phải hiểu về cái nhìn toàn cầu của người Hồi Giáo. Một trong những khía cạnh quan trọng nhất, đó là dựa vào nhận thức về đạo Hồi lịch sử, người ta biết Hồi Giáo và chính quyền là một. Nhà sử gia Bernard Lewis viết trong cuốn ‘Đạo Hồi và Tây phương’ như sau:
”Đối với những người Hồi Giáo, quốc gia là quốc gia của Thiên Chúa (Allah), quân đội là quân đội của Thiên Chúa, và dĩ nhiên, kẻ thù của quốc gia là kẻ thù của Thiên Chúa. Đặc biệt nhất, luật pháp là luật pháp của Thiên Chúa. Không có vấn nạn nêu lên về ranh giới giữa tôn giáo và quốc gia, vì tôn giáo không phải là một thể chế tự trị được tách rời. Tôn giáo và quốc gia là một và như nhau.”
Điều này có nghĩa là, theo nhận thức về đạo Hồi lịch sử, thì xã hội Hồi Giáo là và sẽ là một thể chế chính trị thần quyền, một xã hội trong đó, chính Thiên Chúa là vua cai trị thế giới qua những người thừa hành.
Vào những ngày đầu của đạo Hồi, người thừa hành là tiên tri Mohammed, người sáng lập ra đạo Hồi và đã tung quân cưỡng chiếm toàn bộ bán đảo Ả Rập. Sau đó, người thừa hành là các vua Hồi, và trong những thế kỷ sau khi Mohammed qua đời, họ đã mở rộng xã hội Hồi Giáo bằng cách xâm chiếm các quốc gia láng giềng, lan tới miền cực Tây là Tây Ban Nha và tới cực Đông là Ấn Độ. Trong khi đi xâm lăng như thế, họ đã hấp thụ được nền văn minh Kytô giáo. Cuối cùng, quyền lực các vua Hồi yếu dần, và rơi vào tay những lãnh tụ mới, chẳng hạn như các vua giòng họ Ottoman. Xuyên qua mọi thời, Thiên Chúa được coi như vị cai trị của nền văn hoá Hồi Giáo.
Đạo Hồi theo thể chế chính trị thần quyền đưa đến những hệ quả đáng ngại trong việc luận định vị trí của đạo cũng như thái độ của người Hồi Giáo phải như thế nào.
Trước nhất, đạo Hồi không chỉ là một tôn giáo, mà nó còn là một hệ tư tưởng chính trị. Nếu chính quyền của cộng đồng Hồi Giáo là chính quyền của Thiên Chúa, vậy không có chính quyền nào khác được coi là hợp pháp vì các chính quyền đó chống lại Thiên Chúa. Kết quả, người Hồi Giáo đã chính thức chia thế giới thành hai phe: Một bên là ‘Dar al-Islam – nhà của Hồi Giáo hay nhà của người tùng phục ‘ và bên kia là ‘Dar al-Hab – nhà chiến tranh’ tức những người gây chiến với Thiên Chúa.
Thứ hai, các người Hồi Giáo tự cho mình có một ‘sứ mạng hiển nhiên’, vì sau cùng Thiên Chúa sẽ phải toàn thắng, các Dar al-Harb phải chịu dưới quyền cai trị của chính quyền Hồi Giáo và trở thành một phần của Dar al-Islam.
Thứ ba, vì Dar al-Harb tự bản chất là những kẻ gây chiến với Thiên Chúa, cho nên có lẽ không còn cách nào khác để đưa họ trở về tùng phục Thiên Chúa ngoài việc chiến đấu. Có những nhóm vì những lý do khác nhau sẽ buông khí giới để tùng phục và tham gia vào cộng đồng Hồi Giáo. Nhưng cũng có nhiều dân tộc thà chiến đấu chứ không chịu xoay chiều, cụ thể nhất là các Kytô hữu, những người chống lại cách quyết liệt sự xâm lăng của Hồi Giáo hơn là chống lại tà giáo.
Vì nhu cầu bành trướng sự thống trị của Thiên Chúa bằng chiến tranh để chiếm đất đai, ý thức luận Hồi Giáo gây ấn tượng mạnh mẽ trên các tín đồ Hồi Giáo nhiệm vụ chiến đấu cho cộng đồng Thiên Chúa. Nhiệm vụ này gọi là jihad (thánh chiến). Chỉ nhờ việc tiếp tục jihad, người Hồi Giáo mới có thể hoàn tất ‘sứ mạng hiển nhiên’ của họ là đem toàn thế giới đến chỗ quy phục Thiên Chúa.
Nhà xã hội học danh tiếng người Pháp Jacques Ellul chú giải: ”Jihad là một nghĩa vụ tôn giáo. Nó là một phần của những bổn phận mà những người tin phải hoàn thành. Đó là phương cách thông thường của Hồi Giáo để bành trướng.”
Thứ bốn và cũng là hệ quả cuối cùng của quan điểm thần quyền của đạo Hồi là rằng, theo học thuyết, thì tất cả những người Hồi Giáo không chỉ là một cộng đồng tôn giáo, mà còn là một chính quyền nữa – chính quyền của Thiên Chúa, một siêu quốc gia Hồi Giáo! Điều này chưa xảy ra. Các người Hồi Giáo vẫn còn bị cai trị bởi các chính quyền khác nhau kể từ những ngày đầu của đạo Hồi. Đạo Hồi chưa đạt được nguyện vọng này ngay trong thế giới Hồi Giáo, là do những yếu tố lịch sử khác nhau. Nhờ thế đã làm chậm lại sự bành trướng của đạo Hồi. Dẫu vậy, thế giới của những dân tộc không phải là Hồi Giáo đã luôn bị đe dọa: Châu Âu trong nhiều thế kỷ đã phải kinh hoàng vì sự xâm lăng của người Hồi Giáo, như nhà biên chép sử biên niên về sự bành trướng của đạo Hồi là Paul Fregosi đã viết:
”Lời cầu nguyện: ‘Ôi lậy Chúa, xin cứu chúng con khỏi sự tàn ác của những người Hồi Giáo’ được vang lên hàng nhiều thế kỷ trong các thánh đường thuộc trung tâm và phía Nam châu Âu. Ngay cả lúc này, nỗi sợ hãi đối với jihad vẫn chưa tan biến, đặc biệt nơi những người có kiến thức về sự thống trị của Hồi Giáo.”
Những người Hồi Giáo đã tung ra những cuộc truy lùng bất ngờ để bắt người làm nô lệ nơi mãi tận Anh quốc và Ái Nhĩ Lan. Họ tấn công xứ Băng Đảo và họ tiến sâu vào châu Âu. Họ chiếm Sicily và xâm lăng lãnh thổ nước Ý. ”Ngay cả Rôma cũng có thời rơi vào tay người Ả Rập. Nhân phẩm con người bị chà đạp. Năm 846 ở Rôma, những người Hồi Giáo đã cướp phá các đền thờ thánh Phêrô và Phaolô, khiến Đức Thánh Cha đã phải mua chuộc những kẻ xâm lăng bằng cách hứa hàng năm sẽ hiến tặng 25,000 đồng tiền bạc. Đức Thánh Cha Leo IV đã ra lệnh xây một bức tường quanh thành phố Rôma để bảo vệ đền thờ Thánh Phêrô.”
Mối đe dọa tiếp tục nhiều thế kỷ, như năm 1529 và 1683 người Hồi Giáo chiếm Vienna, thủ đô của đế chế Rôma tọa lạc ngay trung tâm châu Âu.
Nhưng rồi sự sự xâm lăng của Hồi Giáo bị trì trệ. Một cánh cửa mới mở ra cho châu Âu, đặc biệt là việc khám phá ra tân thế giới, đem lại những lợi nhuận lớn lao. Và rồi châu Âu không ngừng phát triển về kinh tế, kỹ thuật và quân sự, đô hộ nhiều nước trên thế giới. Cán cân quyền lực thay đổi, thế giới Hồi Giáo trở nên yếu dần và bị người Âu châu đô hộ hoặc bảo hộ. Lewis ghi chú:
”Tới năm 1920 sự toàn thắng của châu Âu trên Hồi Giáo có vẻ là trọn vẹn và chung cuộc. Phần lớn các lãnh thổ của Hồi Giáo ở Á châu và Phi châu hoàn toàn ở dưới sự khống chế của các đế quốc Âu châu. Chỉ một vài quốc gia có vua bản xứ, còn hầu hết đều chịu sự cai trị trực tiếp từ những vị toàn quyền. Duy một vài vùng thuộc sa mạc và đồi núi hẻo lánh, nghèo khổ là được quyền tự trị, vì những vùng này không đem lợi ích gì nhiều cho họ.”
Người Hồi Giáo phản ứng thế nào về một chuỗi những phát triển đáng ngại này?
Vào thế kỷ 17, người Hồi Giáo đã nhận ra điều gì đó bất ổn tai hại đang xảy ra trên thế giới. Mặc dù trước đây xã hội Hồi Giáo chiếm ưu thế về kinh tế, và xét về một khía cạnh nào đó về văn hóa, Hồi Giáo trội hơn xã hội Âu châu. Vậy mà các người lãnh đạo Hồi Giáo đã thấy ló ra những tên vô đạo dã man Âu châu, những kẻ đang vượt thắng và chế ngự xã hội Hồi Giáo.
Thật khó để người Tây phương nhận thức được là những sự kiện này đã làm tổn thương đến lòng tự ái và tự giác của người Hồi Giáo như thế nào.
Những chiến thắng trước kia của Hồi Giáo như một khẳng định trong đầu óc của họ rằng, họ là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, và rằng nền văn hoá là thuộc về đạo Hồi. Và họ đã coi khinh những dân tộc chung quanh, mà họ cho là dã man và vô đạo.
Đã xảy ra sai lầm gì? Tây phương đánh, Trung Đông đỡ. Bernard Lewis chú giải rằng, các Kytô hữu Âu châu vốn bị coi ”như những kẻ dã man và vô đạo ở bên ngoài, không đáng để học hỏi và cũng chẳng có gì đáng để nhập cảng, ngoại trừ nô lệ và vật liệu thô. Đối với dân dã man của cả hai phía Bắc (người Âu châu) và Nam (người Nam Phi) thì cách tốt nhất cho họ là hội nhập vào trong vương quốc các vua Hồi, và như thế, họ mới có thể nhận được các lợi ích của tôn giáo cũng như của nền văn hoá Hồi.”
Cho nên, nay người Hồi Giáo mới kinh hoàng xửng sốt khi thấy nền văn hoá của họ đang bị xụp đổ và kẻ thù xưa của họ, những Kytô hữu Tây phương, đang bá chủ và tung hoành mọi nơi và đang kiểm soát đất đai của họ. Tại sao điều này lại có thể xảy ra? Làm sao dân của Thiên Chúa lại phải chịu số phận trái ngược như thế này? Giận dữ với hiện tại và lo lắng cho tương lai, người Hồi Giáo bắt đầu tiến hành kiểm điểm. Bernard Lewis giải thích:
”Khi những sai lầm xảy ra trong xã hội tới mức không thể chối cãi hoặc che đậy, lúc đó người ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi. Ở Trung Đông có một câu hỏi quen thuộc, đặc biệt đối với lục địa châu Âu hôm qua và hôm nay là: ‘Ai đã tạo ra nông nỗi này cho chúng ta?’ Câu trả lời thường là đổ tội cho người nước ngoài hay con vật tế thần trong nước – những trú nhân nước ngoài hay một nhóm nhỏ trong nước. Những người thuộc gia tộc Ottoman, phải đối diện với cơn khủng hoảng chính trong lịch sử của họ, lại đặt ra câu hỏi khác: ‘Chúng ta đã có sai lầm gì?’
Sau đó là cuộc tranh luận, trong đó nhiều người Hồi Giáo đã cố phân tách và đưa ra những dự án cứu chữa. ”Căn cứ theo đại đa số những ‘cuốn sổ ghi nhớ’ này, thì lỗi lầm căn bản là đã bỏ mất đường lối tốt đẹp xưa, đường lối của Hồi Giáo và của Ottoman; thuốc chữa chính là phải trở về với đường lối cũ. Sự chuẩn đoán và diễn giải này luôn được chấp nhận cách rộng rãi ở Trung Đông.”
Sự giải thích song đôi về nỗi bất hạnh của những người Hồi Giáo, gây nên do sự thất bại trong việc tuân giữ chặt chẽ luật Hồi Giáo và do hành động độc ác của các ngoại bang (lúc đầu là Tây phương và giờ là người Mỹ), di họa cho mai sau.
Sự thống trị của Tây phương trên thế giới Hồi Giáo kéo dài không lâu, nghĩa là nó chấm dứt vào những năm 1960 sau thế chiến thứ hai. Sự kiện này đã ảnh hưởng lớn lao đến tâm trạng người Hồi Giáo. Nhưng rồi lại bị chặn lại bởi cuộc chiến tranh lạnh. Đó là sự đối đầu giữa khối Cộng sản, đứng đầu là Liên Bang Sô Viết và khối Tự do, đứng đầu là Hoa Kỳ. Các nước Hồi Giáo lúc đó còn yếu, nên phải dựa hoặc vào Liên Bang Sô Viết hoặc vào Hoa Kỳ.
Rồi Liên Bang Sô Viết sụp đổ, kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh. Tình thế thay đổi. Lúc đầu, nhiều người tỏ vẻ hân hoan vì nền hòa bình cho nhân loại đã hé mở. Nhưng một số người khác có cái nhìn sâu sắc hơn lại lo ngại cho những nguy hiểm mới sẽ xảy ra trên thế giới, bao gồm dân quân Hồi Giáo.
Samuel Huntington, giám đốc viện nghiên cứu chiến lược của trường đại học Harvard, đã cảnh giác rằng, việc chấm dứt thời chiến tranh lạnh sẽ dẫn đến một giai đoạn mà ông gọi là ”sự sung đột giữa các nền văn hoá.” Điểm nổi bật chính trong dự đoán của ông đối với sự xung đột này là sự xung đột giữa khối Hồi Giáo và thế giới Tây phương:
”Sau thế chiến thứ hai, tới phiên Tây phương bắt đầu rút lui, chấm dứt thời kỳ đô hộ. Trước tiên, chủ nghĩa quốc gia Ả Rập và rồi trào lưu Hồi Giáo chính thống xuất hiện… Sự đối đầu về quân sự giữa khối Tây phương và người Hồi Giáo trong những thế kỷ trước có vẻ như đã không tàn lụi. Nó có thể trở nên nguy hiểm hơn. Cuộc chiến vùng vịnh đã để lại nơi tâm khảm một số người Ả Rập niềm hãnh diện vì Saddam Hussein đã tấn công Do Thái và đứng lên chống lại Tây phương. Nó cũng khiến cho nhiều người cảm thấy bị nhục và thù hận vì sự hiện diện quân sự của Tây phương ở vịnh Ba Tư, vì sự thống trị của lực lượng quân sự của Tây phương cũng như vì nỗi bất lực trong việc tự làm chủ vận mạng của mình.”
Huntington ghi nhận một sự đồng lòng chung là sẽ có một cuộc xung đột không thể tránh được giữa những người Hồi Giáo và thế giới Tây phương, một cuộc xung đột đã được khởi sự từ xưa, sẽ sớm hiện hình trở lại, ”Đối với cả hai bên, sự xung đột giữa Hồi Giáo và Tây phương được coi như sự xung đột giữa các nền văn hoá.” Và sự đối đầu tiếp theo cho Tây phương, như nhận định của M.J. Akbar, một tác gỉa Hồi Giáo Ấn Độ, ”Dứt khoát sẽ đến từ thế giới Hồi Giáo. Đó là sự xuất kích của các quốc gia Hồi Giáo từ Maghreb tơi Pakistan để tranh đấu cho một trật tự thế giới mới được bắt đầu.”
Sự đối đầu đã đến bằng cuộc tấn công khủng bố 11/9/2001 và bằng sự mở màn cho cuộc chiến chống khủng bố.
Những tay khủng bố hy vọng điều gì?
– Họ hy vọng khơi dậy sự xung đột với Tây phương để chấm dứt Mùa Đông lâu dài và tăm tối của những người Hồi Giáo. Họ hy vọng lấy lại vị thế cho tôn giáo và nền văn hoá của họ. Họ hy vọng một cuộc chiến có thể đập tan quyền lực của Tây phương và làm cho làm sóng cách mạng Hồi Giáo quét sạch những bạo chúa thế tục đang thống trị trên các quốc gia Hồi Giáo. Họ hy vọng trở lại thời đại của đạo Hồi tinh tuyền và nghiêm khắc hơn, không còn những giá trị cũng như những đồi bại của Tây phương. Họ hy vọng Thiên Chúa chúc phúc cho nền văn hoá của họ, được đặt vào vị trí đúng và đứng đầu các dân tộc, với sự hồi sinh chủ nghĩa dân tộc Hồi Giáo và khai sinh ra một siêu quốc gia Hồi Giáo mà họ luôn mong chờ.
Và họ hy vọng tạo một làn sóng bành trướng mới để đạo Hồi có thể thống trị toàn thế giới. Trong một cuốn băng thâu âm nổi tiếng của nhóm Ai-Qeada ”dinner conversation” được tìm thấy ở Afghanistan, Osama bin Laden đã miêu tả viễn cảnh chiến tranh ông khởi xướng sẽ tạo ra làn sóng bành trướng của đạo Hồi chưa từng thấy kể từ thế kỷ đầu tiên của đạo Hồi, lúc mà đạo Hồi đã tàn phá một nửa nền văn minh Kytô giáo.
Giấc mơ đạo Hồi được đổi mới và được thanh luyện, giấc mơ lật đổ được các chính quyền Hồi Giáo hiện hành, của việc nghiền nát cách vinh quang thế giới Tây phương, và của việc bành trướng xuyên qua một hành động jihad mới vẫn còn xa so với khả năng còn hạn chế của bin Laden và chính sách khủng bố của ông. Giấc mơ khích động được sự giận dữ điên cuồng của người dân Ả Rập trên các đường phố, những người thường rất dễ gây ra những cuộc biểu tình bạo động mỗi khi xảy ra một biến cố chính trị.
Nội trong thế giới Hồi Giáo, các viên chức chính quyền vẫn cố bám vào quyền lực, cho dù sự giận dữ của dân chúng đang bùng lên trên các đường phố. Họ cố gắng tranh thủ thời gian, họ hỗ trợ các trường học Hồi Giáo quá khích, các cơ sở báo chí, và ngay cả ủng hộ các tên khủng bố, với hy vọng hướng những giận dữ của người Hồi Giáo về phía Tây phương, biến họ trở thành những con vật tế thần.
Thế giới Tây phương đáp trả bằng cách khai mở cuộc chiến chống khủng bố, cuộc chiến các chính quyền Hồi Giáo cũng muốn thấy Tây phương thành công, để gạt bỏ những thành phần cực kỳ quá khích, những kẻ muốn lật đổ cả họ nữa. Thế nhưng họ lại lưỡng lự không muốn ra mặt ủng hộ cuộc chiến một cách quá công khai, sợ nguy hại đến quyền lợi của họ.
Để dập tắt được ngọn lửa âm ỉ đáng ngại này, một số người Tây phương đề nghị cải thiện nền kinh tế, vì chênh lệch giầu nghèo là nguyên nhân gây nên sự bất mãn và thất vọng nơi xã hội Hồi Giáo và là cớ để tinh thần quá khích và khủng bố có thể bùng nổ. Thực ra, vấn đề không phải ở tại không được giầu có. Nhiều quốc gia Hồi Giáo có lượng dầu hỏa rất phong phú, và có tiền của ê hề trong nhiều thập niên, nhưng những thành phần lãnh đạo lại không chịu tbực thi chính sách giúp cho dân giầu nước mạnh. Họ chỉ lo cho chính họ mà bỏ bê dân chúng.
Nhiều người Tây phương lại muốn quảng bá nền tự do dân chủ nơi các quốc gia Hồi Giáo. Họ nghĩ rằng, nhờ vậy sẽ nhổ đi được tận gốc mầm mống bạo động, khủng bố. Mặc dù nền dân chủ đã phát triển tốt trong thế giới Tây phương, giúp bảo toàn sự phát triển kinh tế cho dân chúng của họ, nhưng làm sao có thể đưa tự do dân chủ vào trong thế giới Hồi Giáo được đây? Người ta không hy vọng các chính quyền Hồi Giáo tình nguyện thay đổi chế độ của họ, cho dù một vài quốc gia bị ép buộc phải cải tổ theo chiều hướng này. Nơi nhiều quốc gia Hồi Giáo, để đạt được một chính quyền dân chủ, người ta vẫn phải nhờ đến sự can thiệp của sức mạnh quân sự, như ở Afghanistan chẳng hạn!
Cho nên, một câu hỏi được đặt ra là làm cách nào để duy trì được nền tự do dân chủ trong các quốc gia này? Người Hồi Giáo không có kinh nghiệm lịch sử về tự do dân chủ của Tây phương. Xã hội Trung Đông hầu hết vẫn được cai trị theo chế độ bộ tộc. Chế độ bộ tộc luôn có khuynh hướng phá bỏ tiến trình dân chủ. Khi một bộ tộc lên nắm chính quyền, lúc đó họ sẽ thẳng tay triệt hạ các đối thủ.
Nếu như người ta đạt được nền dân chủ chân chính, kết quả sẽ như thế nào? Cứ nhìn vào tình hình hiện nay của người Ả rập ngoài đường phố, người ta thấy kết quả không khả quan. Trong một bài phân tách, Samuel Huntington cho rằng:
”Nhiều quốc gia Ả Rập, ngoài vấn đề xuất cảng dầu, họ đang đạt được mức phát triển kinh tế và xã hội, nơi đây những hình thức chuyên quyền của chính phủ trở nên không còn thích hợp và họ cố gắng làm cho nền dân chủ được vững mạnh hơn. Người ta đã thấy có một vài cởi mở trong các hệ thống chính trị Ả Rập. Nhưng người được hưởng lợi chính của những cởi mở này là các phong trào Hồi Giáo. Trong thế giới Ả Rập, chuyện trước mắt là nền dân chủ Tây phương đang làm vững mạnh các lực lượng chính trị chống Tây phương.”
Như thế, việc giới thiệu tự do dân chủ cho thế giới Hồi Giáo đang gặp đầy những khó khăn. Trong bất cứ biến sự nào, xét về ngắn hạn, tự do dân chủ không phải là một giải pháp cho vấn đề.
Về ngắn hạn, một việc có thể làm như đã được thấy trong lần can thiệp vào Afghanistan và Iraq, là dùng tới lực lượng quân sự. Có được chăng? Quả thực lực lượng quân sự đã giáng một đòn mãnh liệt vào mạng lưới khủng bố Al-Qaeda, cho dù tổ chức này vẫn chưa bị tận diệt. Một số người khác lại tranh luận rằng, việc xử dụng lực lượng quân sự sẽ khơi lên ngọn lửa thù ghét người Tây phương và tạo lên một loại khủng bố mới. Đúng, một số người Hồi Giáo sẽ trở thành những tên khủng bố do việc người Tây phương xử dụng vũ lực. Nhưng đồng thời một số người Hồi Giáo khác cũng có khả năng trở thành những tên khủng bố, nếu Tây phương không dùng tới vũ lực. Dù sao đi nữa, có một khía cạnh đáng lưu ý: biến cố 11-9-2001 xẩy ra là vì mạng lưới khủng bố Al-Qaeda cho rằng nước Mỹ là một siêu cường đang bị yếu và đang bị dao động, nó có thể bị đánh bại, cũng như Sô Viết bị nhục ở Afghanistan vậy.
Người Hồi Giáo kiêng nể sức mạnh. Họ hoan hô bất cứ ai phô diễn sức mạnh. Bất kể đã bao lần các thành phố của họ đổi chủ, gây lên do các cuộc xung đột quân sự, dân chúng sẵn sàng túa ra đường hoan hô những nhà giải phóng mới, chẳng cần biết đó có phải là sự giải phóng đích thực hay không.
Do bởi hiệu quả của nó trong việc giải quyết tạm thời những trở ngại trong thế giới Hồi Giáo mà việc dùng lực lượng quân sự để tìm ra một giải pháp lâu dài, có vẻ là điều cần thiết. Chiến thuật này phải được vận dụng một cách khôn ngoan và tuân theo giáo huấn về cuộc chiến chính nghĩa của Giáo Hội, và chỉ dùng khi không còn giải pháp nào khác tốt hơn. Giải pháp quân sự tự nó vẫn chưa đủ, lực lượng quân sự phải được vận dụng kèm theo với những sáng kiến khác, chẳng hạn việc vận dụng đường lối ngoại giao và kinh tế.
Nhưng có thể đạt được một giải pháp không?
Sự quan hệ lịch sử giữa Hồi Giáo và bạo lực có thể chấm dứt được chăng?
Một số người cho rằng được. Thì ra chính tổ tiên Kytô hữu của chúng ta bạo động hơn chúng ta. Châu Âu bị xâu xé hàng thế kỷ bởi những xung đột, gây lên do các vương quốc nhỏ mọn, nhưng cuối cùng xã hội đã được phát triển từ đó; Một xã hội ổn định và không có nội chiến cũng như chiến tranh với các nước láng giềng. Có lẽ xã hội Hồi Giáo có thể được dẫn dắt hoặc buộc phải đi theo con đường đó.
Có thể như vậy. Nhưng kế hoạch đó không nhanh chóng, dễ dàng hoặc chắc chắn.
Sự phát triển để có một Âu châu ổn định đã phải trả giá bằng những tranh chấp đẫm máu hàng thế kỷ, để cuối cùng người Âu châu đã thôi giết hại nhau và cố thử phương thế khác. Cố gắng này không thành công cho đến đầu thế kỳ 20, khi Âu châu trải qua hai biến động ghê gớm là hai trận thế chiến. Chìa khóa của cả hai trận thế chiến này là sự can thiệp của Hoa Kỳ; Hoa Kỳ sau thế chiến thứ hai, đã ổn định được Âu châu, giúp giải hòa giữa các nước.
Sau đó, Âu châu lại được đoàn kết hơn nhờ mối đe dọa đến từ bên ngoài: Cộng Sản Xô Viết, nước đã thống trị được Đông Âu. Sự hiện diện liên tục của lực lượng Hoa Kỳ ở Tây Âu trong thời chiến tranh lạnh là để bảo vệ Tây Âu khỏi bị Xô Viết xâm lấn, trong khi đó, mối ràng buộc về kinh tế và chính trị mới, lành lạnh đã phát triển giữa các quốc gia, tạo được một tiền đồn hiệp nhất chống lại sự đe dọa của Xô Viết.
Sự tiếp nối của các biến cố đã dẫn tới tình trạng như hiện nay ở Âu châu. Việc gắng ép thế giới Hồi Giáo đi theo cùng một thể cách này là chuyện khó thực hiện được. Và ngay cả nếu được đi nữa, thì có lẽ cũng đòi hỏi sự can thiệp quân sự và tranh chấp bi thảm tương tự như Âu châu, để có thể đạt được sự hòa giải. Có lẽ nó cần tới những trận thế chiến và chiến tranh lạnh.
Và rồi, có một yếu tố khiến cho sự hòa giải của đạo Hồi không giống với sự hòa giải của Âu châu: Đó là những căn rễ bạo lực trong Hồi Giáo! Thật rất đơn giản để mô tả đặc điểm của các tôn giáo chính, dựa vào bản chất của nó là ‘bạo lực’ hay ‘hòa bình’. Salomon đã nói: ”Mọi sự đều có lúc, có thời để giết và có thời để chữa lành; Có thời để chiến tranh và có thời để hòa bình” (Gv. 3:1,3,8). Đó là những thực thể nơi lối sống của con người trong thế giới đã sa ngã, và mọi tôn giáo đều thừa nhận nhu cầu hòa bình cũng như nhu cầu cần xử dụng sức mạnh trong những tình huống chính đáng.
Thế nhưng một vài tôn giáo có xu hướng thiên về bạo lực mạnh mẽ hơn những tôn giáo khác. Trong số các tôn giáo chính, Hồi Giáo thiên về bạo lực nhất. Điều này có thể được nhận ra khi so sánh Hồi Giáo với những tôn giáo gần với nó nhất như Do Thái Giáo và Kytô Giáo.
Do Thái Giáo được sáng lập bởi Moisen, vị có thể coi như lãnh tụ quân sự tối cao, dẫn các chi tộc Israel tiến về vùng Đất Hứa. Và việc chinh phục tất nhiên đã xảy ra. Cựu Ước bao gồm nhiều chỉ thị dùng bạo lực để bảo vệ và thăng tiến đất nước Israel. Nhưng cho dù Do Thái Giáo có bao gồm tiềm năng bạo lực, Do Thái Giáo chỉ là một tôn giáo được dành riêng cho một nhóm chủng tộc và được hạn chế trong một lãnh thổ mà thôi.
Ngược lại, Kytô Giáo là tôn giáo toàn cầu, nghĩa là được dành cho mọi dân tộc thuộc mọi quốc gia. Kytô Giáo có chiều kích rộng lớn hơn nhiều và có tiềm lực bạo động thấp hơn rất nhiều. Vị sáng lập, Đức Kytô, là vị Tử Đạo, Vị đã từ chối chiến đấu để cứu mạng sống mình. Mặc dù Tân Ước thừa nhận Cựu Ước đến từ Thiên Chúa, nhưng Tân Ước đã không bao gồm giới răn mới xử dụng bạo lực, vì Kytô Giáo từ khi được khai sinh, không liên kết với một quốc gia như Do Thái Giáo.
Giáo Hội Chúa Kytô tách rời với chính quyền, cho nên Kytô Giáo ít chứa tiềm năng bạo lực. Điều này, cộng với gương của Đức Kytô và lời dạy ”yêu kẻ thù” của Ngài, đã giúp Kytô Giáo hóa giải được các thù hận phát sinh bạo động.
Trái lại, người sáng lập đạo Hồi là lãnh tụ quân sự tối cao, người tự nhiên nổi lên và cho tới lúc chết, ông là chủ tể độc tôn của bán đảo Ả Rập. Cuốn kinh thánh mà ông viết bao gồm các mệnh lệnh xử dụng bạo lực để phục vụ tôn giáo và đất nước của họ. Tiềm năng bạo lực này cũng tương tự như Do Thái Giáo, nhưng tiềm năng bạo lực trong Hồi Giáo tăng hơn lên rất nhiều, do việc Hồi Giáo tự coi mình, giống như Kytô Giáo, là một tôn giáo toàn cầu, được dành cho mọi dân tộc thuộc mọi quốc gia. Nó cũng không tách biệt khỏi chính quyền. Như thế Hồi Giáo là một ý thức luận tôn giáo và chính trị. Kết quả, Hồi Giáo sẵn sàng tận dụng bạo lực, như đã được minh họa trong thế kỷ đầu của ngày khai sinh ra đạo, khi đế quốc Hồi Giáo tung quân đi chinh phục nhiều quốc gia.
Quan điểm của Hồi Giáo đối với việc dùng bạo lực chống lại những người không phải là Hồi Giáo đã rõ ràng. Khi nói về những người ngoại đạo, kinh Quran dạy: ”Khi các ngươi gặp những kẻ sùng bái thần tượng, hãy giết chúng đi. Hãy giam tù chúng, hãy bao vây chúng và hãy phục kích chặn đánh chúng mọi nơi. Nếu chúng sám hối, cầu nguyện và dâng nộp của bố thí, thì hãy để chúng đi. Thiên Chúa tha thứ và nhân từ” (Surah 9:5). Ý nghĩa của những điều này là cho người ngoại đạo một lựa chọn: trở lại hay phải chết.
Nói về bạo lực hướng về người Do Thái và Kytô hữu, kinh Quran dạy: ”Hãy chiến đấu chống lại những kẻ mà kinh thánh cho rằng chúng chẳng tin vào Thiên Chúa và ngày sau hết, những kẻ không ngăn cấm những gì Thiên Chúa và sứ giả của ngài đã ngăn cấm và những kẻ không chọn theo chân lý đích thật, cho đến khi chúng nộp thuế đủ và bị chinh phục hoàn toàn (Surah 9:29). Nói cách khác, bạo lực được dùng để chống lại người Do thái và người Kytô hữu cho đến khi họ trả một loại thuế đặc biệt và sống dưới sự chinh phục của người Hồi Giáo với tư cách là công dân hạng hai. Đối với họ, sự lựa chọn sẽ là trở lại, hay chết, hoặc chịu khuất phục.
Kinh Quran cũng có những lời nghiêm khắc đối với những người Hồi Giáo tỏ ra chậm chạp và bất đắc dĩ trong việc tấn công những người không tin: ”Hỡi những người tin, tại sao khi các ngươi được dạy: ‘Hãy hành quân vì Thiên Chúa,’ các ngươi lại nấn ná uể oải? Các ngươi bằng lòng với cuộc sống này hơn cuộc sống đời sau hay sao?… Nếu các ngươi không tham gia cuộc chiến, ngài (Thiên Chúa) sẽ nghiêm phạt các ngươi, và sẽ dùng người khác thay thế các ngươi” (Surah 9:38-39).
Và dĩ nhiên, có lời hứa trọng thưởng ở đời sau cho những người thi hành jihad: ”Hỡi những người tin! Ta có cần chỉ ra cho các ngươi thấy con đường lợi ích sẽ cứu các ngươi khỏi sự trừng phạt đau đớn không? Hãy tin vào Thiên Chúa và vào sứ gỉa của ngài, và hãy dùng sự giầu có và con người để chiến đấu cho Thiên Chúa… Ngài sẽ tha thứ tội lỗi của các ngươi và cho các ngươi được vào trong những khu vườn được tưới bằng giòng suối trong, ngài sẽ đặt các ngươi vào trong những lâu đài hạnh phúc nơi vườn địa đàng. Đây là cuộc vinh thắng siêu phàm” (Surah 61: 10-12).
Phải công nhận rằng, có những người yêu hòa bình và những người bạo động trong tất cả các tôn giáo. Có những người Kytô hữu bạo động. Có những người Hồi Giáo yêu hòa bình. Hoàn cảnh lịch sử hay thay đổi, nên phải cố công để biện giải các xu hướng bạo lực và hòa bình nơi các tín đồ của các tôn giáo khác nhau. Tuy nhiên, cho dù có những dè dặt này, người ta vẫn phải đồng ý rằng, Hồi Giáo là một tôn giáo và là một ý thức luận có xu hướng bạo động mạnh mẽ nhất.
Thực ra, có nhiều người Hồi Giáo khao khát hòa bình, chỉ là quan điểm của họ thường không được quan tâm đến lắm trong xã hội Hồi Giáo. Tác giả Serge Trifkovic viết: ”Một vài nhà phê bình có thể phản đối rằng sự trần thuật này về đạo Hồi trong thế giới tân tiến, không kéo được sự chú ý lắm của những người Hồi Giáo biết tự chế, của những người Hồi Giáo mong muốn mỗi ngày có được đời sống yên tịnh. Điều này không phải vì có ít người chủ trương ôn hòa như thế, nhưng vì nó đặc biệt quan trọng. Trong bất cứ trường hợp nào, người có thiện ý ôn hòa dễ bị coi là người Hồi Giáo không tốt, vì họ đã chối bỏ sự dạy dỗ căn bản của đạo Hồi lịch sử. Về phương diện con người, có lẽ đó là điều đáng ca ngợi, nhưng chẳng giúp định nghĩa học thuyết đạo Hồi.”
Viễn tượng việc định nghĩa học thuyết của đạo Hồi về vấn đề bạo lực còn mơ hồ. Mặc dù trong lịch sử, một số người Hồi Giáo cố gắng để ”tinh thần hóa” những lời dạy của kinh Quran liên quan đến bạo lực, nhưng cũng luôn có trào lưu chính thống đối lại bằng cách thúc đẩy việc trở về với nguồn gốc của đạo Hồi và tuân hành theo nghĩa đen.
Thực ra, phản ứng này chính là sự mô tả đặc điểm của phong trào Wahhabite đang thống trị Saudia Arabia và đã gây cảm hứng cho ý thức luận của Osama bin Laden. Triết gia Roger Scruton ghi chú rằng, theo quan điểm của Wahhabite, ”Bất cứ ai đọc kinh Quran đều có thể tự mình phán đoán về nội dung của học thuyết.”
Thái độ này, tương tự với quyển sách Hồi Giáo là sola Scriptura, có lẽ khá đúng để chứng minh nhóm Hồi Giáo cũng kiên định như nhóm tín đồ Tin Lành theo trào lưu chính thống. Bao lâu tình huống này còn tồn tại, thì sẽ còn nổi lên làn sóng Hồi Giáo ”tử đạo” mới, sẵn sàng hiểu theo nghĩa đen lời dạy trong kinh Quran về giết chóc, để đem áp dụng vào thời nay, và rồi lao mình vào cuộc chiến chống lại bất cứ ai họ cho là ”Satan, loài quỉ dữ.”
Chúng ta đã thấy căn gốc bạo động của đạo Hồi trong đời sống và lời dạy của Mohammed. Chúng ta đã thấy rằng những biến cố trên thế giới đã qui tụ lại, để đặt Hồi Giáo và Kytô Giáo vào trong cuộc xung đột về các nền văn hoá mà nó đã trải dài từ thế kỷ thứ 6 tới thế kỷ 21.
Chúng ta chưa biết tương sẽ như thế nào. Điều chúng ta biết được là nền văn hoá Hồi Giáo có xu hướng bạo động mạnh mẽ, kể từ thời Mohammed và kéo dài tới ngày nay, và rằng nó đang bắt đầu bùng lên trở lại các phong trào cách mạng và khủng bố. Cuộc xung đột với dân quân Hồi Giáo có thể kéo dài lâu – hàng thế kỷ, một cách tiềm tàng – vì ngay cả nếu có thể hóa giải được khuynh hướng bạo động trong xã hội Hồi Giáo đi nữa, nó có thể sẽ phải bao gồm việc cắt bỏ, hay ít ra phải làm mất tác dụng cái khuynh hướng đã thống trị nền văn hóa Hồi Giáo từ những ngày đầu của người thành lập đạo Hồi.
Đây không phải là công việc dễ dàng. Trong quá trình kêu gọi khôi phục lại việc thực hành đạo Hồi theo nguyên gốc, tinh tuyền và bạo động nhiều hơn, để lại được Thiên Chúa che chở, thì những người Hồi Giáo nào có thiện ý muốn thực hiện việc thay đổi, sẽ bị xếp vào loại người phản bội lại đạo giáo. Thực ra, những dấu hiệu của thời đại cho chúng ta hiểu rằng, chúng ta đang ở trong một cuộc ”xung đột giữa các nền văn hoá,” nó sẽ kéo dài và đẫm máu.
Nhưng chúng ta cũng biết rằng, Thiên Chúa đã có kế hoạch cho lịch sử, và Ân Sủng của Người sẽ làm nên phép lạ. Cũng có thể, bằng cách này hay cách khác, Thiên Chúa sẽ ban cho thế giới được hòa bình hơn, trong đó dân quân Hồi Giáo sẽ không còn là mối đe dọa, hay không nơi đâu phải tiếp cận với đe dọa.
Nếu muốn điều này xảy ra, chúng ta phải hợp tác với Thiên Chúa bằng cầu nguyện, can đảm, biết xoay sở, và có sự hiểu biết đích thực về mối đe dọa chúng ta đang đối đầu. Mối đe dọa mà nhiều người cho rằng đó là một trong những ”điềm của thời đại”: Tức hiện tượng bùng lên khắp nơi những cuộc thánh chiến triền miên của tôn giáo này.
http://www.giadinhnazareth.org/node/4537
http://www.giadinhnazareth.org/node/4539
Xung quanh những vấn đề Báo Thanh niên nêu ra trong thời gian vừa qua, cho rằng đó là những phát hiện lịch sử của Thiền sư Lê Mạnh Thát và cần viết lại lịch sử dân tộc, phóng viên Báo SGGP đã có cuộc trao đổi với Giáo sư Phan Huy Lê (ảnh) – Chủ tịch Hội khoa học Lịch sử Việt Nam. Từ băn khoăn đến kinh ngạc Với tư cách là một nhà sử học, Giáo sư nhìn nhận như thế nào những vấn đề mà Báo Thanh niên đưa ra trong thời gian qua?
Đọc kỹ những bài báo đó, ấn tượng đầu tiên của tôi là rất băn khoăn. Không rõ nhà báo Hoàng Hải Vân có phản ánh đúng thực sự thái độ của Thiền sư Lê Mạnh Thát về những vấn đề đã đặt ra đó hay không? Thiền sư Lê Mạnh Thát thì tôi đã có dịp gặp gỡ, tiếp xúc trong cuộc hội thảo khoa học về Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử tổ chức tại Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh và sau đó cùng đi thăm các chùa tháp tại Yên Tử. Đó là cuộc tiếp xúc rất cởi mở và để lại trong tôi ấn tượng tốt đẹp về Thiền sư với tư cách là một thiền sư và là một học giả nghiên cứu chuyên sâu về Phật giáo Việt Nam. Chính vì vậy, tôi rất kinh ngạc về thái độ của Thiền sư thể hiện trên Báo Thanh niên. Ví dụ như khi nói về Lê Quý Đôn, nói là “ông Lê Quý Đôn mà cũng lôi thôi quá”. Mà điều đó chỉ dựa trên một đoạn ngắn trong “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn viết về Thiền sư Hương Hải, mà trong đó Lê Quý Đôn đã dẫn rất rõ là theo cuốn sách “Hương Hải thiền sư ngự lục” do các học trò của Thiền sư Hương Hải sưu tầm và biên soạn. Dĩ nhiên theo kết quả thẩm định công phu của Thiền sư Lê Mạnh Thát thì những người sưu tầm đã nhầm lẫn, đưa vào tác phẩm một số bài thơ không phải của Thiền sư Hương Hải. Nhưng không ai có thể phủ nhận Lê Quý Đôn là một nhà bác học lớn của dân tộc, có nhiều tác phẩm biên khảo có giá trị, để lại một di sản đồ sộ với nhiều cống hiến cực kỳ có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu lịch sử và văn hóa dân tộc. Cũng như bất kỳ nhà khoa học nào, nhất là về khoa học xã hội, suốt cả cuộc đời làm việc, trong toàn bộ những tác phẩm để lại, tránh sao được một số sơ suất. Hay thái độ đối với Ngô Sỹ Liên, một nhà sử học lớn, người đã biên soạn bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” thời Lê sơ. Thực ra, bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” cũng có một số sơ suất mà chúng tôi đã phát hiện và đính chính. Và chính Lê Quý Đôn cũng đã bổ chính một số nhầm lẫn cho bộ sách này. Tuy nhiên chỉ với lời bình luận về nhân vật Sỹ Nhiếp viết trên tinh thần Nho giáo mà Thiền sư lại đưa ra những lời bình luận là “nhắm mắt nói càn” và “thật khốn nạn hết chỗ nói”… Tôi hết sức kinh ngạc những điều lời lẽ đó. Tôi không tin rằng đây là lời và thái độ của Thiền sư Lê Mạnh Thát. Nhưng dù sao, qua ngòi bút của tác giả Hoàng Hải Vân, thì tất cả người đọc đều cho rằng đó là phát biểu của Thiền sư. Ông là một nhà tu hành và là một học giả, nên tôi vẫn băn khoăn và trong lòng vẫn nghĩ rằng, dù bực bội đến đâu, cũng không thể thốt ra những lời “bất kính” như vậy đối với các bậc học giả tiền bối của dân tộc. Từ băn khoăn đó, Giáo sư đã tìm hiểu vấn đề này như thế nào? Cái tôi quan tâm là những nội dung vấn đề được đề cập đến. Tôi không muốn nghiên cứu qua những bài báo nói trên, mà muốn xem xét từ trong các công trình mà Thiền sư đã công bố. Tôi đã đọc những công trình nghiên cứu của Thiền sư Lê Mạnh Thát và trong tay tôi trước đó có 2 công trình liên quan đến những vấn đề nói trên từ khi mới phát hành. Đó là “Lịch sử Phật giáo Việt Nam ” – tập 1 (từ khởi thủy đến thời Lý Nam Đế); “Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam ” – tập 1. Riêng cuốn “Lục độ Tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta” (cuốn được xem là cơ sở trích dẫn nhiều nhất trên Báo Thanh niên), vì không có trong tay, mà theo tôi biết thì chỉ in với số lượng nhỏ, phát hành ở TPHCM, nên tôi đã cấp tốc nhờ bạn bè tìm hộ. Hiện tôi có đủ 2 bản: bản xuất bản năm 1972 ở Sài Gòn của Tu thư Đại học Vạn Hạnh và bản thứ hai mới tái bản năm 2005 của NXB Tổng hợp TPHCM. Nội dung 2 bản này hoàn toàn giống nhau. Không có An Dương Vương thì giải thích như thế nào về thành Cổ Loa? Khi đã có những cuốn sách này trong tay và nghiên cứu những vấn đề liên quan, Giáo sư có ý kiến như thế nào về những cái gọi là “phát hiện lịch sự chấn động” ở trên Báo Thanh niên? Tôi thấy loạt bài của nhà báo Hoàng Hải Vân chỉ mới đưa ra một phần nhỏ trong các công trình nghiên cứu của Thiền sư Lê Mạnh Thát. Nói chung thì báo đã phản ánh đúng nội dung sách, nhưng các tư liệu và lập luận đưa ra chưa đầy đủ. Điều đó dễ hiểu, vì đây là một tờ báo ra hàng ngày, chứ không phải là một tạp chí chuyên ngành. Thiền sư Lê Mạnh Thát là người mà đã gần như dành toàn bộ thời gian và công sức để đi sâu vào việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam và theo tôi đó là một việc làm rất có ý nghĩa. Với những công trình nghiên cứu về các bộ kinh Phật, về lịch sử và văn học Phật giáo Việt Nam, Thiền sư là một người chuyên sâu nhất về lĩnh vực này và rất đáng trân trọng. Tuy nhiên từ nghiên cứu Phật giáo chuyển sang nghiên cứu lịch sử dân tộc, thì có nhiều vấn đề cần phải bàn thêm. Đây là hai đối tượng nghiên cứu quan hệ rất mật thiết với nhau, nhưng không phải là một. Phật giáo đã sớm gắn bó với dân tộc và đồng hành cùng dân tộc suốt chiều dài lịch sử gần hai ngàn năm, và Phật giáo đã có những cống hiến rất lớn cho lịch sử dân tộc. Tuy nhiên văn hóa Phật giáo là một dòng, một bộ phận của văn hóa dân tộc, chứ không thể coi là toàn bộ văn hóa dân tộc. Từ lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo chuyển sang lĩnh vực nghiên cứu lịch sử dân tộc, Thiền sư Lê Mạnh Thát đã đặt ra những vấn đề rất lớn về lịch sử cổ đại Việt Nam , mà điều quan trọng là về mặt khoa học đã giải quyết như thế nào? Tôi xin nói về mấy vấn đề lớn mà Báo Thanh niên đã nêu ra: khẳng định thời kỳ An Dương Vương là không có, không có cuộc xâm lược của Triệu Đà cũng như không có thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất kể từ cuộc xâm lược của Triệu Đà cho đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và vì thế cuộc khởi nghĩa này được coi là một cuộc kháng chiến… Như thế nước Văn Lang của các vua Hùng kéo dài cho đến năm 43 sau Công nguyên!? Theo nghiên cứu của Thiền sư Lê Mạnh Thát, thời An Dương Vương và nước Âu Lạc hoàn toàn là “một phiên bản”, “một hư cấu” dựa theo sử thi Mahabharata của Ấn Độ, và các sử gia Việt Nam đã sai lầm trong quá trình chép sử, từ “Đại Việt sử lược” cho đến các công trình sau này. Khẳng định không có Thục Phán, không có thời kỳ An Dương Vương, thì Thiền sư giải thích như thế nào về sự ghi chép tương đối thống nhất về sự tồn tại của An Dương Vương trong thư tịch Trung Quốc và Việt Nam? Tất nhiên, xung quanh vấn đề An Dương Vương và nước Âu Lạc có những vấn đề cần nghiên cứu và xác minh thêm như nguồn gốc của Thục Phán, niên đại của nước Âu Lạc… Thiền sư phủ nhận tất cả những tư liệu trên mà không chứng minh được những bộ sử đó chép sai như thế nào. Đặc biệt luận điểm đó khó đứng vững trước một nguồn tư liệu mà theo tôi giữ vai trò quan trọng bậc nhất trong nghiên cứu cổ sử, đó là khảo cổ học. Tôi có cảm giác, Thiền sư đã bỏ qua, không khai thác và không cập nhật nguồn tư liệu khảo cổ học, nhất là những kết quả khai quật và nghiên cứu gần đây. Xin Giáo sư nói rõ hơn về những vấn đề khảo cổ học liên quan đến triều đại An Dương Vương? Trong mấy chục năm vừa qua, khảo cổ học Việt Nam đã có những kết quả rất quý giá, nhất là những di tích trong lòng đất, góp phần làm sáng rõ thêm tiến trình lịch sử dân tộc, nhất là thời tiền sử, sơ sử và cổ đại. Những di tích, những hiện vật khảo cổ học được xem là những bộ phận, là những mảnh của lịch sử còn lưu giữ được cho đến ngày hôm nay. Nó rất khách quan và rất trung thực. Bằng những phương pháp khoa học, từ kết quả khai quật, các nhà khảo cổ học có thể xác định được niên đại tương đối và tuyệt đối của các di tích với những sai số chấp nhận được, có thể góp phần phục dựng trên một số phương diện nào đó diện mạo của nền văn hóa, cuộc sống của cư dân và một số công trình xây dựng đã sụp đổ… Phủ nhận nước Âu Lạc và An Dương Vương thì tác giả giải thích như thế nào về thành Cổ Loa? Thiền sư cho rằng đó chỉ là tòa “Kiển thành” do Mã Viện xây mà trước đây đã từng có người đề xuất, nhưng những kết quả khảo cổ học gần đây đã cho phép xác định tòa thành này được xây dựng trước hết từ thời An Dương Vương rồi sau đó, được tiếp tục sử dụng và có thể có những bồi trúc nhất định. Hơn nữa chúng ta còn tìm ra được ở Cổ Loa hàng vạn mũi tên đồng ba ngạnh được coi là “mũi tên đồng Cổ Loa”, rồi tìm thấy trống đồng, gần 100 lưỡi cày đồng cùng hàng loạt di vật của nền văn hóa Đông Sơn. Các nhà khảo cổ học còn cắt một đoạn thành để nghiên cứu và khai quật một số hố trong khu Thành Nội gần đền thờ An Dương Vương. Tại đây đã phát hiện một hệ thống những lò nung và khuôn đúc mũi tên đồng gồm ba mang bằng đá rất khớp với “mũi tên đồng Cổ Loa”, khuôn đúc mũi giáo… Đáng lưu ý nhất là An Dương Vương đã dùng một phần Thành Nội để sản xuất vũ khí, chứng tỏ đây là loại vũ khí cực kỳ quan trọng cần được bảo vệ chặt chẽ. Phát hiện khảo cổ học này hoàn toàn phù hợp với truyền thuyết dân gian coi là “nỏ thần” mà thư tịch cổ Trung Quốc cũng ghi chép là loại vũ khí lợi hại, một lần bắn diệt được hàng trăm, hàng vạn người mà chính Thiền sư cũng đã dẫn trong công trình nghiên cứu của mình. Thiền sư giải thích như thế nào về một thành lũy đang tồn tại trên mặt đất và cả những di tích, di vật như vậy trong lòng đất. Rồi giải thích như thế nào về những đền thờ An Dương Vương ở Cổ Loa, ở Nghệ An… gắn liền với những truyền thuyết, những lễ hội dân gian nhằm tôn vinh người có công với dân, với nước. Dĩ nhiên những kiến trúc đó xây dựng về sau nhưng không thể chỉ là sự bịa đặt, hư cấu mà phải xuất phát từ một cốt lõi lịch sử có thật của cuộc sống, của lịch sử dân tộc, có thể từ rất xa xưa! Quá vội vàng khi đòi viết lại lịch sử dân tộc Một vấn đề được rất nhiều người quan tâm là có cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng không? Với quan điểm của mình thì Thiền sư Lê Mạnh Thát không cho rằng đó là một cuộc khởi nghĩa. Cần phải giải thích như thế nào về vấn đề này, thưa Giáo sư? Về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, theo Thiền sư là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của một nước độc lập, chứ không phải là cuộc khởi nghĩa của một nước bị đô hộ. Trong khi đó, cả sử nước ta và sử Trung Quốc đều chép đó là cuộc “nổi dậy”, là cuộc “làm phản” chống chính quyền cai trị của nhà Hán. Chính Thiền sư Lê Mạnh Thát đã dẫn ra khá đủ những tư liệu này nhưng rồi phủ nhận tất cả và đi đến kết luận như trên. Đứng về phương diện khoa học, các nhà khoa học có quyền đưa ra những giả thuyết trong nghiên cứu khoa học. Những giả thuyết đó có những cấp độ khác nhau: có thể chỉ là mới các ý tưởng đặt ra để nghiên cứu và cũng có thể là những giả thuyết đã có một số cứ liệu nhất định, nhưng chưa đủ cơ sở để kết luận. Tuy nhiên, những vấn đề mà Thiền sư Lê Mạnh Thát đưa ra, không còn là giả thuyết nữa mà những kết luận đã khẳng định. Từ đó đưa ra những yêu cầu phải loại bỏ thời kỳ này ra khỏi lịch sử dân tộc, thậm chí là phải viết lại lịch sử dân tộc thì thật quá vội vàng. Trong khoa học, mọi phát hiện có cơ sở khoa học đều phải được chấp nhận nếu những phát hiện đó là đúng, được chứng minh một cách vững chắc và bảo vệ được quan điểm đó trước các chất vấn, phản biện khoa học. Trên tinh thần khoa học, dù phát hiện đó có đảo lộn quá trình lịch sử dân tộc như thế nào đi nữa, thì về mặt khách quan, chúng ta vẫn phải chấp nhận. Tuy nhiên, rất tiếc cái gọi là “những phát hiện lịch sử chấn động” mà Báo Thanh niên nêu ra, trên thực tế chỉ mới dừng lại ở mức giả thuyết và đề xuất mà thôi. Không có đủ cơ sở khoa học để chứng minh được những vấn đề đó. Từ vài dẫn chứng trên, tôi nghĩ rằng, một số kết luận của Thiền sư Lê Mạnh Thát là chưa đủ chứng cứ khoa học, chưa đủ sức thuyết phục. Ở đây, có vấn đề khai thác và sử dụng tư liệu, có vấn đề phương pháp luận sử học chưa được sử dụng một cách nghiêm túc. Trong loạt bài trên Báo Thanh niên, Thiền sư Lê Mạnh Thát đã nói nhiều về nền văn minh Hùng Vương với tư cách là một thể chế nhà nước đầy đủ có chữ viết, một bộ luật… Đó là một sự đề cao tinh thần dân tộc rất lớn, thưa Giáo sư. Đọc các công trình nghiên cứu của Thiền sư Lê Mạnh Thát và qua những bài báo đó, chúng ta thấy Thiền sư có một tinh thần dân tộc rất cao. Thiền sư muốn đề cao tính dân tộc và văn hóa Việt Nam , nhất là thời kỳ Hùng Vương. Đó là thiện chí của Thiền sư mà chúng ta cần trân trọng. Nhưng đối với khoa học không thể dừng lại ở thiện chí, mà mọi kết luận cần phải chứng minh một cách khách quan trên cơ sở những nguồn sử liệu được khai thác toàn diện và so sánh, đối chiếu nghiêm túc. Thiền sư khẳng định là từ thời Hùng Vương ta đã có chữ viết phát triển đến trình độ cao, khá hoàn chỉnh, có thể biên soạn luật thành văn, có thể viết bộ “Lục độ Tập kinh”… Rất tiếc là những khẳng định đó lại dựa trên những căn cứ chưa đủ sức thuyết phục. Ví dụ lời tâu của Mã Viện nói luật Việt có 10 điều khác luật Hán, nhưng chưa có gì chắc chắn để coi đó là luật thành văn hay chỉ là luật tục. Bản chữ Hán “Lục độ tập kinh” do Khương Tăng Hội dịch trong thời gian ở Kiến Nghiệp còn đó và một số từ mang cấu trúc ngữ pháp Việt, không phải Hán là một phát hiện lý thú của Thiền sư nhưng từ đó khẳng định là phải dịch trên một văn bản chữ Việt thì còn quá vội. Vấn đề chữ viết của người Việt thời Hùng Vương là một đề tài đã được nhiều nhà khoa học quan tâm và có người đã dành nhiều công sức tìm kiếm nhưng cho đến hôm nay vẫn còn là vấn đề chưa có đủ cơ sở để kết luận. Có người dựa theo một gợi ý của tác giả sách “Thanh Hóa quan phong” chép rằng chữ Việt cổ gần như chữ Thái ở miền núi xứ Thanh, đi tìm những hình khắc tương tự trên một số đồ đồng Đông Sơn. Có người sưu tầm những hình khắc trên đồ đồng Đông Sơn ở nước ta và cả vùng Nam Trung Quốc trên địa bàn Bách Việt xưa, đã phát hiện một số hình khắc có thể là ký hiệu chữ viết…Nhưng chỉ mới là những tìm tòi ban đầu, chưa tập hợp đủ những chứng cứ để đưa ra hệ thống ký tự của chữ viết, chưa nói đến việc giải mã hệ thống đó. Những phát hiện của Thiền sư có thể đóng góp phần nào vào quá trình nghiên cứu chữ viết của người Việt cổ, chưa thể coi là kết luận khoa học, tuy rằng trong thâm tâm ai cũng mong đợi điều đó sớm trở thành hiện thực. Xin cảm ơn Giáo sư. (Theo SGGP) |
|||
Trong loạt bài trên báo Thanh Niên, trong khi phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của triều đại An Dương Vương, Thiền sư Lê Mạnh Thát không đề cập chút nào đến những kết quả khảo cổ học từ trước đến nay về triều đại này. Để làm rõ hơn vấn đề này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với PGS. TS Phạm Minh Huyền (ảnh), một chuyên gia khảo cổ về thời kỳ văn hóa Đông Sơn, trực tiếp là thành Cổ Loa. An Dương Vương là sự tiếp nối liên tục và đạt trình độ cao hơn thời kỳ Hùng Vương. Đứng về mặt khảo cổ học, với những bằng chứng vật chất, sự chuyển tiếp giữa thời Hùng Vương và thời kỳ An Dương Vương là một sự xuyên suốt, không có đứt quãng. Không phải là An Dương Vương lên thì văn hóa Hùng Vương mất đi, hay Triệu Đà đánh xong An Dương Vương thì văn hóa Đông Sơn mất đi. Trong văn hóa Đông Sơn, chúng tôi phân thành 3 kỳ: văn hóa Đông Sơn hình thành; văn hóa Đông Sơn phát triển và văn hóa Đông Sơn muộn. Thời kỳ An Dương Vương thuộc về thời kỳ cuối văn hóa Đông Sơn phát triển sang đầu thời kỳ muộn. Sau An Dương Vương, văn hóa Đông Sơn của người Việt tiếp tục phát triển… Đúng thế! Chúng ta không thể nói là ông Hùng Vương như thế nào, ông An Dương Vương như thế nào một cách cụ thể. Nhưng giới sử học, mà cụ thể là những người làm khảo cổ như chúng tôi cho rằng, đó là những người tù trưởng, tộc trưởng và họ là những người đứng đầu của những bộ lạc. Trong rất nhiều bộ lạc, ở những khu vực khác nhau thì người nào khỏe nhất, bộ lạc nào hùng mạnh nhất sẽ có quyền lực lớn nhất! Ai có cơ sở vật chất giàu nhất thì sẽ có quyền lực lớn nhất! Hiện nay có một số nhà nghiên cứu với một số hướng khác nhau, đang đi tìm nguồn gốc của Thục Phán, nơi xuất phát của triều đại An Dương Vương. Vấn đề nguồn gốc ở nước Tây Thục nhà Hán đã bị loại bỏ, hiện nay có 2 hướng chính về nguồn gốc của Thục Phán: một số nhà nghiên cứu cho là ở vùng Cao Bằng; hướng thứ 2 là cho là ở vùng Lào Cai, Yên Bái. Nhưng một điều ai cũng khẳng định, vào thời điểm đó, Thục Phán là một thủ lĩnh rất mạnh và giàu có về vật chất. Những kết quả khảo cổ học cho thấy, ở vùng Cổ Loa từ thời kỳ đó đã tập trung khá nhiều di tích biểu hiện sự giàu có. Năm 1982, đã phát hiện giữa vòng thành Nội và vòng thành Trung, một trống đồng lớn, hiện nay đó là một trong những chiếc trống đồng đẹp nhất của văn hóa Đông Sơn. Trong cái trống đó, phát hiện hơn 100 cái lưỡi cày và rất nhiều đồ đồng khác. Người sở hữu cái trống đồng đó theo quan điểm chúng tôi là một người rất giàu có và có quyền lực lúc bây giờ. Vào thời điểm đó, những người nắm kỹ thuật đúc đồng luôn có một vị trí rất cao trong xã hội. Ngoài ra, trong khu vực Cổ Loa, chúng tôi cũng tìm được những chiếc trống đồng khác và những mảnh trống đồng vỡ khá lớn. Điều đó chứng tỏ ở vùng Cổ Loa thời điểm đó tồn tại những nhân vật rất giàu có và có nhiều quyền lực. Theo tôi, lúc bấy giờ vai trò của nhân vật An Dương Vương là có thật và đó là một người tù trưởng rất giàu có và đã thâu tóm được một quyền lực rất lớn! Trong mấy năm vừa rồi, chúng tôi đã tiến hành khai quật ở Cổ Loa, ngay tại khu vực đền Thượng, nơi thờ An Dương Vương. Đền này nằm ở góc Tây Nam của thành Nội. Tại đó năm 2005, chúng tôi đã phát hiện hệ thống lò đúc mũi tên đồng, với hàng trăm khuôn đúc, đúng với những “mũi tên đồng Cổ Loa” 3 cạnh mà chúng ta đã phát hiện ra trước đó. Vào năm 1959 chúng ta lần đầu tiên phát hiện ra một kho mũi tên đồng 3 cạnh ở khu vực thành Cổ Loa. Trước đây, chúng ta chưa biết những mũi tên đồng đó được đúc ở đâu. Với việc phát hiện hệ thống lò đúc ở khu vực đền Thượng, chúng ta đã có câu trả lời cho điều đó. Lúc mới phát hiện được mũi tên đồng, chúng ta đã phần nào tin tưởng được vào truyền thuyết nỏ thần của An Dương Vương, khi phát hiện ra hệ thống lò đúc, giả thuyết đó càng được củng cố với những hạt nhân hợp lý! Điều không thể chối cãi được là ngay ở thành Cổ Loa đã sản xuất được mũi tên đồng vào thời điểm đó. Với số lượng hàng vạn mũi tên đồng, hàng trăm khuôn đúc được phát hiện, chứng minh rằng, có một đội quân lớn thường trực ở đây. Rõ ràng, Cổ Loa lúc bấy giờ là một trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế lớn và vai trò của An Dương Vương rất lớn, chứ không như thời kỳ Hùng Vương. Nói chính xác là An Dương Vương đã thành công trong việc xây dựng một mô hình nhà nước sơ khai trên cơ sở nền văn hóa Đông Sơn có từ thời kỳ Hùng Vương. Thành Cổ Loa chắc chắn được xây dựng vào thế kỷ 2 trước Công nguyên Những mũi tên đồng, những khuôn đúc được phát hiện ở Cổ Loa, đến thời điểm này đã xác định được niên đại chưa, thưa Phó giáo sư? Năm 2005, khi khai quật đền Thượng, tại một đoạn thành Nội hỏng, chúng tôi đã tiến hành cắt đoạn thành đó để nghiên cứu. Tại đây, chúng tôi thấy có 3 lớp đất, tất cả đều được đắp vào một thời, nhưng chúng tôi không tìm thấy những vật như ngói, gạch, đá… nào cả. Tuy nhiên, cách chân thành Nội phía bên trong mấy chục mét, chúng tôi đào một hố và kết quả là thấy có tính chất của thành. Tức là có rất nhiều đá, nhiều ngói và gạch được chèn vào. Cùng với những mũi tên đồng, thì những gạch ngói đó là hiện vật rất quan trọng để khẳng định niên đại. Trước đây, nhiều nhà sử học Việt Nam cho rằng đó là ngói và gạch thời Đông Hán, tức là sau Công nguyên và do Mã Viện đắp lên vòng thành Nội. Tuy nhiên, với nghiên cứu của chúng tôi, đặc biệt là sự so sánh với gạch ngói thời kỳ nước Nam Việt của Triệu Đà ở Quảng Đông (tức là thời Tây Hán), thì những gạch ngói có nhiều điểm tương đồng, giống nhau về hoa văn và hình dáng. Chúng tôi cho rằng, những gạch ngói đó không phải của văn hóa Đông Sơn, nhưng những sản phẩm đó cũng không phải là sản xuất ở nước Nam Việt đưa sang, mà ở đây chính là sự du nhập kỹ thuật từ Trung Quốc vào. Nghĩa là số gạch ngói đó được sản xuất ngay tại đây, có thể là tại khu vực Cổ Loa và nó mang một số yếu tố bản địa như dấu vết của các trang trí hoa văn của văn hóa Đông Sơn, mà gạch ngói vùng Nam Việt không có. Bản thân văn hóa Đông Sơn không có kỹ thuật làm gạch ngói, mà kỹ thuật đó được du nhập vào từ Trung Quốc. Điều này chứng minh vào thời điểm đó, ở Cổ Loa có một nhân vật rất giàu có, nhiều quyền lực mới đủ điều kiện để cho du nhập kỹ thuật làm ngói và xây dựng thành quách. Mặt khác, nó cũng chứng minh là vào thời điểm đó, có một mối quan hệ thông thương khá lớn giữa nước ta và Trung Quốc, mà cụ thể ở đây là triều đại An Dương Vương và nước Nam Việt. Tôi khẳng định rằng, những hiện vật gạch ngói đó có niên đại muộn nhất là đời Tây Hán và có thể sớm hơn là vào thời nhà Tần! Về những mũi tên đồng Cổ Loa, trước đây chúng ta mới chỉ tìm thấy những khuôn đúc 2 mang. Nhưng việc phát hiện ra những khuôn đúc 3 mang đã tạo ra một bước ngoặt lớn. Theo nghiên cứu của chúng tôi, kỹ thuật làm khuôn 3 mang hoàn toàn là của văn hóa Đông Sơn. Trống đồng cũng được đúc bằng khuôn 3 mang: 1 mang khuôn cho mặt trống và 2 mang còn lại cho thân trống. Để xác định niên đại của chúng, tôi đã gửi đi phân tích niên đại 2 mẫu: 1 mẫu của lò đúc phát hiện được 2005 và kết quả cho niên đại là 159±35BC, tức là vào khoảng 159 trước Công nguyên với sai số 35 năm; mẫu thứ 2 là của những hố rác thải của lò đúc (bao gồm những tro lửa, lò đúc hỏng, sản phẩm hỏng…) ở gần những lò đúc, niên đại của mẫu vật này là 190±35BC, tức là cũng vào đầu thế kỷ 2 trước Công nguyên. Trước đây, “Đại việt sử ký toàn thư” của Ngô Sỹ Liên chép là triều đại An Dương Vương tồn tại từ 257 đến 208 trước Công nguyên. Nhưng từ những năm 60 của thế kỷ trước, các nhà sử học của chúng ta đã chứng minh được điều đó không đúng. Điều này trùng với ý kiến của Thiền sư Lê Mạnh Thát. Triều đại An Dương Vương tồn tại từ cuối thế kỷ 3 đến giữa thế kỷ 2 trước Công nguyên. Niên đại nói trên của khuôn đúc mũi tên đồng và rác thải lò đúc ở Cổ Loa hoàn toàn đúng với thời kỳ An Dương Vương đã xây dựng nước Âu Lạc và đánh nhau với quân Triệu Đà. Cũng như gạch ngói, những thứ để đúc ra hàng loạt mũi tên đồng Cổ Loa đều thuộc vào thời kỳ trước Công nguyên, thời kỳ Tây Hán. Ở Cổ Loa cũng có rất nhiều hiện vật thời Đông Hán, nhưng với những kết quả nghiên cứu nói trên, chứng tỏ thành Cổ Loa, đặc biệt là khu thành Nội được xây dựng và phát triển ở trình độ khá cao từ sớm; chứ không phải như ý kiến của một số người, cũng như Thiền sư Lê Mạnh Thát cho rằng được xây dựng thời Đông Hán và do Mã Viện xây nên! Triều đại An Dương Vương và mối liên hệ với Trung Quốc thời bấy giờ là không thể phủ nhận Nhưng Thiền sư Lê Mạnh Thát cho rằng không có cuộc xâm lược của Triệu Đà, và gần như không có sự quan hệ giữa nước ta và Trung Quốc lúc bấy giờ…? Tôi không đồng ý với quan điểm của Thiền sư Lê Mạnh Thát cho rằng không có cuộc xâm lược của Triệu Đà và nước Nam Việt chưa bao giờ có mối quan hệ với chúng ta. Tôi đã sang tham quan mộ của Triệu Văn Vương, tức là cháu của Triệu Đà và thấy ở đó có rất nhiều đồ đồng của văn hóa Đông Sơn chúng ta. Đặc biệt có 2 cái thạp đồng rất đẹp mà các nhà khảo cổ Trung Quốc cũng thừa nhận là của văn hóa Đông Sơn chúng ta, chứ không phải là sản phẩm của người Trung Quốc thời kỳ đó. Điều đó, chứng tỏ mối quan hệ giữa Nam Việt và Âu Lạc lúc đó là rất rõ ràng, có thể mối quan hệ giao thương 2 chiều, có thể là triều cống, hoặc có thể là Nam Việt cướp bóc của Âu Lạc! Dù hình thức nào đi nữa, thì không thể phủ nhận mối quan hệ này! Ở Cổ Loa, chúng tôi phát hiện được những đồng tiền của thời Tây Hán và thời Tần. Ngay trên trống đồng Cổ Loa, mặt trong cũng có khắc chữ Hán, tức là được khắc vào sau khi đúc hoặc đã sử dụng một thời gian. Đặc biệt trên một trong những khuôn đúc mũi tên đồng, đã phát hiện được 2 chữ theo lối chữ Hán. Một chữ đã đọc được là chữ “Thần” với nghĩa là “thần dân”, còn một chữ không đọc được. Tôi đã mang bản dập 2 chữ này sang Bắc Kinh hỏi thì được các chuyên gia Trung Quốc cho biết là 2 chữ này có niên đại sớm nhất là thời Chiến Quốc và muộn nhất là thời Tây Hán, tức là đều trước Công nguyên cả! Tôi cho rằng, sau khi đánh xong An Dương Vương, Triệu Đà rút quân về Phiên Ngung (kinh đô nước Nam Việt lúc bấy giờ) và chỉ thực hiện cai quản từ xa, vẫn cho nước Âu Lạc tồn tại nhưng dưới hình thức là chư hầu và phải triều cống hàng năm. Tức là ở Cổ Loa vẫn tiếp tục là của người Việt với văn hóa Đông Sơn tiếp tục phát triển do những người tù trưởng, tộc trưởng Việt lãnh đạo. Họ vẫn tiếp tục xây thành, thực hiện kỹ thuật đúc đồng mà An Dương Vương để lại… Tuy nhiên về sau, khi nhà Hán thôn tính nước Nam Việt thì sự cai trị của nhà Hán đối với chúng ta càng rõ nét hơn và tác động của văn hóa Hán tới văn hóa Đông Sơn mạnh hơn. Cho đến năm 43 sau Công nguyên, thì Hai Bà Trưng nổi dậy chống sự đô hộ của nhà Hán với tư cách là những tù trưởng, tộc trưởng… Theo dõi loạt bài trên báo Thanh Niên, Phó Giáo sư suy nghĩ như thế nào khi mà Thiền sư Lê Mạnh Thát không hề đề cập đến những kết quả khảo cổ học nói về thời kỳ An Dương Vương như trên, mà cho rằng toàn bộ câu chuyện An Dương Vương là do người Việt mình tự bịa ra trên cơ sở chuyện từ sử thi Mahabharata? Chưa có dịp tiếp xúc, nhưng tôi rất kính phục sự hiểu biết sâu rộng của Thiền sư cũng như khả năng xử lý các tài liệu, đặc biệt là văn bản cổ từ các ngôn ngữ khác nhau. Những luận điểm của Thiền sư đưa ra chúng ta cũng cần phải suy nghĩ. Như trường hợp Thiền sư đặt lại vấn đề Triệu Đà đánh nước Âu Lạc! Mặc đù đây là vấn đề không phải mới, trước đây nhiều nhà khảo cổ học đã tranh luận về vấn đề này! Tuy nhiên những luận điểm của của Thiền sư mới chỉ là dựa vào văn bản. Còn với những kết quả khảo cổ học của chúng tôi, mặc dù có nhiều điều cần phải làm rõ hơn nữa; nhưng sự tồn tại và phát triển của triều đại An Dương Vương là có thực, không thể phủ nhận. Đó là sự tiếp nối của thời kỳ Hùng Vương, đưa văn hóa Đông Sơn của người Việt lên một tầm cao mới với sự hình thành của một nhà nước sơ khai. Từ trước đến nay, trong giới khảo cổ học nói riêng và giới sử học nói chung đã có ý kiến nào phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của triều đại An Dương Vương như Thiền sư Lê Mạnh Thát không? Sự tranh cãi về việc xây thành Cổ Loa đã có từ lâu, nhưng chủ yếu chỉ tập trung vào một vấn đề là: vòng thành Nội do An Dương Vương xây dựng hay do Mã Viện sau này xây dựng nên. Với những kết quả nói trên, tôi khẳng định là do An Dương Vương xây dựng, sau này Mã Viện hay các thời kỳ khác chỉ sử dụng và tu bổ thêm. Còn vòng thành Trung và vòng thành Ngoại thì tất cả các nhà khảo cổ đều thống nhất là được xây dựng từ thời An Dương Vương. Từ trước đến nay, nghiên cứu tranh luận về triều đại An Dương Vương có nhiều, nhưng không một ai trong giới sử học Việt Nam nói chung và giới khảo cổ học nói riêng phủ nhận triều đại An Dương Vương như Thiền sư Lê Mạnh Thát cả! Với những kết quả khảo cổ mà chúng ta đã có trong mấy chục năm qua, việc tồn tại của triều đại An Dương Vương là điều không thể phủ nhận được. Xin cảm ơn Phó Giáo sư! (Theo SGGP) |
“Tại Israel, để là một người thực tế, bạn phải tin vào phép lạ”.[1]
-David Ben-Gurion (Thủ tướng đầu tiên của Nhà nước Israel hiện đại)
Từ khi Nhà nước Israel tuyên bố độc lập vào năm 1948, những đánh giá lịch sử về Israel thường chỉ đặt trọng tâm xoay quanh của các cuộc chiến nẩy lửa, các xung đột Ả Rập-Israel không bao giờ hết và các cuộc đàm phán ngoại giao bế tắc. Trọng tâm đó rất gây hiểu lầm. Israel đã trải qua nhiều cuộc chiến; Israel cũng luôn là mục tiêu của các cuộc tấn công khủng bố nhiều hơn bất kỳ một quốc gia nào khác; cũng là một thành viên tích cực trong nỗ lực kiến tạo hòa bình của Trung Đông trong nhiều thập niên. Tuy nhiên, các xung đột và thương lượng, mặc dù thường xuất hiện với tần suất rất cao trên các tiêu đề truyền thông hàng ngày, chỉ là một phần nhỏ của câu chuyện. Cuốn sách này “Câu chuyện Do Thái: từ Do Thái giáo đến Nhà nước Israel hiện đại” cho chúng ta nhìn thấy một bức tranh quan trọng hơn và bao quát hơn: thực tế của đất nước này và con người của nó là gì?
Câu trả lời là Israel hiện đại đã và đang xây dựng một hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa với một ý thức rõ ràng – mặc dù không hoàn hảo và chưa trọn vẹn. Đó là một quốc gia bình thường như mọi quốc gia khác, độc đáo, đặc sắc, và mang nhiều màu sắc khác lạ.
Tuy rằng Israel hiện đại khởi nguồn từ một trong những nền móng xã hội và văn hóa lâu đời nhất trên trái đất, di sản cổ xưa của nó đã không giúp cho công cuộc xây dựng quốc gia Israel hiện đại dễ dàng hơn. Ngược lại, tôn giáo và chủ nghĩa duy vật, ngôn ngữ đa dạng, dân chúng với nhiều trình độ phát triển kinh tế, kinh nghiệm lịch sử khác nhau, trong số các yếu tố khác, đã khiến cho công cuộc xây dựng quốc gia của Israel đặc biệt phức tạp và đầy thử thách. Một mảnh đất nhỏ bé và khô cằn, tài nguyên thiên nhiên ít ỏi, bao quanh bởi các nước láng giềng thù địch, cùng với những câu chuyện thành công ngoạn mục đã làm cho Israel trở nên một đất nước như huyền thoại.
Định nghĩa Israel hiện đại
Ý tưởng cho rằng người Do Thái là “chỉ là” một nhóm tôn giáo là một khái niệm bắt đầu với cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, nhưng đã không gây ảnh hưởng ở Tây Âu cho đến giữa thế kỷ 19. Khái niệm này hoàn toàn không đứng vững trong các cộng đồng người Do Thái ở Đông Âu hay Trung Đông. Ở Tây Âu, những người có cảm tình với người Do Thái và những người Do Thái muốn mình hòa đồng với nền văn hóa của đa số, đã tìm cách mô tả người Do Thái như những công dân bình thường về mọi mặt ngoại trừ trong khu vực cá nhân hạn hẹp của tôn giáo. Không tự coi mình là một dân tộc đặc biệt với một nền văn hóa, ngôn ngữ, và bản sắc riêng biệt là một cách làm của người Do Thái trong cố gắng đạt tới bình đẳng và loại bỏ chủ nghĩa bài xích Do Thái. Nhưng cách tiếp cận này đã không phản ánh được thực tế lịch sử và mâu thuẫn với chính hình ảnh bản thân của họ.
Trong Thời Kỳ Thánh Kinh [3000 TCN – 538 TCN][2] và cho đến thời điểm quốc gia Israel cổ đại bị người La Mã hủy diệt vào năm 70 CN, người Do Thái đã sinh hoạt như một quốc gia, được cho là đầu tiên trong lịch sử. Sau đó, suốt trong hơn mười chín thế kỷ, người Do Thái lưu vong, và trên những vùng đất mà họ cư ngụ đã hình thành nên một dân tộc tách biệt với những tổ chức quản lý phi-nhà nước theo cung cách riêng của mình, với ngôn ngữ duy nhất, phong tục độc đáo, những ý tưởng khác lạ, và một nền văn hóa rất khác biệt, chưa kể đến những thứ như trang phục quần áo và nghệ thuật. Những từ như “Hebrew” và “Israeli”, sử dụng phổ biến hơn từ “Jews” – ngay trong thời hiện đại – đã phản ánh rằng bản sắc dân tộc và con người Israel đã tự mở rộng vượt ra ngoài phạm vi của tôn giáo.
Tôn giáo, như thế, chỉ là một dấu hiệu trong bản sắc người Do Thái, giống như một quốc gia trong tự nhiên. Không có mâu thuẫn nào giữa bản sắc tôn giáo và bản sắc dân tộc. Trong thế giới cổ đại và cũng ở ngay thời hiện đại, ở nhiều nơi, một tôn giáo khác biệt là một trong những điểm nổi bật chính của quốc gia-dân tộc. Điều này đặc biệt đúng tại khu vực Trung Đông thời hiện đại, nơi mà Israel là một điển hình.
Trong suốt lịch sử, hành động đầu tiên đánh dấu rằng người Do Thái có một bản sắc dân tộc đặc biệt mạnh mẽ chính là việc họ đã từ chối các vị thần và các phong tục tôn giáo của ngay cả những dân tộc đã từng thống trị họ như người La Mã và sau đó người Kitô giáo và Hồi giáo. Trong nhiều trường hợp khác, có những dân tộc chấp nhận tôn giáo, ngôn ngữ, và bản sắc của những người cai trị hoặc hàng xóm để rồi cuối cùng biến mất khỏi lịch sử. Điều đó cho thấy rằng một bản năng yếu kém không có chỗ tồn tại trong thế giới của quyền lực. Cái bản sắc tôn giáo-dân tộc kéo dài của người Do Thái đã tỏ ra mạnh hơn so với hầu như bất kỳ một dân tộc nào khác trên trái đất.
Khả năng sinh tồn này đã được định hình không phải chỉ do đặc tính “bướng bỉnh” và “bất chấp” của người Do Thái, cũng không phải do những o ép đối với họ bằng vũ lực. Thay vào đó, người Do Thái đã hành động giống như một quốc gia hiện đại, dù rằng đã mất quyền kiểm soát hoặc hiện diện trong những vùng lãnh thổ đặc biệt. Thật vậy, việc ngăn cấm tôn giáo đối với người Do Thái bằng cách pha loãng tập tục của họ hay tích hợp từ tập tục của những dân tộc khác trong thời cổ đại đã dẫn đến cuộc nổi dậy thành công của người Do Thái vào năm 166 TCN chống lại người Syria dòng Seleucid để lập nên vương quốc Hasmoneans độc lập; và ngược lại là cuộc khởi nghĩa thất bại chống lại người La Mã và dẫn đến sự hủy diệt của Jerusalem vào năm 70, buộc người dân Do Thái sống cuộc đời lưu vong trong gần 2000 năm.
Sau khi dịch chuyển trung tâm sinh hoạt từ Vùng đất Israel đến các cộng đồng Do Thái lưu vong, rời xa khỏi quê hương lịch sử ở Trung Đông, người Do Thái vẫn tiếp tục cố gắng sinh hoạt như một quốc gia, mặc dù buộc phải chấp nhận những thiệt thòi của lối sống tách biệt, đó là sự phân biệt đối xử và thậm chí bách hại dưới bàn tay của các nước láng giềng. Qua nhiều thế kỷ, trong khuôn khổ lãnh đạo của các giáo sĩ Do Thái, người Do Thái vẫn duy trì một hình thức chính phủ cộng đồng của riêng mình, cùng với pháp luật, lịch, ngôn ngữ, các quan điểm triết học, có thể nhìn thấy trong các văn bản lớn của giáo hội và đặc biệt là qua đồ ăn, tập quán, và trang phục quần áo.
Đây không phải là một hoạt động mang tính cục bộ. Các cộng đồng cá nhân của người Do Thái, ngay khi cách xa nhau ngàn vạn cây số và sống trong những điều kiện rất khác biệt, vẫn duy trì kết nối trong suốt thời gian dài thời Trung cổ và tiếp tục trong thời kỳ hiện đại. Thật vậy, đó chính là lý do giải thích tại sao người Do Thái vẫn có thể thành công trong việc duy trì thương mại ở tầm xa, giữ được những tập quán khá đồng nhất.
Tất cả người Do Thái, ngay cả những người nghèo và ít học nhất sống ở các thôn xóm cô lập nhất, vẫn ý thức được nguồn gốc của họ tại Vùng đất Israel trong Thánh Kinh; nhiều người vẫn duy trì quan hệ với cộng đồng rất nhỏ người Do Thái đang còn sống ở đó và luôn tin rằng số phận sẽ dẫn họ trở về khi Đấng Cứu Thế xuất hiện.
Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái (Zionism – Chủ nghĩa Zion) xuất hiện ở châu Âu vào cuối thế kỷ 19 đã cập nhật tất cả những ý tưởng hiện có trên tinh thần tự giác và chủ nghĩa dân tộc đương đại. Nó đề xuất câu trả lời cho “câu hỏi Do Thái“, rằng làm thế nào để người Do Thái, bao gồm cả những người có cuộc sống không bị bao bọc bởi giới luật tôn giáo, đáp ứng những thách thức và cơ hội của thế giới hiện đại? Câu trả lời là không phải sự đồng hóa, cũng không phải là sự tồn tại thuần túy tôn giáo có thể đáp ứng những thách thức của thế giới hiện đại, mà chính là sự tồn tại của quốc gia: đó là sự cần thiết tạo ra một nhà nước Do Thái ngay trên quê hương lịch sử. Các nhà Zionist cũng lập luận rằng việc thay thế sự kiên nhẫn của lòng tin bằng hành động của con người sẽ bảo tồn cuộc sống của chính những người Do Thái và sự thịnh vượng cho tôn giáo của họ.
Ở Đông Âu, nơi mà đại đa số người Do Thái châu Âu tập trung, trên thực tế một đời sống quốc gia của người Do Thái vẫn tồn tại trong suốt thế kỷ 19 và kéo dài sang thế kỷ 20 ở nhiều nơi. Hầu hết người Do Thái châu Âu nói tiếng Yiddish, một ngôn ngữ có nguồn gốc từ tiếng Do Thái và tiếng Đức. Họ cầu nguyện hàng ngày trong các hội đường, lấy Vùng đất Israel làm trung tâm tôn giáo, và sinh hoạt như một cộng đồng hoàn toàn tách biệt với các láng giềng. Vụ diệt chủng người Do Thái của Đức Quốc Xã, cùng với sự đồng hóa cưỡng chế ở một số quốc gia châu Âu và Liên Xô, đã kết thúc lối sống này.
Trong khi đó ở Trung Đông người Do Thái sống gần như hoàn toàn cô lập trong cộng đồng của họ, tuân theo các lề luật tôn giáo riêng, có trang phục và nghề nghiệp khác biệt, và nói một ngôn ngữ đặc biệt đó là Arabic-Hebrew hoặc Spanish-Hebrew tương tự như tiếng Yiddish.
Với lịch sử như thế, nhận thức chung của nhiều người ngoài cuộc là người Do Thái luôn là những người ngoài lề, không tự nguyện hội nhập hoàn toàn vào những cộng đồng đa số nơi họ sống. Đối với người Do Thái ở châu Âu Kitô giáo hoặc Trung Đông với đa số Hồi giáo, chưa bao giờ – hoặc chỉ rất gần đây – có bất kỳ lời đề nghị hội nhập hoàn toàn. Tuy nhiên, đại đa số người Do Thái không nhìn bản sắc khác biệt của họ với ý nghĩ tiêu cực mà vẫn coi mình đơn thuần là “hướng nội”. Nói cách khác, người Do Thái tự coi họ là một phần của cộng đồng Do Thái rất gắn kết của riêng mình, trong khi vẫn chia sẻ thế giới quan với các thành viên của các cộng đồng khác bất kể vị trí địa lý và hoàn cảnh kinh tế của họ.
Thật vậy, Israel hiện đại không phải là một tác phẩm tùy ý hoặc ngẫu nhiên – nó không chỉ đơn thuần là kết quả của những thảm họa, ví dụ như, Holocaust. Thay vào đó, nó là sự tiếp nối của một quá trình lịch sử lâu dài. Sự ra đời của Nhà nước Israel là không thể tránh khỏi và là một logic hợp lý vì cũng như bất kỳ nhà nước nào trên thế giới hiện nay, nó được tạo ra bởi một cộng đồng của những người có chung một thế giới quan, lịch sử, và ước muốn được chia sẻ số phận của mình.
Sự tồn tại của những cảm tình đối với Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái trong xã hội, tôn giáo và thế giới quan Do Thái có lẽ sẽ không đi tới đâu nếu không có một phong trào có tổ chức. Những nhà tư tưởng tiên phong giữa thế kỷ 19 – Moses Hess [1812-1875], Leon Pinsker [1821-1891], và những người khác – đã cung cấp cái nhìn thoáng qua về ý tưởng lãng mạng của một nhà nước Do Thái, nhưng Theodor Herzl [1860-1904] và Ben-Gurion [1886-1973] mới là những nhà cách mạng đã đưa ý tưởng phục quốc trở thành hiện thực vào những năm 1890 khởi đầu với khái niệm “Vùng đất Israel ” (Land of Israel).
Cuộc di cư rải rác của những người dân Do Thái lưu vong về lại Vùng đất Israel và tham gia với cộng đồng tôn giáo truyền thống đã có ở đó dẫn đến sự ra đời của Yishuv. Đây là tên gọi cộng đồng người Do Thái ở Vùng đất Israel giữa những năm 1880 và 1948, khi Israel tuyên bố trở thành một nhà nước độc lập. Cộng đồng Do Thái Yishuv đóng vai trò quan trọng trong việc đặt nền móng cho một Nhà nước Israel đã được trù liệu. Trong khi truyền thống và lịch sử Do Thái là lớp nền móng đầu tiên trong việc định hình Nhà nước Israel hiện đại, Yishuv là lớp thứ hai.
Những thuộc tính văn hóa và cơ cấu kinh tế-chính trị được tạo ra trong thời kỳ Yishuv đã trở thành những thuộc tính cơ bản của nhà nước và xã hội Israel hiện đại sau này. Các đặc trưng tiền-nhà nước được biết đến nhất bao gồm: sự hồi sinh của ngôn ngữ Hebrew, sự thành lập các tổ chức tự vệ, việc thành lập một nền tảng kinh tế công nghiệp theo cấu trúc xã hội chủ nghĩa, sự phát triển của một hệ thống dịch vụ xã hội toàn diện, sự hòa hợp của một nền văn hóa nẩy sinh chủ yếu từ chất men trí thức của Đông Âu, việc lập ra các làng cộng đồng sáng tạo “Kibbutz” và các hợp tác xã “Moshav”, và việc xây dựng một khuôn khổ quốc gia căn bản là thế tục với các khía cạnh tôn giáo lớn. Nhiều yếu tố khác từ những năm Yishuv trong giai đoạn tiền-nhà nước vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến Israel rất lâu sau khi Nhà nước Israel được thành lập.
Hãy xem xét, ví dụ, vai trò của tôn giáo. Để nói rằng Israel là một nhà nước Do Thái không có nghĩa là chỉ đơn thuần là một bản tuyên bố về bản sắc tôn giáo. Nó trước tiên phải là một tuyên bố về bản sắc dân tộc. Đại đa số các nhà lãnh đạo Yishuv, và sau đó các nhà lãnh đạo Israel, là thế tục (có nghĩa là không ràng buộc vào tôn giáo nào). Họ đồng thời công nhận tầm quan trọng của tôn giáo trong việc gắn kết người Do Thái lại với nhau, tôn trọng tín ngưỡng của các nhóm thiểu số, nhưng cũng muốn đảm bảo rằng tôn giáo không có quá nhiều quyền lực đối với xã hội và văn hóa dân tộc.
Vì vậy, thế hệ lãnh đạo thống trị Yishuv và Nhà nước Israel ban đầu đã sớm đạt được một thỏa hiệp với các lãnh đạo Do Thái giáo Chính Thống (Orthodox) để chỉ chấp nhận quyền lực của tôn giáo ở một số khía cạnh của xã hội. Ngày nay các tổ chức nhà nước vẫn tuân theo luật lệ về chế độ ăn chay (Kosher) của người Do Thái; các cửa hàng thường đóng cửa vào ngày Sabbath (mặc dù thực tế này đã bị xói mòn theo thời gian); nhà nước nghỉ làm việc trong các ngày lễ tôn giáo của người Do Thái; kết hôn, ly hôn, và chôn cất được các giáo sĩ Do Thái điều khiển; sinh viên của các chủng viện Yeshiva[3] được hoãn nghĩa vụ quân sự. Thỏa hiệp này đảm bảo duy trì sự cân bằng quyền lực của cả hai phía thế tục và tôn giáo.
Tuy nhiên, thực tế thì Israel là một xã hội nghiêng về thế tục. Nói chính xác thì Israel được đặc trưng là một đất nước trong đó các khái niệm, phong tục và lịch sử có nguồn gốc tôn giáo đã được đặt vào trong một khuôn khổ thế tục và quốc gia. Trong một ý nghĩa tương tự, quá trình này cũng đã diễn ra trong nền văn minh phương Tây Kitô giáo.
Trong ba hoặc bốn thập niên đầu tiên của Nhà nước Israel độc lập, người Israel Do Thái tiếp tục tự cho rằng họ được phân chia rõ ràng thành hai nhóm tôn giáo và thế tục. Đến những năm 1990, tuy nhiên, người Israel Do Thái nhận ra sự tồn tại của một chuỗi rộng các quan điểm cũng như trình độ của việc thực hành tôn giáo. Khi xã hội đã trở thành thế tục hơn và ít ý thức hệ hơn, một thành phần khá lớn dân số gọi là “truyền thống” xuất hiện; họ vẫn duy trì các yếu tố của giới luật tôn giáo nhưng lại cam kết cho một lối sống cơ bản thế tục. Cách tiếp cận này đặc biệt mạnh trong nhóm người Do Thái Mizrahi là những người Do Thái đến từ Trung Đông và Bắc Phi.
Mặc dù có rất nhiều thách thức, Israel ngày nay có một hệ thống dân chủ đa nguyên được kiến trúc để có thể dung chứa các cộng đồng và các quan điểm khác nhau, mặc dù không đại diện về địa lý.
Một yếu tố khác đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của Israel là những người nhập cư Do Thái đến từ nhiều quốc gia và các nền văn hóa khác nhau đã hòa nhập thành công trong một xã hội thống nhất. Trước và sau độc lập của Israel vào năm 1948, những người nhập cư đến đầu tiên từ châu Âu, sau đó chủ yếu là từ Trung Đông, sau này từ Liên Xô cũ, và với số lượng nhỏ hơn, từ Ethiopia. Hầu hết những người nhập cư là người tị nạn nghèo, mất hết tài sản, cũng như bị chấn thương tâm lý do điều kiện sống khắc nghiệt và khủng bố ở các quốc gia họ đã bỏ trốn. Họ đã tìm thấy đời sống mới trên Vùng đất Israel. Họ hy vọng.
Mặc dù Israel được định nghĩa là một nhà nước Do Thái, nó lại hoạt động giống như một quốc gia Trung Đông truyền thống đa nguyên – với một tôn giáo nhà nước và các nhóm thiểu số tự trị một phần – hơn là kiểu nhà nước một dân tộc (mono-nationalist) của châu Âu thế kỷ hai mươi vốn đã xóa bỏ tất cả các nhóm thiểu số trong quá trình cưỡng bức đồng hóa . Ở Israel, mỗi cộng đồng tôn giáo có quyền kiểm soát đối với các vấn đề riêng của cộng đồng mình về tình trạng cá nhân, có quyền duy trì văn hóa, tôn giáo, và, ở một mức độ nào đó, tự chủ về tư pháp.
Israel nổi lên từ những năm trước và sau độc lập của mình với một thách thức chính trị, thế giới quan, kinh tế, văn hóa trộn lẫn từ nhiều yếu tố khác nhau. Trong số các ảnh hưởng chính là xã hội Do Thái truyền thống cùng với những cải cách Yishuv và những vay mượn từ các nền văn hóa Đông Âu, Tây Âu và Trung Đông. Bổ sung theo thời gian là các yếu tố văn hóa của Bắc Mỹ, Địa Trung Hải, và Nga hiện đại, cũng như một môi trường văn hóa Ả Rập tự trị. Pha trộn tất cả các yếu tố dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và văn hóa này với nhau đã tạo nên một môi trường xã hội phong phú, những ý thức hệ chính trị đa dạng và nhiều giai tầng về địa vị xã hội.
Đây là một phần trích từ cuốn sách “Câu Chuyện Do Thái: Từ Do Thái giáo đến Nhà nước Israel Hiện đại” của tác giả Đặng Hoàng Xa (Nhóm nghiên cứu Do Thái & Israel), do Sách Thái Hà dự định xuất bản tháng 1/2015
——————
[1] “In Israel, in order to be a realist, you must believe in miracles.”
[2] Trong cuốn sách này chúng tôi ghi rõ TCN (trước công nguyên) trong những ngày trước năm 0001. Còn những ngày sau đó chúng tôi dùng ký hiệu viết tắt CN (sau công nguyên) hoặc để trống không ghi gì.
[3] Yeshiva: chủng viện Do Thái Chính thống.
– See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/11/22/ban-sac-do-thai/#sthash.gIFUIVR0.dpuf
Nguồn: Walter Russell Mead, “The New Israel and the Old: Why Gentile Americans Back the Jewish State?”, Foreign Affairs, July/August 2008.
Biên dịch: Trần Ngọc Cư
Chìa khóa đích thực cho chính sách Israel của Washington là sự hậu thuẫn lâu dài và rộng lớn của công chúng Mĩ nói chung dành cho quốc gia Do Thái.
Ngày 12 tháng Năm năm 1948, trước nội các chia rẽ của Tổng thống Harry Truman, Clark Clifford, luật sư trưởng của Nhà Trắng, đưa ra những lí lẽ biện hộ cho việc Hoa Kì công nhận quốc gia Do Thái. Với sự chứng kiến của một George Marshall, bộ trưởng ngoại giao lườm lườm đôi mắt và một Robert Lovett, thứ trưởng của Marshall đầy vẻ hoài nghi, Clifford lí giải rằng việc công nhận quốc gia Do Thái sẽ là một hành động nhân đạo phù hợp với những giá trị truyền thống của Mĩ. Để chứng minh cho quyền đòi lãnh thổ của người Do Thái, Clifford đã trích dẫn Đệ nhị Luật của Cựu ước (Deuteronomy): “Đây, ta trao đất đó cho các ngươi, hãy vào và chiếm hữu đất mà Đức Chúa đã thề với cha ông các ngươi, là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho họ và dòng dõi họ sau này.” [1]
Marshall không được thuyết phục cho lắm và đã nói thẳng với Truman rằng ông sẽ bỏ phiếu chống lại vị tổng thống này trong kì bầu cử tới nếu đây là chính sách của ông ta. Nhưng cuối cùng, Marshall đồng ý không công bố sự chống đối của mình. Chỉ hai ngày sau đó, Hoa Kì thật sự công nhận tân quốc gia Do Thái, 11 phút sau khi Israel tuyên bố sự hiện hữu của mình như một quốc gia. Nhiều quan sát viên, trong cũng như ngoài nước Mĩ, gán ghép quyết định của Truman với quyền lực của cộng đồng Do Thái tại Hoa Kì. Họ cho rằng lá phiếu và ảnh hưởng báo đài của người Do Thái, cũng như những đóng góp tài chánh của họ vào quĩ vận động tranh cử là trọng yếu trong cuộc chạy đua sát nút vào Nhà Trắng năm 1948.
Kể từ đó về sau, lối lí giải này cứ thế mà được lặp đi lặp lại. Những chuyên gia khả kính về chính sách đối ngoại của Mĩ thường kêu gọi Washington cần phải thận trọng với vùng Trung Đông và từng cảnh báo nhiều vị tổng thống rằng sự hậu thuẫn quá đáng dành cho Israel sẽ gây tổn thất nghiêm trọng cho Hoa Kì trên trường quốc tế. Khi các tổng thống Mĩ gạt bỏ chuyên gia tư vấn qua một bên để đi theo một lập trường thân-Israel, nhiều nhà quan sát bèn gán ghép động thái này cho nhóm vận động hành lang của Israel và cứ thế mà khen (hay chê) nhóm này vì đã lay chuyển được người đứng đầu ngành hành pháp. Tuy nhiên, còn có một yếu tố khác cần được xét đến. Như người viết tiểu sử cho Truman là David McCullough đã ghi nhận, sự hậu thuẫn mà Truman dành do quốc gia Do Thái “được nhiệt liệt hoan nghênh” trên toàn nước Mĩ. Một cuộc thăm dò ý kiến của Gallup tháng Sáu năm 1948 cho thấy rằng số người Mĩ “đồng tình với người Do Thái” nhiều gấp ba lần số người Mĩ “có thiện cảm với người Ả-rập”. Hậu thuẫn này không phải là một ngọn lửa rơm. Sự ủng hộ rộng lớn của dân ngoại Do dành cho nước Israel là một trong những lực chính trị mạnh nhất trong chính sách đối ngoại của Hoa Kì, và trong 60 năm qua, chưa hề có một cuộc thăm dò nào của Gallup cho thấy số người Mĩ đồng tình với người Ả-rập hay người Pa-lét-tin đông hơn số người bênh vực cho dân Israel.
Hơn thế nữa, qua thời gian, thiện cảm dành cho nước Israel ngày càng gia tăng tại Mĩ, đặc biệt trong các tầng lớp dân chúng phi-Do-Thái (non-Jews). Những năm Bush nắm chính quyền đánh dấu hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel đạt đến mức cao hơn bao giờ cả, và hậu thuẫn này chưa hề suy giảm suốt trong hai nhiệm kì của Bush. Sự gia tăng hậu thuẫn này đã diễn ra thậm chí vào lúc tỉ trọng dân số của người Do Thái trong xã hội Hoa Kì bị suy giảm. Vào năm 1948, người Do Thái chiếm khoảng 3,8 phần trăm dân số Hoa Kì. Cứ cho như hầu hết mọi người Do Thái tại Mĩ ủng hộ một chính sách đối ngoại thân-Israel vào năm đó, thì khoảng 10 phần trăm số người tại Mĩ ủng hộ Israel là có gốc gác Do Thái. Vào năm 2007, người Do Thái chỉ chiếm 1,8 phần trăm dân số Hoa Kì và nhiều lắm họ cũng chỉ chiếm 3 phần trăm số người ủng hộ Israel tại Mĩ.
Những con số này, dù ấn tượng thật đấy, nhưng cũng chưa nói hết mức độ hậu thuẫn thực sự của công chúng Mĩ dành cho Israel. Khi Trung tâm Nghiên cứu Pew đặt câu hỏi trong một cuộc thăm dò ý kiến năm 2006, liệu chính sách Mĩ ở Trung Đông có công bằng không, hay đã thiên vị Israel hoặc thiên vị người Pa-let-tin, có đến 47 phần trăm số người trả lời phỏng vấn cho rằng chính sách này công bằng, 6 phần trăm nói rằng chính sách này bênh vực người Pa-let-tin, và chỉ 27 phần trăm nghĩ rằng chính sách Mĩ đã thiên vị Israel. Cuộc thăm dò được xúc tiến trong thời gian Israel tấn công lực lượng Hồi giáo Hezbolla ở Nam Li-băng, một thời điểm mà sự hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel thậm chí gây nhiều tranh cãi trên khắp thế giới hơn lúc bình thường. Vì thế, chúng ta phải kết luận rằng khi trả lời cuộc phỏng vấn, nhiều người trong số những người Mĩ cho rằng Hoa Kì có chính sách công bằng đối với cả hai phía trong cuộc xung đột Trung Đông thật ra cũng chỉ là những người ủng hộ những chính sách mà hầu hết quan sát viên nước ngoài sẽ cho là thân-Israel một cách quá nồng nhiệt và thậm chí tắc trách. Ít khi công chúng Mĩ thiên về một chính sách đối ngoại nào rõ nét như thế này, sâu sắc như thế này, bền bỉ như thế này – và xung khắc với công luận của nhiều nước khác như thế này.
Ở Hoa Kì, một chính sách đối ngoại thân-Israel không tiêu biểu cho sự thắng thế của một nhóm vận động hành lang nhỏ bé vượt lên trên lên ý chí của đại chúng. Trái lại, nó phản ánh sức mạnh công luận trong việc hình thành chính sách đối ngoại bất chấp cả những lo ngại của giới chuyên gia. Tương tự như cuộc chiến chống ma túy và hàng rào dọc theo biên giới Mê-hi-cô, sự hậu thuẫn dành cho Israel là một chính sách đối ngoại của Mĩ từng làm cho một số chuyên gia ái ngại nhưng lại chiếm được sự ủng hộ rộng rãi của công chúng. Điều này không có nghĩa là “nhóm vận động hành lang cho Israel” không hiện hữu hoặc không ảnh hưởng tới việc định hướng chính sách của Mĩ tại Trung Đông. Điều này cũng không có nghĩa là người Mĩ nên duy trì những định kiến của mình. (Tôi vẫn giữ quan điểm rằng tất cả mọi người, kể cả người Mĩ và người Israel, sẽ được lợi lộc nếu người Mĩ bày tỏ một sự hiểu biết toàn diện hơn và thiện cảm hơn đối với nhu cầu của người Pa-let-tin.) Nhưng điều này thực ra có nghĩa là cội nguồn sâu xa nhất của chính sách Trung Đông của Mĩ nằm ngoài vòng đai thủ đô Washington và nằm ngoài cộng đồng Do Thái. Muốn hiểu lí do tại sao chính sách của Hoa Kì luôn thiên vị Israel hơn là trung lập hay thân với người Pa-let-tin, chúng ta phải nghiên cứu xuất xứ của sự hậu thuẫn này từ giới bình dân và phi-Do-Thái (non-Jewish) đối với quốc gia Do Thái.
Con cái của David [2]
Lịch sử của việc Hoa Kì hậu thuẫn cho một quốc gia Do Thái tại Trung Đông bắt đầu khá sớm. John Adams [vị tổng thống thứ hai của Hoa Kì] đã dùng những lời lẽ bộc bạch nhất của mình: “Tôi thành thật cầu chúc cho người Do Thái có lại một quốc gia độc lập trong vùng Judea.” Ông nói điều này sau khi rời ghế tổng thống. Từ đầu thế kỉ 19 trở về sau, những người dân ngoại Do [3]theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít [4] (gentile Zionists) rơi vào hai trường phái. Phái Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionists) dự kiến người Do Thái sẽ trở về Đất Hứa như cách thể hiện theo nghĩa đen lối giải thích lời các ngôn sứ trong Kinh thánh, những điều tiên tri có liên quan tới sự trở lại trần gian của đức Ki-tô và ngày tận thế. Chẳng hạn, dựa trên lối lí giải của chính mình về Chương 18 của những lời tiên tri của ngôn sứ Isaiah [Cựu ước], mục sư John McDonald thuộc giáo phái Albany Presbyterian đã tiên đoán vào năm 1814 rằng nhân dân Mĩ sẽ giúp người Do Thái phục hồi quốc gia thời cổ đại của họ. Nhiều tiếng nói trong giáo phái Mormon cũng chia sẻ quan điểm này; vào năm 1841, Kì mục Orson Hyde cho rằng việc người Do Thái trở về Đất thánh đã được khởi động: “Không còn hoài nghi gì nữa, bánh xe vĩ đại hiện đang chuyển động, lời của Đấng Toàn Năng đã tuyên bố rằng bánh xe đó sẽ lăn nhanh.”
Những tín đồ Ki-tô giáo khác, ít bám vào nghĩa đen của Kinh Thánh và ít dựa vào ngôn sứ hơn, lại triển khai một chủ nghĩa Xi-ôn-nit tiến bộ (progressive Zionism), một lí thuyết có ảnh hưởng qua nhiều thập niên đối với dân ngoại Do trong nhà thờ cũng như ngoài thế tục. Vào thế kỉ 19, những người Ki-tô giáo phóng khoáng thường tin rằng Thiên Chúa đang xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thông qua sự tiến bộ của loài người. Họ nhận thấy nước Hoa Kì dân chủ và (tương đối) bình đẳng vừa là một gương mẫu của thế giới mới mà Thiên Chúa đang tạo dựng vừa là một công cụ vững mạnh để xúc tiến đồ án vĩ đại của ngài. Một số tín đồ Tin Lành Mĩ (American Protestants) [5] tin tưởng rằng Thượng Đế đang khởi động việc đưa những phần tử gọi là người Do Thái bị xuống cấp và đày đọa trên thế giới trở về Đất Hứa, cũng như Thượng Đế đang nâng đỡ và cải thiện cuộc đời của những người ngu si, kém tin khác xuyên qua sự phát triển những nguyên tắc đạo lí Tin Lành phóng khoáng. Họ mong muốn cho người Do Thái thành lập được một quốc gia riêng vì họ tin rằng sự nghiệp lập quốc này sẽ che chở cho người Do Thái khỏi sự bách hại và, thông qua sức mạnh cứu chuộc của tự do và sự cần lao canh tác lương thiện, sẽ nâng cao và cải thiện tình trạng mà họ cho là sự suy đồi đạo lí và sự dơ dáy đáng trách của người Do Thái đương thời ở đế quốc Ottoman và đông Âu. [Cựu tổng thống Mĩ lúc bấy giờ là] Adams đã nhận định: “Một khi có lại được một chính phủ độc lập và không còn bị bách hại, những người Do Thái này sẽ sớm rũ bỏ phần nào tính cộc cằn thô lỗ, những dị hợm trong nhân cách để có lúc trở thành người Ki-tô giáo cởi mở tin vào một Thiên Chúa Nhất thể [6] (Unitarian Christians).” Đối với những tín đồ Ki-tô giáo phóng khoáng nói trên, chủ nghĩa Xi-ôn-nít Mĩ là bộ phận khắn khít của một chương trình rộng lớn hơn nhằm biến đổi thế giới bằng cách xiển dương những lí tưởng của Hoa Kì.
Không phải tất cả mọi người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiến bộ đều gói ghém lí luận của mình bằng từ ngữ tôn giáo. Ngay từ năm 1816, tờ Niles’ Weekly Register, một báo định kì thông tin và bình luận hàng đầu của Mĩ vào nửa đầu của thế kỉ 19, đã tiên đoán và hoan nghênh sự hồi hương sắp diễn ra của người Do Thái, sự trở về một quốc gia độc lập với thủ đô là Jerusalem. Tạp chí này dự phóng rằng sự nghiệp phục quốc và phục hồi nhân cách của người Do Thái sẽ đẩy mạnh văn minh và tiến bộ – và hiển nhiên là, điều này sẽ rất tốt đẹp cho cả Hoa Kì lẫn người Do Thái.
Về phần mình, những người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionists) trở nên đông đảo hơn sau cuộc Nội chiến của Hoa Kì. Quan điểm của họ được triển khai cao độ về vai trò mà một quốc gia Do Thái được phục hưng có thể nắm giữ trong những biến động dẫn đến ngày tận thế. Vào giai đoạn này, những sách báo nêu bật sự phục quốc được tiên tri trong Thánh kinh của người Do Thái và suy đoán về bản sắc và tiến trình hồi hương các “bộ lạc thất tán” của dân Hêbrơ [7] cổ đại là sách bán chạy nhất từ năm này sang năm khác. Sự liên kết giữa Dwight Moody, một người rao giảng Tin Lành (evangelist) [8] hàng đầu trong nước, và Cyrus Scofield, một học giả Kinh thánh quan trọng, đã đặt lịch sử tương lai của nước Israel ở trung tâm tư duy của đạo Tin Lành bảo thủ Mĩ.
Những nhóm dân ngoại Xi-ôn-nít này tìm được những đồng minh mới, dù đôi khi không như ý, vào khoảng sau năm 1880, tức thời điểm mà đợt nhập cư đông đảo người Do Thái Nga bắt đầu. Một số những di dân mới đến này và một số người Do Thái Đức vốn đã hội nhập vào xã hội Mĩ – cả hai nhóm này – nuôi hi vọng rằng Palestine sẽ thay thế Hoa Kì làm quê hương tương lai cho hạng người bị coi là một tập thể di dân bị khinh ghét khác thường lúc bấy giờ. Đối với những phần tử bài Do Thái (anti-Semites), sự thành lập một quốc gia Do Thái có thể hoặc không có thể “chữa trị” người Do Thái hết những tính chất [tiêu cực] mà nhiều dân ngoại Do gán ghép cho họ, nhưng dù sao đi nữa sự thành lập một quốc gia như thế sẽ giảm bớt làn sóng di dân của người Do Thái vào Hoa Kì.
Năm 1891, những nhóm dân ngoại Xi-ôn-nít liên kết lại với nhau. William Blackstone, lãnh đạo thế tục thuộc giáo phái Methodist, trình lên Tổng thống Benjamin Harrison một kiến nghị kêu gọi Chính phủ Hoa Kì đứng ra làm trung gian triệu tập một hội nghị các cường quốc châu Âu nhằm thúc đẩy Đế quốc Ottoman giao trả Palestine lại cho người Do Thái. Bốn trăm người kí tên, mà tuyệt đại đa số là các nhân vật phi-Do-Thái, gồm có chủ tịch Tối cao Pháp viện; Chủ tịch Hạ viện; các chủ tịch Ủy ban tài chánh Hạ viện và Ủy ban ngoại vụ Hạ viện; tổng thống tương lai William McKinley; thị trưởng các thành phố Baltimore, Boston, Chicago, New York, Philadelphia và Washington; chủ bút và chủ báo các nhật báo hàng đầu trên bờ Đông và Chicago; và hàng giáo phẩm rất đáng nể của các giáo phái như Episcopal, Methodist, Presbyterian và Công giáo. Các lãnh đạo doanh nghiệp tham gia kí bản kiến nghị gồm có Cyrus McCormick, John Rockefeller, và J.P. Morgan. Vào một thời điểm mà cộng đồng Do Thái tại Hoa Kì vừa không đủ lớn, vừa không đủ mạnh, và cả giới vận động hành lang cho Israel chưa hiện hữu, những thành phần nòng cốt của nhóm dân ngoại Do quyền thế trong xã hội Mĩ (the American gentile establishment) đã chính thức hậu thuẫn một nỗ lực ngoại giao của chính phủ Hoa Kì nhằm lập ra một quốc gia Do Thái trên địa bàn của Kinh thánh.
Có chung mười điều răn
Bất cứ một thảo luận nào về thái độ của Hoa Kì đối với Israel phải bắt đầu từ Kinh thánh. Qua nhiều thế kỷ, tư duy của người Mĩ đã được thấm sâu trong Kinh điển Hêbrơ. Ảnh hưởng này có xuất xứ từ việc tái phát hiện Kinh thánh Cựu ước trong thời kì Cải cách (the Reformation), được tăng cường do việc triển khai lí thuyết thần học Calvin [9] (một tín lí nhấn mạnh sự liên lũy giữa những sự sắp đặt tiền định trong thế gian, thời xưa và ngày nay, do hồng ân Thiên Chúa), và được làm sống động hơn lên do những tương đồng lịch sử giữa những trải nghiệm hiện đại của người Mĩ và những gì mà người Hêbrơ cổ đại đã kinh qua. Do đó, ngôn ngữ, các gương anh hùng và tư tưởng Cựu ước luôn thấm sâu vào tâm thức người Mĩ.
Qua một thời gian dài ở giai đoạn đầu của lịch sử Hoa Kì, việc giảng dạy tiếng Hêbrơ của kinh thánh là điều cưỡng bách ở các đại học Columbia, Dartmouth, Harvard, Princeton và Yale. James Madison hoàn tất chương trình học tại Princeton trong vòng hai năm, nhưng ở nán thêm một năm nữa để học tiếng Hêbrơ. Nhiều giáo sĩ và nhiều tác giả thời Thuộc địa không ngớt mô tả nước Mĩ là một Ca-na-an mới, “một miền đất tràn trề sữa và mật”, đồng thời nhắc nhở thính, độc giả của mình rằng cũng như người Hêbrơ đánh mất phước lành khi họ xúc phạm Thiên Chúa, người Mĩ cũng sẽ chịu khổ nạn nếu họ không chịu nghe theo vị Thượng Đế đã dẫn dắt họ vào miền đất hứa. Cho đến ngày nay, những điển cố Cựu Ước vẫn còn thấm đẩm các bài viết cũng như diễn văn chính trị, và thậm chí trong cả địa lí nữa– hơn một ngàn thành phố lớn, nhỏ tại Hoa Kì có tên lấy từ Kinh thánh.
Biểu hiện có tính tôn giáo sống động nhất nói lên tầm quan trọng của Kinh thánh Cựu ước trong văn hoá Mĩ ngày nay là sự trỗi dậy của thuyết nói về mệnh trời trước ngày tận thế (premillennial dispensationalism), đây là một lối diễn giải những điều tiên tri trong kinh thánh, một lý thuyết mang lại trọng lượng đặc biệt cho các ý niệm tôn giáo trong Cựu ước như khoa thần học giao ước (covenant theology) [10] , và dành vai trò quyết định lịch sử tương lai cho quốc gia Do Thái, một quốc gia được phục hồi (với thủ đô là Jerusalem). Khoảng chừng 7 phần trăm dân Mĩ tỏ ra có lập trường thần học này (nghĩa là nhóm này đông gần gấp 4 lần cộng đồng Do Thái tại Mĩ), đồng thời không ít thì nhiều một số đông hơn đáng kể chịu ảnh hưởng của khuynh hướng này. Những người đề xuất quan điểm này thường (dù không luôn luôn) chia sẻ quan điểm của một số người Do Thái chính thống, rằng người Do Thái phải đòi cho bằng được một quốc gia bao gồm tất cả phần lãnh thổ mà người Hêbrơ từng được Thiên Chúa hứa hẹn; họ chống lại bất cứ một khoan nhượng lảnh thổ nào với người Pa-lét-tin và họ hậu thuẫn các khu định cư Do Thái ở bờ Tây sông Jordan. Tuy nhiên, đây vẫn là một quan điểm của thiểu số, ngay cả dưới con mắt những người ủng hộ Israel tại Mĩ.
Trái lại, chủ nghĩa Xi-ôn-nít Ki-tô giáo tiến bộ liên quan nhiều với đức lí Ki-tô giáo, hơn là dựa vào lời của các ngôn sứ. Phần lớn chủ nghĩa này có gốc rễ trong mặc cảm tội lỗi và trong ý thức rằng sự bạc đãi của người Ki-tô giáo đối với người Do Thái trong quá khứ hiện đang cản trở người Do Thái chấp nhận Ki-tô giáo. Hơn một ngàn năm, người Do Thái ở châu Âu đã chịu đựng những hành động tàn ác phi thường và lắm khi không ngôn từ nào diễn tả được do bàn tay của người Ki-tô giáo châu Âu. Mặc dù một số tín đồ Tin Lành Mĩ có thời đã kéo dài lịch sử thiếu độ lượng và bài Do Thái này, nhưng từ thế kỉ 19 trở về sau nhiều tín đồ Tin Lành phóng khoáng Mĩ đã coi việc từ bỏ quá khứ này như một trong những nhiệm vụ xác định tính chất của một giáo hội Mĩ cải cách và giác ngộ. Những tín đồ Tin Lành này có thể (và đã thoải mái) chỉ trích chủ nghĩa bài Do Thái của Công giáo La Mã, gọi đây là một hậu quả do những thối nát đáng tiếc dưới chế độ giáo hoàng; nhưng người ta cũng không dễ gì bỏ qua những hành động và những tuyên truyền bài bác Do Thái do chính những nhà cải cách tôn giáo như [người sáng lập đạo Tin Lành] Martin Luther. Nhiều thành viên trong các giáo phái Tin Lành cởi mở Mĩ đã coi mình có nhiệm vụ thiêng liêng là phải hoàn tất sự nghiệp của thời Cải cách (the Reformation) bằng cách tẩy sạch Ki-tô giáo khỏi những tàn tích “trung cổ” như mê tín, thiên kiến, và chủ nghĩa bài Do Thái. Việc sám hối những tội lỗi quá khứ bằng cách bênh vực người Do Thái đã và đang là một thể nghiệm đức tin quan trọng đối với nhiều (mặc dù hẵn nhiên không phải đối với tất cả) tín đồ Tin Lành Mĩ.
Tương phản với thái độ thân Do Thái, đa số tín đồ Ki-tô giáo Mĩ ít khi hoặc không hề có cảm thức tội lỗi nào về những lối ứng xử trong lịch sử của cộng đoàn mình đối với thế giới Hồi giáo. Nhiều tín đồ Hồi giáo coi cuộc xung đột Ki tô giáo-Hồi giáo kéo dài hơn một ngàn năm qua là một hiện tượng liên tục và tương đối thuần nhất, nhưng tín đồ Tin Lành Mĩ lại không nhìn nhận như vậy. Chẳng hạn, họ thường chê trách những tàn bạo của các cuộc Thập tự chiến (the Crusades) và chỉ trích quan niệm thánh chiến, nhưng họ lại coi đây là những sai lầm của Công giáo La mã chứ không phải của Ki-tô giáo nói chung. Và dẫu sao, họ coi những cuộc Thập tự chiến ấy như đã lùi sâu vào dĩ vãng và âu cũng là phản ứng trả đũa sự xâm lấn trước đó của người Hồi giáo. Họ cũng thường phê phán sự bóc lột thuộc địa của các cường quốc châu Âu trong các thế kỉ vừa qua, nhưng họ lại coi những khai thác bóc lột đó là do tham vọng đế quốc của Cựu thế giới chứ không do Ki-tô giáo gây ra và vì thế đó là điều họ không chịu trách nhiệm. (Một biệt lệ quan trọng đáng được nhắc đến: Nhiều nhà truyền giáo Mĩ hoạt động tích cực ở Trung Đông đã tạo được quan hệ sâu đậm với người Ả-rập trong vùng và đã hậu thuẫn mạnh mẽ cho chủ nghĩa dân tộc Ả-rập, vừa vì họ không ưa thích chủ nghĩa thực dân châu Âu vừa vì họ hi vọng một phong trào dân tộc có tính thế tục sẽ cải thiện vị thế của các Ki-tô hữu Ả-rập. Cộng đồng truyền giáo này vừa góp phần phát triển đội ngũ giới chức quan tâm đến quyền lợi Ả-rập trong Bộ Ngoại giao Mĩ vừa giúp tạo ra phản ứng khá dữ dội trong nhiều giáo phái Tin Lành chính mạch chống lại các chính sách của Israel trong vùng lãnh thổ bị chiếm đóng sau cuộc chiến 1967.)
Khoảng trước năm 1948, nhiều tín đồ Ki-tô giáo Mĩ cảm thấy một gánh nặng lương tâm về món nợ và nghĩa vụ lịch sử đối với người Do Thái, nhưng họ không hề cảm thấy điều này đối với người Á rập. Có chăng là, họ chỉ nghĩ rằng thế giới Hồi giáo phải chịu mang ơn các nhà truyền giáo Hoa Kì đã xây dựng nhiều đại học và bệnh viện hàng đầu tại Trung Đông và rằng chính sự hậu thuẫn của người Ki-tô giáo Mĩ trước và sau Thế chiến II đã góp phần thúc đẩy sự trổi dậy của các quốc gia Á rập và Hồi giáo độc lập, một phong trào đang diễn tiến lúc bấy giờ.
Những người bà con do Chúa chọn
Ý thức về bản sắc riêng biệt và sứ mệnh của Hoa Kì được bồi đắp qua quá trình tiếp thu sử sách và tư tưởng Hêbrơ. Nhà văn Mĩ Herman Merville đã diễn tả quan điểm này như sau: “Người Mĩ chúng ta là nhân dân đặc biệt, được Chúa chọn – là nước Israel thời đại mới; chúng ta gánh lấy chiếc thuyền Nô-ê chứa đầy các quyền tự do trên thế giới.” Từ thời đại của những người Thanh giáo (Puritans) cho đến ngày nay, nhiều giáo sĩ, nhà tư tưởng và chính khách tại Hoa Kì – thế tục cũng như tôn giáo, phóng khoáng cũng như bảo thủ – vẫn coi người Mĩ là một khối nhân dân do Chúa chọn, ràng buột với nhau theo huyết thống thì ít nhưng theo một hệ thống tín lí và một định mệnh chung thì nhiều. Nhiều người Mĩ vẫn còn tin tưởng rằng Thiên Chúa (hay lịch sử) đã đưa họ đi vào một vùng đất mới và làm cho họ trở thành vĩ đại, giàu có, và rằng sự phồn vinh bền vững của họ sẽ tùy thuộc vào việc họ chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa hay theo đúng những nguyên tắc đạo lí đã mang lại ơn phước cho họ từ trước tới nay. Nếu họ sao lãng những nguyên tắc này – như khi người Do Thái quay ra sùng bái con bò bằng vàng lúc Mô-se vắng mặt – thì tai họa sẽ giáng xuống trên đầu họ.
Cả người Mĩ mộ đạo lẫn người Mĩ thế tục đều hướng tới Kinh thánh Hêbrơ để tìm ra một tấm gương của một dân tộc có tính đặc thù nhờ sứ mệnh riêng và được ơn kêu gọi gánh vác một định mệnh là làm thay đổi thế giới. Phải chăng đất đai người Mĩ đang cư ngụ đã có thời thuộc về người khác? Vâng đúng vậy, nhưng trong một cách thế tương tự, người Hêbrơ đã từng chiếm đất của người Ca-na-an. Phải chăng các thuộc địa bé nhỏ tại Mĩ chỉ được trang bị bằng sức mạnh công lí của chính nghĩa mà đã đánh thắng một đế quốc vĩ đại nhất thế giới? Vâng, cũng giống như David, cậu bé chăn cừu khiêm tốn, đã quật ngã người khổng lồ Goliath. [11] Phải chăng người Mĩ vào thế kỉ 19 từng bị cô lập và bị nhạo báng vì những lí tưởng dân chủ của mình? Vâng, trong hoàn cảnh tương tự, người Hêbrơ cũng bị các sắc dân thờ bái thần tượng bao vây. Phải chăng người Mĩ đã từng đánh thắng giặc trong, thù ngoài? Vâng, theo Kinh thánh, người Hêbrơ cũng từng chiến thắng như vậy. Phải chăng vì vi phạm chính những tín lí của mình khi cầm giữ hàng triệu nô lệ, người Mĩ đã bị trừng phạt và hứng chịu nhiều tai hoạ? Vâng, rất giống như người Hêbrơ, một dân tộc đã hứng chịu hậu quả của tội lỗi mình trước mặt Thiên Chúa.
Nhận thức đầy huyền thoại này về bản chất và định mệnh nước Mĩ là một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ và bền bỉ nhất trong văn hóa và tư tưởng Hoa Kì. Như người Hêbrơ cổ đại từng tin tưởng, nhiều người Mĩ ngày nay cũng tin tưởng rằng họ mang một mặc khải, nhiên hậu không những cho chính họ mà cho toàn thế giới; họ thường tự coi mình là nước Israel mới của Thiên Chúa. Một trong những hậu quả của việc nhìn họ hàng (presumed kinship) này là nhiều người Mĩ cho rằng việc một dân tộc được Chúa chọn (chosen people) này hậu thuẫn cho một một dân tộc được Chúa chọn khác là điều vừa hợp lẽ phải vừa chính đáng. Họ không cảm thấy áy náy khi sự hậu thuẫn của Hoa Kì dành cho Israel, một dân tộc và một quốc gia thường bị nhiều nước cô lập và khai trừ, làm cho Hoa Kì bị ghét lây hoặc gây ra nhiều vấn đề khác. Việc Hoa Kì nhận lãnh vai trò của một kẻ che chở cho Israel và một người bạn của người Do Thái là một cách hợp thức hóa địa vị riêng của một quốc gia được Thiên Chúa giao cho một định mệnh độc đáo.
Hơn thế nữa, từ thế kỉ 19, Hoa Kì đã tự coi mình là đại lí được Thiên Chúa chọn ra để bảo vệ và cứu chuộc dân tộc Do Thái. Người Mĩ từng tin rằng người Do Thái sẽ vươn lên từ thân phận đọa đày khi họ rời bỏ những khu ổ chuột trong thành phố để về sống ở các vùng thôn quê – y như những người di dân đến Mĩ từ khắp châu Âu đã xây dựng được cuộc sống tốt đẹp hơn và nhân cách vững vàng hơn khi họ trở thành những nông dân theo mô hình kinh tế nông nghiệp Jefferson (Jeffersonian farmers) [12] . Những tín đồ Ki-tô giáo cởi mở như [tổng thống] Adams tin tưởng rằng tiến trình này sẽ kịp thời đưa người Do Thái đến với ánh sáng của giáo phái Tin Lành khai phóng, nằm trong nỗ lực là thăng tiến toàn thể nhân loại. Còn những người theo chủ nghĩa Xi-ôn-nit tiên tri (prophetic Zionism) thì hi vọng rằng việc hàng loạt người Do Thái cải sang Ki-tô giáo hồi sinh (revivalist Christianity) sẽ nhanh chóng chuyển sang giai đoạn khải huyền [tận thế] cùng với sự trở lại thế gian của đức Ki-tô. Bằng cách này hoặc bằng cách khác, vai trò đặc biệt của Hoa Kì trong việc phục hồi nhân phẩm và chỗ đứng của người Do Thái đã thể hiện những kì vọng của dân ngoại Do Mĩ về sự chuyển động của lịch sử và khẳng định niềm tin tưởng của họ về bản sắc và sứ mệnh của Hiệp Chúng Quốc.
Những quốc gia thực dân
Hiệp Chúng Quốc và Israel còn có chung một tình trạng là “quốc gia thực dân”–những nước được thành lập bởi các dân tộc đã giành quyền kiểm soát lãnh thổ cho riêng mình sau khi trục xuất các dân tộc bản địa. Cả hai quốc gia được nhào nặn mạnh mẽ bởi một lịch sử xung đột và đối đầu với những sắc dân bị họ trục xuất, và cả hai đều tìm lí lẽ biện minh cho hành vi của mình từ những nguồn đạo lí tương tự. Cả người Mĩ lẫn người Israel chủ yếu tìm sự biện minh từ Kinh thánh Cựu ước, trong đó có những trang sách thiêng liêng kể lại tích truyện về sự xung đột giữa người Hêbrơ cổ đại và người Ca-na-an, cư dân trước đó của phần lãnh thổ mà người Hêbrơ tin tưởng là Đất Hứa của họ. Người Mĩ tìm thấy nhiều hấp dẫn trong quan niệm cho rằng họ là quốc gia Israel mới của Thiên Chúa một phần cũng vì quan niệm này biện minh cho việc họ đã trục xuất và giành đất của người Mĩ bản địa [dân da đỏ]. Như Theodore Roosevelt đã viết trong cuốn lịch sử miền Tây Hoa Kì, đương thời được liệt là sách bán chạy nhất: “Nhiều người trong những công dân xuất sắc ở vùng sâu vùng xa là những người ham đọc Kinh Thánh, nhưng họ được nuôi dưỡng theo một đức tin phần lớn được rao giảng trong Cựu ước, một đức tin không coi trọng lòng thương hại, sự thật, hay từ bi. Họ nhìn kẻ thù của mình theo cách những ngôn sứ Hêbrơ đã nhìn kẻ thù của Israel. Những hành vi ghê tởm đã khiến cho người Ca-na-an bị tiêu diệt trước mắt Joshua [13] đâu có nghiã lí gì nếu đem so với những sự hèn hạ của bọn mọi da đỏ khiến người Mĩ, cũng là một giống dân Chúa chọn, đến phiên mình có bổn phận phải thừa hưởng đất đai của chúng.” (Bản thân Roosevelt, cũng như những người em họ Franklin và Eleanor, là một người Ki-tô giáo theo chủ nghĩa Xi-ôn-nít. “Đối với tôi, việc khởi sự thành lập một quốc gia Xi-ôn-nit chung quanh Jerusalem là hoàn toàn thích đáng”, Roosevelt viết như thế năm 1918.)
Ngoài một lời hứa hẹn trực tiếp từ Thiên Chúa, hai biện minh quan trọng mà người Mĩ đưa ra trong những cuộc tranh chấp lãnh thổ với người Mĩ bản địa là quan niệm cho rằng họ chỉ bành trướng vào “những vùng đất hoang vu” và lí thuyết liên hệ của John Locke về “việc sử dụng tài sản công bằng hợp lí”, theo đó một tài sản không có người dùng là một sự phí phạm và là một xúc phạm đối với thiên nhiên. Những người đến lập nghiệp ở Mĩ cho rằng chỉ những ai có thể cải thiện đất đai, bằng cách thiết lập san sát trên đó nhiều nông trại rộng lớn và xây dựng trên đó nhiều phố thị, mới có thực quyền làm chủ đất đai ấy. Từ năm 1802 [tổng thống tương lai] John Quincy Adams đã bênh vực cho luận điểm này: “Liệu [người da đỏ] dám bắt cả một vùng đất bao la của địa cầu phải chịu đời đời hoang phế hay sao…? Còn Thomas Jefferson thì cảnh báo rằng những người Mĩ bản địa nào không chịu học hỏi người da trắng, không đi vào con đường canh tác sản xuất thì phải chịu số phận đen tối. Họ sẽ “thoái hoá trở lại tình trạng man rợ khốn cùng, sẽ hao hụt dân số vì chiến tranh và thiếu đói; khi đó chúng ta buột lòng phải xua đuổi họ, cùng với loài dã thú trong rừng, vào vùng núi đá.”
Suốt phần lớn lịch sử Hoa Kì, những quan điểm như thế có âm hưởng lớn không những đối với dân vùng sâu vùng xa mà còn đối với cả những công dân lịch lãm và phóng khoáng. Những luận cứ này mang một ý nghĩa đặc biệt khi bàn đến Đất thánh. Trong khi người Mĩ mộ đạo miệt mài chiêm nghiệm những huy hoàng của thành Jerusalem cổ đại và Đền Solomon [14] , họ đã vẽ lên trong tâm trí mình một miền đất phì nhiêu hoành tráng – “một quê hương tràn trề sữa tươi và mật ngọt”, như Kinh thánh mô tả. Nhưng vào khoảng đầu thế kỉ 19, khi hàng chục người đầu tiên, rồi đến hàng trăm người, và cuối cùng hàng ngàn người đi hành hương Đất thánh – đồng thời thêm hàng triệu người đổ xô đến dự những buổi thuyết trình để nghe tường thuật những chuyến đi này – người ta mới vỡ lẽ rằng chẳng có chi đáng gọi là sửa tươi và mật ngọt; Palestine lúc bấy giờ chỉ là một trong những tỉnh nghèo nàn nhất, lạc hậu nhất, tả tơi nhất của Đế quốc Ottoman. Trước mắt người Mĩ, những sườn đồi và những cánh đồng sỏi đá của vùng Judea trông rất thê lương, trống trải – khiến nhiều người tin rằng Thiên Chúa đã rủa sả vùng đất này khi ngài đày dân Do Thái vào cuộc lưu vong thứ hai, một cuộc lưu vong mà họ cho là hình phạt người Do Thái phải gánh chịu vì không chịu nhìn nhận đức Ki-tô là đấng Cứu thế. Và vì thế, nhiều người Mĩ tin tưởng, người Do Thái thuộc về Đất thánh và Đất thánh phải thuộc về người Do Thái. Người Do Thái sẽ không bao giờ cất đầu lên được bao lâu mà họ chưa về lại quê nhà, chưa được tự do, và đất thánh sẽ không bao giờ đâm bông kết trái bao lâu mà những người chủ chân chính của nó chưa trở về.
Ngôn sứ Isaiah đã mô tả cuộc hồi hương tương lai của dân Do Thái là hồng ân Thiên Chúa mang nước tưới lên sa mạc. Và nhiều người Mĩ đang chứng kiến mầu mỡ của vùng đất này được phục hồi dưới bàn tay canh tác của những người Xi-ôn-nít đầu tiên mới về lập nghiệp, họ chứng kiến với tất cả cảm giác ngỡ ngàng là những điều tiên tri trong kinh thánh đang trở thành hiện thực ngay trước mắt mình. “Những suối nguồn trong sức mạnh thực dân Do Thái, được nuôi dưỡng hào phóng bằng đồng tiền của cộng đồng Do Thái trên toàn thế giới, đang tuôn chảy tràn trề lên sa mạc”, tạp chí Time đã viết như thế vào năm 1946, vang vọng ngôn ngữ của Tiên tri Isaiah. Hai năm sau, tiếp theo thắng lợi của Do Thái trong cuộc chiến 1948, báo Time lại mô tả dân Ả-rập bằng những từ ngữ khiến người đọc ngày nay phải giật mình nhưng vào thời đó nó tiêu biểu cho cảm thức thông thường của người Mĩ: “Thế giới phương Tây thường coi người Ả-rập như một chinh nhân có đôi mắt diều hâu ngồi trên lưng ngựa trắng. Chàng Ả-rập ấy vẫn còn lẫn khuất đâu đó, nhưng chàng thuộc về một thiểu số quá nhỏ nhoi so với hạng khốn khó, mang đủ thứ bệnh hoạn trong người, đang nằm lây lất trên những con lộ nóng, quá ốm yếu và bạc nhược tinh thần đến độ không còn sức để lăn vào bóng mát.” Người Mĩ chứng kiến một cuộc đọ sức giữa một dân tộc lạc hậu, yếu hèn và một dân tộc có khả năng lập nghiệp trên vùng đất hoang dã và làm cho nó đâm bông kết trái, đang thần kì thể hiện những lời tiên tri xa xưa về một quốc gia Do Thái.
Trước đó, một cách khá phổ biến, người Do Thái bị coi là khối dân đáng chê trách nhất ở đông Âu: dốt nát, sa đọa, mê tín, chia bè chia phái, hay gây gỗ, và lạc hậu hết thuốc chữa. Sự thể đám dân này, sau khi chịu đựng bao nhiêu dã man chưa từng có dưới sự đàn áp của Đức quốc xã, đã thiết lập được một chế độ dân chủ ổn định đầu tiên ở Trung Đông, xây dựng được một nền kinh tế thịnh vượng trong sa mạc và liên tục đánh bại những kẻ thù có đội quân lớn mạnh hơn mình nhiều lần, đối với nhiều người Mĩ là bằng chứng lịch sử hùng hồn về những lí tưởng tôn giáo mà họ ấp ủ sâu xa nhất.
Bước ngoặt hữu khuynh
Mặc dù sự hậu thuẫn của dân ngoại Do Mĩ dành cho Israel vẫn còn mạnh và thậm chí gia tăng kể từ Thế chiến II, nhưng tính chất của hậu thuẫn này đã thay đổi. Mãi cho đến Cuộc Chiến Sáu Ngày, phần lớn hậu thuẫn dành cho Israel đến từ giới chính trị tả khuynh và thường thì phe Dân chủ ủng hộ Israel mạnh hơn phe Cộng hòa. Các thần tượng phóng khoáng như Eleanor Roosevelt, Paul Tillich, Reinhold Niebuhr, và Martin Luther King, Jr., đều là những tiếng nói công khai hàng đầu kêu gọi Hoa Kì ủng hộ Israel. Nhưng kể từ 1967, hậu thuẫn của cánh tả dành cho Israel dần dần suy giảm trong khi hậu thuẫn của phe bảo thủ lại gia tăng.
Nhiều yếu tố khác nhau đã hội tụ lại trong thập niên 1940 để biến chủ nghĩa Xi-ôn-nít ngoại Do tiến bộ (progressive gentile Zionism) thành một thế lực mạnh trong sinh hoạt chính trị của Hoa Kì, nhất là bên cánh tả. Một là, cuộc tàn sát người Do Thái do bàn tay của Đức quốc xã trong Thế chiến II gây chấn động phi thường lên tín đồ Tin Lành Mĩ. Trước đó nước Đức đã có một thời cung ứng lãnh đạo tinh thần cho giáo hội Tin Lành Mĩ, và vì thế thái độ thụ động chấp nhận mà các hầu hết nhà thờ và mục sư Tin Lành Đức dành cho chế độ Quốc xã đã gây sốc đến tận cốt lõi cho toàn khối Tin Lành chính mạch tại Mĩ. Những tín đồ Tin Lành Đức chống chế độ Quốc xã đã trở thành những vị anh hùng đạo lí và thần học tại Hoa Kì thời hậu chiến, đồng thời thái độ chống đối chủ nghĩa bài Do Thái (anti-Semitism) trở thành một thử nghiệm then chốt mà các tín đồ Tin Lành chính mạch Mĩ dùng để đánh giá bản thân và các nhà lãnh đạo. Cơn sốc sâu đậm này đã mạnh mẽ thúc đẩy họ hưởng ứng cứu trợ nhân đạo trước những phát hiện về các lò sát sinh và các cuộc tàn sát tập thể. Nỗi thống khổ của người Do Thái tị nạn, vừa li tán vừa đói nghèo trong một châu Âu hỗn loạn thời hậu chiến, đã khiến điều sau đây trở thành tất yếu: tín đồ Tin Lành Mĩ, sau một thế kỉ vận động đòi quyền sống cho dân Do Thái, sẽ nhiệt tình hậu thuẫn những bước phát triển mà họ cho là có thể đảm bảo an toàn cho người Do Thái châu Âu.
Yếu tố thứ hai là hậu thuẫn mạnh mẽ của người Mĩ gốc châu Phi (African Americans) dành cho người Do Thái vào một thời điểm mà dân da đen bắt đầu đóng một vai trò to lớn hơn trong sinh hoạt chính trị tuyển cử của Hoa Kì. Suốt thập niên 1930, báo chí của người Mĩ gốc châu Phi đã chăm chú theo dõi việc Hitler áp đặt những chính sách phân biệt chủng tộc. Các lãnh đạo Mĩ gốc châu Phi không để lỡ cơ hội vạch ra những điểm tương đồng giữa việc Hitler đối xử với người Do Thái và những luật phân chủng Jim Crow áp dụng tại miền nam Hoa Kì. [15] Đối với nhiều người Mĩ gốc châu Phi, bằng kinh nghiệm bản thân hằng ngày, họ cảm nhận một cách sống động, hiện thực, cảnh đàn áp mà người Do Thái phải chịu đựng. Sự đàn áp này cũng cung ứng cho họ những luận điểm quan trọng để thuyết phục người da trắng rằng kì thị chủng tộc là vi phạm những nguyên tắc đạo lí của Mĩ và vì thế sự đàn áp người Do Thái ở châu Âu đã đưa đến việc xây dựng một liên minh vững mạnh giữa người Do Thái tại Mĩ và phong trào dân quyền [của người da màu], một liên minh tồn tại từ năm 1945 đến cuối đời Martin Luther King. Ngay cả trong Thế chiến II, các nhà tranh đấu da đen W.E.B. Du Bois, Zora Neale Hurston, Langston Hughes, và Philip Randolph đã ủng hộ tiền thân (precursor) của đảng Likud trong nỗ lực thành lập một quân đội DoThái. Nhà lãnh đạo dân quyền Adam Clayton Powell, Jr., còn đi xa hơn, quyên góp đến 150.000 đôla cho tổ chức Xi-ôn-nit chủ chiến Irgun Zvai Leumi – mà ông gọi là “một tổ chức khủng bố bí mật tại Palestine” – trong một cuộc mit-ting tại Thành phố New York.
Sự ủng hộ của Liên Xô đối với một quốc gia Israel độc lập cũng giúp phần nào. Ở Yalta, Joseph Stalin đã nói với Franklin Roosevelt rằng bản thân ông ta cũng là một người Xi-ôn-nit. Vào tháng Năm 1947, Bộ trưởng Ngoại giao Xô-viết Andrei Gromyko tuyên bố trước Liên hiệp quốc rằng Liên xô ủng hộ việc thành lập một quốc gia Do Thái. Hậu thuẫn này, dù có ngắn ngủi chăng nữa, đã củng cố quan điểm của nhiều người Mĩ bên cánh tả, rằng việc thành lập một quê hương cho người Do Thái là một phần của cuộc đấu tranh chung cho tiến bộ trên toàn thế giới. Thật ra, trong những thập niên sau thế chiến, nhiều người Mĩ phóng khoáng (American liberals) đã coi việc hậu thuẫn Israel là một phần đóng góp của họ cho chế độ tự do, cho phong trào giải thực (vì người Do Thái ở Palestine cũng đang đòi độc lập bất chấp sự phản đối của Anh Quốc), cho cuộc đấu tranh chống kì thị chủng tộc và tôn giáo, cho chủ nghĩa thế tục, cho chủ nghĩa nhân đạo, và cho truyền thống tiến bộ trong sinh hoạt chính trị của Hoa Kì. Lúc bấy giờ trong mắt của nhiều người, nước Israel xuất hiện như một thí nghiệm thế tục đầy tính lí tưởng của chế độ dân chủ xã hội (social democracy). Cả người Do Thái Mĩ cũng như người dân ngoại Do Mĩ cùng nhau sang tận Israel để thể nghiệm cuộc sống hân hoan, tham gia lao động và sinh hoạt tập thể tại những trang trại công (kibbutz) của các khu định cư. Vì thế, vào năm 1948, khi Truman quyết định hậu thuẫn việc thành lập nước Israel, ông ta không chỉ nghĩ đến lá phiếu của người Do Thái mà thôi. Hậu thuẫn mà Hoa Kì dành cho Israel cũng được lòng người dân da đen miền Bắc, những người được thu hút đến với đảng Dân Chủ nhờ chính sách New Deal [16] và việc Truman từng bước tiến đến hậu thuẫn cho dân quyền. Sự hậu thuẫn cho nước Israel cũng giúp Truman tranh thủ được nhiều cử tri cánh tả, những người mà nếu không vì lợi ích của Israel có thể đã ủng hộ Henry Wallace và đảng Tiến bộ. Ngọn cờ hậu thuẫn Israel cũng giúp Truman giành phiếu của cử tri miền nam bảo thủ, những cử tri đi nhà thờ, đọc kinh thánh, và nhờ thế tăng cường khả năng chống lại ảnh hưởng của cánh Dân chủ miền nam (Dixiecrats) của Strom Thurmond. Quả thật, hậu thuẫn dành cho Israel là một trong những chủ điểm hiếm hoi còn lại để giữ được liên minh vốn đã bị nức rạn của đảng Dân chủ.
Tuy nhiên, kể từ cuộc chiến 1967, cơ sở của sự ủng hộ dành cho Israel tại Hoa Kì đã chuyển dịch: hậu thuẫn cho Israel có khuynh hướng giảm dần bên cánh tả và gia tăng bên cánh hữu. Bên cánh tả, sự bất mãn đều khắp đối với những chính sách của Israel trong các vùng đất bị chiếm đóng cùng với mối quan tâm ngày một giảm đối với an ninh của nước này, theo sau thắng lợi của nó trong cuộc chiến, đã khiến nhiều người Mĩ gốc châu Phi, nhiều tín đồ Tin Lành chính mạch, nhiều trí thức phóng khoáng, những người một thời từng là đồng minh vững chắc của Israel tại Mĩ, chuyển sang ngày càng có cảm tình với quan điểm của người Pa-let-tin. Ngoài ra, sự đồng cảm ngày một gia tăng của người da đen đối với các phong trào chống thực dân khắp thế giới, sự hao mòn của liên minh da đen-Do Thái trong chính trị nội bộ Mĩ, và thanh thế đang lên của các nhân vật như Malcolm X và các lãnh đạo của tổ chức Nước Hồi Giáo (Nation of Islam) cũng dần dần làm suy giảm sự hậu thuẫn của dân Mĩ gốc châu Phi dành cho Israel. Về phần mình, những giáo phái Tin Lành cởi mở bắt đầu tiếp thu quan điểm của những nhà truyền giáo có thiện cảm với chủ nghĩa dân tộc Ả-rập; đồng thời, khi các giáo phái chính mạch càng ngày càng chỉ trích những quan niệm truyền thống Mĩ về bản sắc và định mệnh quốc gia của Hoa Kì, những tín đồ cởi mở này cũng tránh xa lối tiếp cận Cựu ước truyền thống. (Mặc khác, quan hệ giữa người Công giáo Mĩ và người Do Thái bắt đầu cải thiện sau cuộc chiến 1967, chủ yếu nhờ cách tiếp cận với người Do Thái theo quan điểm thần học mới của Giáo hội Công giáo kể từ Công đồng Va-ti-ca-nô II. [17] )
Bên cánh hữu, thay đổi nổi bật nhất kể từ 1967 là sự gia tăng đột biến hậu thuẫn dành cho Israel trong giới Ki-tô giáo Tin Lành (evangelical Christians)[18] và, tổng quát hơn, trong hàng ngũ những thành phần mà tôi từng gọi là cử tri “có tính chất Andrew Jackson [19] ” (Jacksonians) ở vùng đại bình nguyên giữa bờ Đông và bờ Tây nước Mĩ. Jacksonians là những cử tri bình dân-quốc gia chủ nghĩa [20] (populist-nationalist), họ ủng hộ một quân đội hùng mạnh và thông thường không mấy tin tưởng các tổ chức quốc tế và viện trợ nhân đạo toàn cầu. Không phải tất cả mọi tín đồ Tin Lành đều là Jacksonians, và không phải tất cả Jacksonians đều là người Tin Lành, nhưng có một số người nhất định thuộc về cả hai nhóm cử tri này. Nhiều người da trắng miền nam làJacksonians; nhiều cử tri không kiên định lập trường đảng phái ở miền Bắc, còn gọi là những người Dân chủ ủng hộ Reagan (Reagan Democrats), cũng làJacksonians.
Nhiều Jacksonians đã có định kiến tiêu cực về người Ả-rập từ thời Chiến tranh lạnh. Họ nhận thấy, dân Pa-lét-tin và các quốc gia Ả-rập thường đứng về phía Liên xô và Phong trào phi-liên kết để chống lại Hoa Kì. Người Ai-Cập đáp lại hậu thuẫn của Hoa Kì trong vụ khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956 bằng cách quay sang phía Xô-viết để mua vũ khí và tìm hậu thuẫn, đồng thời chuyên viên Xô-viết và vũ khí Xô-viết đã giúp các đội quân Á-râp chuẩn bị các cuộc chiến chống Israel. Các Jacksonians có khuynh hướng nhìn các biến động quốc tế theo lăng kính độc đáo của mình. Cùng với các biến động diễn ra ở Trung Đông từ năm 1967, họ ngày càng có nhiều cảm tình với Israel ngay cả khi nhiều thành phần khác của xã hội Mĩ – và thêm nhiều người nữa ở những vùng khác trên thế giới – ngày càng mất đi cảm tình đối với Israel. Cuộc Chiến Sáu Ngày (the Six-Day War) đã nhen nhúm lại mối quan tâm của những người Xi-ôn-nit tiên tri đối với Israel và, theo cách nhìn của nhiều Jacksonians, cuộc chiến này đã tăng cường những quan hệ sâu sắc giữa Israel và Hoa Kì. Sau thời Chiến tranh lạnh, những người Jacksonian nhận thấy rằng những quốc gia thù nghịch của Mĩ ở trong vùng, như Iraq và Iran, đồng thời cũng là những kẻ thù hung hăng nhất của Israel.
Những người Jacksonian chiêm ngưỡng chiến công và chiến thắng hoàn toàn là chiến công đẹp nhất. Chiến thắng hoàn toàn, với sức mạnh áp đảo của các binh chủng Israel năm 1967 trước kẻ thù có quân số lớn hơn đến từ ba nước khác nhau là điều mà Jacksonians rất mơ ước – nhất là vào một thời điểm mà khả năng chiến đấu yếu kém của Hoa Kì tại Việt Nam đã khiến nhiềuJacksonians đâm ra bi quan về tương lai của quốc gia mình. Kể từ đó, chính một số hành động quân sự đã làm tổn thương uy tín của Israel đối với hầu hết các nước trên thế giới – chẳng hạn những phản ứng quá đáng đối với quân khủng bố Pa-let-tin – lại gia tăng hậu thuẫn cho quốc gia này từ phíaJacksonians.
Đôi khi chỉ vài đạn pháo từ dải Gaza bắn vào lãnh thổ Israel, quân đội Israel lại phản ứng bằng một hoả lực mạnh hơn, gây nhiều đổ nác và nhiều thương vong hơn. Trong con mắt của phần lớn thế giới, đây là sự trả đũa quá đáng, một vi phạm tương đương hay thậm chí nghiêm trọng hơn cuộc tấn công của kẻ gân hấn. Thế nhưng, Jacksonians coi mỗi loạt pháo kích của người Pa-lét-tin nhắm vào các mục tiêu ở Israel là một hành động khủng bố và họ cho rằng người Israel có toàn quyền, thậm chí có nghĩa vụ, trả đũa bằng tất cả sức mạnh có thể huy động được. Kể từ thập niên 1950, cứ mỗi lần quân đặc công Palestine lẻn qua đường ngưng bắn để tấn công các khu định cư của Israel, nhiều người Pa-lét-tin và người Ả-rập lại biện minh rằng những cuộc đột nhập này là hành động rất can đảm mặc dù phải đối đầu với một hoả lực dữ dội, trấn áp. Nhưng những vụ đột kích nhắm vào các mục tiêu dân sự, và nhất là các vụ tấn công dùng bom tự sát, lại vi phạm các nguyên tắc Jacksonian cơ bản về phương thức tiến hành một cuộc chiến văn minh. Những ngườiJacksonian cho rằng chỉ có một sự trả đủa trấn ác và triệt để chống lại các chiến thuật như thế mới chận đứng việc đặc công đánh phá thêm nữa. Đây là cách người Mĩ sống ở vùng biên đã đối phó với người da đỏ, là cách mà tướng Liên bang [miền Bắc] William Sherman “đã dạy một bài học” cho quân dân miền Nam trong Nội chiến Mĩ, và cũng là cách tướng Douglas MacArthur và Truman đã trả lại cho người Nhật món nợ Pearl Harbor. Những ngườiJacksonian thực tình không hiểu được vì sao thế giới lại chỉ trích Israel vì đã hành sử điều mà họ cho là quyền tự vệ không khoan nhượng – vì đã làm đúng những điều mà chính họ cũng phải làm nếu ở vào vị trí của Israel.
Theo quan điểm của người Pa-lét-tin và những người hậu thuẫn họ, người Pa-lét-tin – bị lưu vong, bị cho ra rìa, bị chiếm đóng, bị chia rẽ – là những người yếu thế nhưng anh hùng, dám đương đầu với một siêu cường trong vùng, mà siêu cường này lại được hậu thuẫn của một nước mạnh nhất thế giới. Nhưng theo quan điểm Jacksonian, Israel, dù với tất cả sức mạnh và chiến công của mình, vẫn chỉ là cậu bé David đang lâm nguy, “tứ bề thọ địch”. Sự thể người Ả-rập và toàn thể cộng đồng gồm một tỉ tín đồ Hồi giáo hậu thuẫn chính nghĩa của người Pa-lét-tin, chí ít bằng khẩu hiệu, đã khiến những người Jacksoniancàng tin thêm rằng Israel là một nước nhỏ bé và đang lâm nguy, đáng được giúp đỡ. Bẽ bàng là, một số thành công quân sự chính trị to lớn nhất của phong trào Pa-let-tin – như triển khai một cuộc kháng chiến võ trang năng động, giành được hậu thuẫn (phần lớn chỉ là khẩu khí) từ các tổ chức như Liên minh Ả-rập và ngay cả Đại hội đồng Liên hiệp quốc, chuyển dịch cơ sở chính trị của cuộc kháng chiến Pa-let-tin từ chủ nghĩa dân tộc thế tục (secular nationalism) sang lãnh vực tôn giáo, và giành được hậu thuẫn của các nước mạnh trong vùng như Iraq dưới thời Saddam và Iran ngày nay – rốt cuộc mang lại hậu quả là những thành công này chỉ tăng cường cũng cố thêm sự hậu thuẫn của người dân ngoại Do Mĩ cho quốc gia Do Thái.
Tình huynh đệ Ki-tô giáo
Một yếu tố quan trọng khác dẫn đến việc người Mĩ gia tăng hậu thuẫn cho Israel là, kể từ 1967 một loạt phong trào gây lại niềm tin tôn giáo diễn ra đều khắp nước Mĩ, mang lại những hậu quả quan trọng trong thái độ của dân chúng đối với vùng Trung Đông. Một hậu quả là, trong khi các giáo phái Tin Lành chính mạch cởi mở chỉ trích Israel nhiều hơn, họ đánh mất luôn ảnh hưởng chính trị và xã hội của chính mình. Một hậu quả khác là, vai trò của chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri (prophetic Zionism) tăng lên đáng kể, với sự kiện tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống [21] Mĩ hiện nay quan tâm hơn bao giờ cả về những lời tiên tri trong kinh thánh và về vai trò của Israel trên quá trình dẫn đến sự khải huyền [tận thế].
Nhiều tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống đã không mấy quan tâm đến Israel sau cuộc chiến giành độc lập của nước này. Theo chỗ họ hiểu, những lời tiên tri trong kinh thánh rõ ràng dự kiến người Do Thái sẽ xây lại Ngôi đền trên vị trí cũ của nó; vì thế họ suy diễn, khi những vị trí thiêng liêng của Jerusalem vẫn còn nằm trong tay người Ả-rập, thì tiến trình dẫn đến ngày tận thế có vẻ đã chậm lại. Trong khi đó, nước Israel thế tục và gần như xã hội chủ nghĩa trong thập niên 1950 ít lôi cuốn người Ki-tô giáo bảo thủ hơn lôi cuốn người Ki-tô giáo cởi mở. Vì phải để mắt vào mối đe dọa cộng sản trong những năm cao điểm của Chiến tranh lạnh, tín đồ Ki-tô giáo Tin Lành và chính thống ít tích cực tham gia vào chính sách Mĩ ở Trung Đông như họ đã từng tham gia vào thế kỉ 19.
Cuộc chiến Sáu ngày đã thay đổi thái độ đó; nó là lực xúc tác cho phong trào phục hoạt phúc âm và tiếp sức cho chủ nghĩa Xi-ôn-nít tiên tri. Tính chớp nhoáng và tính quyết định của thắng lợi mà Israel đạt được là một phép lạ trong mắt của nhiều người Mĩ; Israel chiếm được Thành cổ (the Old City), điều này có nghĩa là vị trí của Ngôi đền đã về tay người Do Thái. Cảm thức ngày tận thế đang tới gần là một lực tác động mạnh mẽ cho làn sóng phục hoạt tôn giáo tại Mĩ, một phong trào được khởi động trong giai đoạn này. Kể từ đó đến nay, một loạt sách truyện thuộc loại bán chạy nhất, hư cấu cũng như phi-hư cấu, đã nhắm vào sở thích của hàng triệu người Mĩ trong khả năng là ngày tận thế đang triển khai tại Trung Đông, như đã được các ngôn sứ tiên tri trong Cựu ước và Tân ước.
Từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, thêm một lực tác động nữa đã tăng cường những quan hệ giữa quốc gia Israel và nhiều người Ki tô giáo bảo thủ của Mĩ. Khi cuộc phục hưng tôn giáo mang lại sức mạnh và sinh lực mới cho các giáo hội Tin Lành và chính thống, họ lại càng quan tâm nhiều hơn đến thế giới bên ngoài. Trong quá khứ những cuộc phục hưng tôn giáo như thế đã dẫn đến các cao trào truyền giáo đầy nhiệt tình và rất năng động; cuộc phục hưng tôn giáo hiện nay không khác bao nhiêu. Và khi người Ki-tô giáo Mĩ đã quan tâm nhiều hơn đến an sinh của Ki-tô hữu khắp thế giới, họ đã gặp phải địch thủ quan trọng nhất của Ki-tô giáo toàn cầu, đó là Hồi giáo, và họ bắt đầu nhận chân rằng tình cảnh của người Ki-tô giáo tại một số nước có đa số theo Hồi giáo không được khả quan cho lắm.
Mối quan tâm về người Ki-tô giáo bị bách hại khắp thế giới là nét đặc trưng trường kì của Ki-tô giáo, và điều này không phải chỉ riêng ở Mĩ mới có. Trong quá khứ, chính những nhà lãnh đạo các giáo hội từng tham gia các nỗ lực bảo vệ người Do Thái ở châu Âu và Đế quốc Ottoman thường cũng là những người tham gia các chiến dịch bảo vệ các tín đồ Ki-tô giáo tại Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật bản, và Đế quốc Ottaman cùng các nơi khác trên thế giới. Phong trào cộng sản, được coi như kẻ thù hung bạo nhất của tôn giáo trong thế kỉ 20, nhiên hậu đã thúc đẩy tín đồ Ki-tô giáo Mĩ xây dựng những tổ chức nhằm hậu thuẫn các tín hữu ở sau Bức màn sắt. Từ năm 1989, sự bách hại tín đồ Ki-tô giáo do bàn tay cộng sản đã giảm nhiều (mặc dù chưa biến mất), và nhờ vậy càng ngày trọng tâm của mối quan ngại càng chuyển qua Trung Đông, nơi nhiều tín đồ Ki-tố giáo và tín đồ của các đức tin khác hay người không theo tôn giáo nào hiện bị phân biệt đối xử về mặt xã hội và pháp lí – và cũng là nơi, lắm khi tín đồ Ki-tô giáo bị đánh đập và sát hại vì đức tin của mình. Luật pháp của nhiều nước Hồi giáo còn cấm truyền đạo và cải đạo – những vấn đề chiếm được quan tâm sâu sắc nhất của người Ki-tô rao giảng Phúc âm (evangelical Christians), những người tin rằng kẻ nào đến phút lâm chung mà chưa tiếp nhận Đức Ki-tô vào lòng thì sẽ chịu cực hình trong hoả ngục và rằng sự nghiệp truyền bá đức tin Ki-tô giáo là một trong những nghĩa vụ đạo lí trung tâm. Những cơ quan truyền thông chính mạch của Mĩ thường không coi nạn bách hại các tín đồ Ki-tô giáo ở nước ngoài là trọng tâm chính cho việc đưa tin của họ, nhưng sự thờ ơ này không ngăn cản được vấn đề tôn giáo ảnh hưởng lên quan điểm của nhiều người Mĩ đối với Hồi giáo và, nói rộng ra, đối với cuộc xung đột giữa Israel với một số nước láng giềng.
Dư luận tại Hoa Kì về vấn đề Trung Đông không phải là một khối thuần nhất, cũng không phải bất di bất dịch qua thời gian. Từ 1967 đến nay, nó đã kinh qua nhiều chuyển dịch, một số tổ chức hoặc nhóm cử tri trở nên thiện cảm hơn với Israel và một số khác thì ngược lại. Càng ngày người Mĩ gốc châu Phi càng ít ủng hộ đảng Likud hiện nay hơn họ đã từng hậu thuẫn quân đội Do Thái trong Thế chiến II. Thêm nhiều thay đổi có thể xảy ra. Một giới lãnh đạo Pa-let-tin và Ả-rập nhạy cảm hơn đối với những giá trị và những ưu tiên chính trị của nền văn hóa chính trị Mĩ có thể đã phát triển được những chiến thuật mới mẻ và hiệu quả hơn nhằm làm suy yếu, thay vì tăng cường, hậu thuẫn của Mĩ dành cho quốc gia Do Thái. Chẳng hạn, nếu chịu chấm dứt những cuộc tấn công khủng bố để tiến hành một cuộc đấu tranh dân sự bất bạo động có kĩ luật và có tổ chức, họ có thể đã thay đổi được cách nhìn của những ngườiJacksonian về cuộc tranh đấu của người Pa-let-tin. Một khả năng hoàn toàn có thể xảy ra là, dần dà qua thời gian những tín đồ Tin Lành-chính thống Mĩ sẽ theo bước chân của Jimmy Carter, khi ông ta đi từ một chủ nghĩa Xi-ôn-nít trẻ trung đến một lập trường mà ông cho là quân bình hơn như hiện nay. Nhưng nếu Israel phải đối đầu với bất cứ một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nào, dư luận Mĩ sẽ chuyển hướng ngược lại, và đây có vẻ là một khả năng còn lớn hơn. Nhiều thành phần trong số những người Mĩ ngày nay kêu gọi một chính sách quân bình hơn đối với người Pa-lét-tin, sở dĩ làm như vậy, là vì họ tin rằng trên cơ bản Israel đã được an ninh. Nếu một lúc nào đó thẩm định này thay đổi, những cuộc thăm dò dư luận quần chúng rất có thể sẽ chứng tỏ mức độ hậu thuẫn của Mĩ dành cho Israel còn cao hơn hiện nay.
Chí ít có một điều gần như hiển nhiên. Trong tương lai cũng như trong quá khứ, dù có tốt hơn hoặc xấu hơn, chính sách ngoại giao của Hoa Kì đối với Trung Đông vẫn tiếp tục được hình thành bởi ý chí của đại đa số dân Mĩ, chứ không bởi những thủ thuật hay mưu mô của bất cứ nhóm thiểu số nào, dù một số thành viên của nhóm này có giàu có hay tích cực tham gia vào tiến trình chính trị đến thế mấy đi nữa.
Walter Russell Mead là chuyên viên cấp cao trong chương trình Henry A. Kissinger về Chính sách đối ngoại Hoa Kì ở Hội đồng nghiên cứu Quan hệ đối ngoại và, gần đây nhất, là tác giả của cuốn God and Gold: Britain, America, and the Making of the Modern World (Chúa và Vàng: Anh, Mĩ và Sự hình thành của Thế giới Ngày nay).
Bản tiếng Việt @ 2008 talawas
———————
[1]Lời dịch trích từ website: http://www.tinlanh.de/cuuuoc.html. (Trừ chú thích số 3, các chú thích là của người dịch)
[2]Theo Cựu ước, David là vị vua thứ hai của Vương quốc thống nhất Israel. Kinh thánh mô tả ông là một người công chính, một thi sĩ, nhạc sĩ, một danh tướng. Theo biên niên dựa vào kinh thánh, David ra đời khoảng 1037 và mất khoảng 967 trước Công nguyên. Tiểu sử của David có ý nghĩa sâu sắc trong văn hóa Do Thái và Ki-tô giáo.
[3]‘ngoại Do’: lựa chọn dịch thuật cho tính từ gentile, có ý nghĩa là ‘không phải là người Do Thái’ (về huyết thống và tôn giáo). Để tránh trùng lặp đơn điệu, ở những chỗ khác nhau trong bản dịch này tính từ gentile còn được dịch là ‘phi-Do-Thái’ hoặc ‘ngoại Xi-ô-nít’. (Chú thích của người biên tập)
[4]Chủ nghĩa Xi-ôn-nit (Zionism) là một phong trào chính trị quốc tế, một chủ trương thoạt đầu ủng hộ việc tái lập một quê hương cho người Do Thái tại Palestine và ngày nay vẫn còn tiếp tục hậu thuẫn quốc gia Israel hiện đại.
[5]Protestants còn được dịch là tín đồ “Thệ phản giáo” hoặc “Kháng Cách giáo” để nhấn mạnh chủ trương li khai với Giáo hội Công giáo La Mã, một sự kiện lịch sử diễn ra vào thế kỉ 16. Người dịch chọn từ Tin Lành vì tính phổ biến của từ này trong tiếng Việt, nhất là trong hầu hết các tự điển Anh-Việt thông dụng, và nhất là vì nó không làm thương tổn nội dung nguyên bản. Có lẽ vì tinh thần “đại kết” (ecumenism), một nỗ lực đoàn kết giữa các truyền thống Ki-tô giáo khác nhau, chúng ta không thấy các giáo hội Công giáo hay Tin Lành Việt Nam dùng các từ “Thệ phản giáo” hay “Kháng Cách giáo” trong văn chương của họ.
[6]Những tín đồ Ki-tô giáo theo truyền thống này tin tưởng Thiên Chúa là một ngôi duy nhất, tương phản với quan niệm Chúa Ba ngôi (Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần). Đối với họ, đức Ki-tô là một gương sáng, một vĩ nhân, một ngôn sứ của Thiên Chúa, thậm chí là một đấng siêu nhiên, nhưng bản thân ngài không phải là Thiên Chúa.
[7]Người Hêbrơ (dân Do Thái cổ đại) là sắc dân mà Kinh thánh Cựu ước mô tả là hậu duệ của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Xem thêm chú thích 2.
[8]Người rao giảng Tin Lành (evangelist, evangelical) tin rằng họ có sứ mệnh truyền bá những điều đức Ki-tô đã dạy và được ghi lại trong các sách Phúc âm (tin mừng) của Tân ước (theo Mat-thêu, Mac-cô, Lu-ca và Gio-an).
[9]Lý thuyết tôn giáo của John Calvin, một nhà thần học Pháp thế kỉ 16, nhấn mạnh sự toàn năng của Thiên Chúa và sự cứu rỗi có tính cách tiền định mà Thiên Chúa chỉ dành cho một số người được ngài tuyển chọn (xuyên qua hồng ân của ngài mà thôi). Thuyết này phù hợp với quan niệm “tuyển dân” (chosen people) của một số nhà tư tưởng tôn giáo Mĩ.
[10]Giao ước (convenant) là một tín lí theo đó một cộng đồng tôn giáo tin rằng Thiên Chúa đã liên minh hay hiệp thông với họ. Một ví dụ về quan hệ giao ước trong Do Thái giáo và Ki-tô giáo là quan hệ giữa Áp-ra-ham và Thiên Chúa, theo đó Thiên Chúa giao ước với Áp-ra-ham là ngài sẽ ban phép lành cho con cháu của ông sinh sôi nhiều hơn cả sao trên trời. Theo đức tin Ki-tô giáo, Thiên Chúa làm thêm một giao ước nữa, còn gọi là “giao ước mới”, theo đó đức Giê-su Ki-tô chịu chết trên Thánh giá để chuộc tội cho tất cả loài người.
[11]David và Goliath là hai nhân vật trong một truyện tích nổi tiếng của Cựu ước, trong đó David là một cậu bé chăn cừu và là vua tương lai của Israel (xem chú thich 3). David chỉ dùng chiếc ná bắn một hòn đá và giết chết Goliath. Goliath là chiến sĩ khổng lồ của quân Philistines, được cử ra để thách thức vua quan Israel. Đây là một truyện minh họa sức mạnh của đức tin: David bước ra chấp nhận thách thức, không một manh giáp trên người, nhưng đã làm cho kẻ địch được trang bị đầy đủ binh giáp phải hoảng sợ rút quân.
[12]Phái nông gia theo mô hình kinh tế Jefferson [tổng thống thứ ba của Mĩ] chủ trương rằng kinh tế Hoa Kì phải chủ yếu dựa trên nông nghiệp để sản xuất những hàng hoá chiến lược, hơn là dựa vào công nghiệp. Jefferson khẳng định tin tưởng rằng: “Những người đổ mồ hôi canh tác đất đai… là tuyển dân (chosen people) của Thiên Chúa, nếu có bao giờ ngài có một tuyển dân.”
[13]Theo Cựu ước, Joshua là nhà lãnh đạo Israel tiếp theo sau Mô-se.
[14]Theo Cựu ước, vua Solomon đã xây một ngôi đền để thờ phượng Thiên Chúa tại Jerusalem. Người Do Thái cho rằng ngôi đền mái vòm của Hồi giáo (the Dome of Rock, xây vào thế kỉ 7) hiện đang tọa lạc ngay trên địa điểm của Đền Solomon, còn gọi là Ngôi đền đầu tiên mà họ tin rằng quân Ba-by-lon san bằng vào năm 585 trước Công nguyên.
[15]Theo luật phân chủng Jim Crow, người da trắng và da đen phải sử dụng những phương tiện công cọng riêng rẽ, như xe buýt, công viên, trường học… Jim Crow là tên gọi của của một hệ thống phân chia giai cấp, theo đó người da đen bị dìm xuống thành một loại công dân thứ cấp (secon-class citizens) trong khi người da trắng được đề cao là một chủng tộc ưu việt, thậm chí là một dân tộc được Chúa chọn, theo quan điểm của nhiều người miền Nam trước và sau Nội chiến Mĩ.
[16]Những chương trình và chính sách nhằm thúc đẩy việc phục hồi kinh tế và cải tổ xã hội do tổng thống Franklin Roosevelt đề xuất vào thập niên 1930 với mục đích khắc phục hậu quả của cuộc Khủng hoảng kinh tế. Có nghĩa đen là “chia lại ván bài”, tạo cơ hội mới, New Deal mở ra một bước ngoặt quan trọng, thu hút ngày càng nhiều hậu thuẫn của người da đen. Trước giai đoạn này, đại đa số dân da đen hậu thuẫn đảng Cộng hòa, đảng của tổng thống Abraham Lincoln, người có công giải phóng nô lệ.
[17]Một trong những tuyên bố của Công đồng Vaticanô II, nhan đề Nostra Aetate hay “Trong thời đại của chúng ta”, xúy xoá trách nhiệm của dân Do Thái về cái chết của đức Ki-tô đồng thời lên án việc bách hại và kì thị người Do Thái “vào bất cứ thời nào do bất cứ ai”
[18]Evangelical có nghĩa là “phúc âm, tin mừng, tin lành” (good news). Những người theo đạo Tin Lành (evangelicals) tin vào thẩm quyền tuyệt đối của các sách Phúc âm Tân ước ( theo Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca và Gio-an). Người Tin Lành không những triệt để thay đổi chính bản thân (born again) dựa trên những nguyên tắc của sách Phúc âm, mà còn coi mình có sứ mệnh đi truyền đạo, thuyết phục người của các đức tin khác chấp nhận đức Ki-tô là con đường duy nhất đi đến “sự sống đời đời”.
[19]Andrew Jackson, tổng thống thứ 7 của Hoa Kì (1829-37). Trước khi trở thành tổng thống, Jackson là một nhà quân sự lập được nhiều chiến công lẫy lừng trong các trận đánh chống lại người Anh và các bộ lạc da đỏ liên minh với đế quốc Anh trong Chiến tranh 1812. Ông được coi là một vị anh hùng có công chống ngoại xâm và nới rộng biên cương của Mĩ. Jackson rất được lòng binh sĩ và giới bình dân. Trên cương vị tổng thống, Jackson nới rộng quyền lực của chính phủ liên bang.
[20]Trong bối cảnh của một nước đa chủng như nước Mĩ, từ nationalism nên được dịch là “chủ nghĩa quốc gia”, đối trọng với chủ nghiã quốc tế hay những xâm lấn từ nước ngoài vào. Sự nghiệp nhà binh của Andrew Jackson gắn liền với việc chống sự can thiệp và xâm lấn của đế quốc Anh. Vì thế từ Jacksonianmà tác giả dùng trong bài viết còn có nghĩa là “chống lại sự can thiệp của nước ngoài” kể cả các tổ chức quốc tế như LHQ.
[21]Triệt để tin vào lối giải thích theo nghĩa đen của Kinh thánh (fundamentalist). Các tín đồ Tin Lành-chính thống sống trong một văn hóa bảo thủ, lấy Kinh thánh làm khuôn thước đạo lí, sống đông đảo ở các tiểu bang miền Nam [của Nội chiến Mĩ], những tiểu bang thường được mệnh danh là “Vòng đai thánh kinh” (the Bible Belt).
– See more at: http://nghiencuuquocte.net/2015/08/30/nhung-li-do-dan-phi-do-thai-mi-ung-ho-quoc-gia-do-thai/#sthash.ycB5RnvU.dpuf
Tác giả: Hoàng Anh Tuấn
Bài liên quan: Tìm hiểu Israel và dân tộc Do Thái
Thành công của người Do Thái nhiều người đã biết, đã nghe từ lâu và có thể kể cả ngày, cả tháng cũng không hết. Là người đã tìm hiểu câu chuyện này cả chục năm nay, càng đi sâu tìm hiểu về những thành công của Israel và người Do Thái, tôi càng thấy phức tạp nhưng cũng hết sức thú vị. Chuyến đi Israel lần này, ngoài các công việc thường lệ, rất nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi, thảo luận với nhiều người, nhiều giới, nhiều nơi khác nhau giúp tôi kiểm chứng, củng cố thêm các nhận định trước đây của mình; biết thêm nhiều vấn đề mới; đồng thời cũng xóa bỏ một số các định kiến một chiều, phiến diện.
Có rất nhiều câu hỏi đeo đẳng trong suốt quá trình tìm hiểu để có câu trả lời thấu đáo, đại loại như:
1. Tại sao chỉ chiếm một phần nhỏ của dân số thế giới, nhưng người Do Thái lại có sự thông tuệ vượt thời gian, hơn hẳn các dân tộc khác trên thế giới? Nếu tính theo chỉ số IQ, chỉ số trung bình của người Do Thái là 110 so với chỉ số trung bình 100 của thế giới. Tuy mức chênh lệch IQ chỉ là 10, nhưng tỷ lệ thiên tài trong nhóm những người có IQ 110 cao hơn nhóm có chỉ số IQ 100 tới 120-150 lần!
2. Phải chăng người Do Thái có “gien” thông minh hơn người và “gien” này được lưu giữ và truyền từ đời này qua đời khác?
Câu chuyện này đã được nhiều nhà khoa học âm thầm nghiên cứu để tìm câu trả lời thấu đáo. Tuy nhiên, người Do Thái lại “bác bỏ” điều nay, cho rằng sở dĩ người Do Thái thành công là do điều kiện, hoàn cảnh bắt buộc họ phải nỗ lực, sáng tạo và vươn lên không ngừng để thích nghi với hoàn cảnh. Vậy thực, hư câu chuyện này ra sao?
3. Nếu như có “gien” Do Thái như vậy thì “gien” này được “lưu giữ” và phát triển ra sao từ thời “Cụ Tổ” của người Do Thái đến nay và trong hoàn cảnh họ bị ly tán, tha phương cầu thực?
Người Do Thái hiện nay đều coi Thủy tổ của mình là ông Abraham (và cũng là của người Hồi giáo – Người Hồi giáo gọi là Ibrahim) ra đời cách đây khoảng 4000 năm, và Nhà Tiên tri Moses, ra đời cách đây khoảng 3600 năm. Ông Mosses đã dẫn dắt các nô lệ người Do Thái chạy trốn khỏi Ai Cập và đến khu vực Bắc Israel hiện nay, thống nhất 12 bộ lạc khác để lập ra nhà nước Do Thái. Hiện nay Israel là quốc gia Do Thái duy nhất trên thế giới, người dân đa phần là người Do Thái và quốc đạo là Đạo Do Thái. Để dễ hình dung, nếu có một nước khác có đặc trưng tương tự như Israel, chẳng hạn Trung Quốc, thì đặc trưng nước đó sẽ là: Người Trung Quốc, nước Trung Quốc, Đạo Trung Quốc. Nhưng trên thực tế ta thấy: người Hán, nước Trung Quốc và Đạo Khổng.
4. Tại khu vực hiện gồm phía Bắc Ai Cập, lãnh thổ Israel, Palestine, Gioóc-đa-ni hiện nay, khu vực phía Nam Syria, và phía Đông Bắc Iraq vốn trước đây là khu vực tranh chấp quyết liệt giữa bộ lạc Do Thái với các bộ lạc khác trong khu vực, cũng như giữa các đế chế lân bang với nhau như Roma, Assyria, Babilon, Ottoman… nhằm kiểm soát khu vực đồng bằng ven biển Israel và khu đồi cao Jerusalem để cho được gần với Đức Chúa trời. Sau sự kiện Ngôi đền thứ nhất của người Do Thái bị đốt năm 586 trước Công Nguyên thì mục tiêu xâm lược là để chiếm miền đất thánh Jerusalem, nơi cả 3 tôn giáo (Do Thái, Thiên chúa, Hồi giáo) đều coi là đất thiêng của mình.
Vậy tại sao trong khi hầu hết các bộ tộc du mục khác bị đồng hóa, hoặc bị tuyệt diệt, nhưng người Do Thái lại “thoát” được nạn này (tuy rằng người Do Thái cũng trải qua nạn diệt chủng Holocaust và một số cuộc truy sát tập thể trong quá khứ)? Vậy họ đã “thoát” bằng cách nào?
5. Tại sao người Do Thái lại có truyền thống hiếu học và tỷ lệ biết chữ rất cao so với những dân du mục cùng thời? Tại sao người Do Thái lại đi tiên phong trong rất nhiều lĩnh vực như khoa học tự nhiên, luật, khoa học chính trị, công nghiệp giải trí…?
Từ hàng ngàn năm trước công nguyên trẻ em Do Thái hầu hết biết đọc biết viết, và khi lưu lạc ở châu Âu, người Do Thái cũng có tỷ lệ biết đọc, biết viết cao hơn người bản địa. Cần nhớ, trước thời kỳ Phục Hưng cả châu Âu chìm đắm trong u muội, tỷ lệ mù chữ lên tới 80-90% dân số. Đến những năm 1930 của thế kỷ trước, người Do Thái gần như độc quyền trong lĩnh vực nghiên cứu năng lượng nguyên tử, thậm chí thời kỳ đó người ta còn gọi ngành khoa học này là “ngành khoa học Do Thái”.
Nhìn rộng hơn, không chỉ người Do Thái quan tâm đến chuyện học hành của con cái, mà người Đông Á, kể cả Việt Nam, cũng vậy và có thể kể ra không ít các tấm gương thành công đáng ngưỡng mộ. Nhiều gia đình sẵn sàng bán nhà, bán cửa để đầu tư chuyện học hành của con cái. Tuy nhiên đạt đến đỉnh cao trí tuệ như Albert Einstein, Karl Marx, Noam Chomski và rất nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel gốc Do Thái lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Tại sao người Do Thái làm được chuyện đó?
6. Trên thế giới đã từng có dân tộc nào bị trục xuất, sống lưu vong trên hai ngàn năm mà vẫn giữ được bản sắc, tiếng nói, chữ viết và tập tục của mình như người Do Thái không?
7. Các giáo sĩ (Rabbi), Hội đồng giáo sĩ và những người Do Thái chính thống là những người có địa vị và tiếng nói quan trọng trong xã hội. Vậy họ có vai trò ra sao trong việc duy trì tập tục, bản sắc và “nòi giống” Do Thái?
8. Tại sao mô hình Kibbudz của người Do Thái lại thành công và có sức sống kỳ diệu ở Israel, trong khi mô hình này lại không thành công hoặc không thể thành công ở các quốc gia khác. Cốt lõi tạo nên thành công của các Kibbudz là gì?
9. Khi người Do Thái được thực hiện giấc mơ “Phục quốc” năm 1948, hàng trăm ngàn người Do Thái từ trên 70 quốc gia khác nhau trên khắp thế giới đổ về mảnh đất Israel, họ đã sát cánh cùng nhau bắt tay xây dựng và bảo vệ đất nước. Tiếp đó, sau các biến động ở Liên Xô và châu Âu trong những năm 1989-1990, 1,5 triệu người Do Thái (tức trên 1/4 dân số) trở về “cố quốc”. Mỹ, Australia, Canada cũng là quốc gia của những người nhập cư, nhưng chưa từng chứng kiến lượng lớn người nhập cư đổ về (tính theo tỷ lệ dân số) trong một thời gian ngắn đến vậy. Tuy đến từ nhiều xứ sở khác nhau, nhưng hầu hết những người Do Thái không bị gặp các rào cản ngôn ngữ và nhanh chóng hội nhập vào xã hội mới. Chuyện này thực hư thế nào và được thực hiện ra sao?
Còn rất nhiều các câu hỏi khác nữa. Vấn đề đặt ra là mô hình Israel và bài học thành công của người Do Thái (tạm bỏ qua một bên các khiếm khuyết và một số “thói hư, tật xấu” của người Do Thái) có thể học được không và áp dụng ở quy mô nào (gia đình, dòng họ, công ty, thiết chế, đất nước…)?
Israel: Cường quốc nông nghiệp giữa sa mạc
Do điều kiện tự nhiên, sa mạc chiếm đến 60% tổng số 20.000 km2 diện tích, nên đất đai canh tác còn lại của Israel rất ít và chủ yếu nằm ở khu vực đồng bằng ven biển. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản Israel trở thành nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới, chủ yếu nhờ đi tiên phong trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Đi thăm các cơ sở nông nghiệp Israel mới thấy trình độ công nghiệp hóa nông nghiệp và khả năng lập kế hoạch sản xuất, dự báo thị trường của Israel đạt đến trình độ rất cao. Có lẽ dùng từ “nông dân” đối với họ là không chính xác, mà là công nhân nông nghiệp. Ngoài ra, đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa 4 “Nhà”, gồm: (i) Nhà nước; (ii) Nhà khoa học; (iii) Nhà buôn; và (iv) Nhà nông. “Nhà nông” ở đây cần được hiểu là người bỏ vốn đầu tư, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất nông nghiệp.
Đất đai ở Israel được nhà nước quản lý rất chặt chẽ. Nhà ở của dân thì xây trên các triền núi đá, khó cải tạo thành đất nông nghiệp, còn đất đồng bằng tuyệt đối sử dụng cho trồng trọt và canh tác. Thậm chí đất hoang mạc, nhưng tương đối bằng phẳng có thể cải tạo thành đất nông nghiệp thì cũng không được làm nhà ở trên đó.
Israel đi tiên phong trên thế giới trong lĩnh vực cải tạo đất hoang mạc, sa mạc thành đất nông nghiệp trù phú. Quy trình như sau (để đơn giản hóa): (i) San bằng đất hoang mạc, sỏi đá; (ii) Phủ lên đó 1 lớp đất dày, ít nhất là 1/2 m; (iii) Trồng các loại cỏ hoặc cây dại không cần tưới nước khoảng từ 3-5 năm, để biến đất chết thành đất màu; (iv) Sau quá trình cải tạo này, đất hoang mạc biến thành đất nông nghiệp và được giao cho các chủ đất (nhà đầu tư) để tiến hành sản xuất.
Về mặt sinh thái, bước vào thế kỷ 21, Israel là nước duy nhất trên thế giới đã mở rộng được diện tích rừng và quỹ đất nông nghiệp.
Tuy là nước nhỏ, có 8 triệu dân, nhưng Israel lại có hệ thống đường dẫn nước tái sử dụng dài nhất thế giới. Toàn bộ lượng nước thải được dẫn trở lại các trung tâm xử lý, lọc lại, sau đó được dẫn ngược trở lại theo các đường ống để sử dụng tưới tiêu cho nông nghiệp.
Hệ thống ống dẫn nước tưới được dẫn đến từng khoảnh vườn, tới từng cây và việc tưới được vi tính hóa qua hệ thống điều khiển ở trung tâm về thời gian tưới, lượng nước tưới sao cho phù hợp nhất với thời tiết, độ sinh trưởng của từng loại cây. Cũng từ trung tâm, các kỹ sư nông nghiệp sử dụng luôn đường ống dẫn nước để dẫn phân bón hoặc chất dinh dưỡng cần cho cây theo định kỳ.
Tại đầu từng khoảnh vườn, có bảng ghi chi tiết vườn trồng cây gì, giống nào, từ khi nào… Nhìn chung các cây trồng (cam, bưỏi, cà chua, ớt.. ) là những loại cây trồng có năng suất cao, đã được lai ghép cho phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng Israel là chịu nắng, chịu khô, chịu sâu bệnh nhưng lại cho năng suất cao và chất lượng quả, trái cây tốt.
Mỗi cây cam hoặc bưởi trông thấp như vậy nhưng lại rất sai quả và có thể cho đến vài tạ quả/cây khi đến mùa thu hoạch. Với lợi thế là trồng cây quả nhiệt đới có chất lượng cao, ổn định, hệ thống kiểm định chất lượng chặt chẽ, ở ngay sát châu Âu và cung cấp những hoa quả nhiệt đới “trái vụ” khi châu Âu bước vào mùa đông nên hoa quả Israel có rất nhiều lợi thế về giá và thị trường.
Đây có lẽ chính là mô hình đầu tư, sản xuất, phát triển và kinh doanh nông nghiệp mà một nước nông nghiệp như chúng ta cần học hỏi và để làm giàu tại ngay chính mảnh đất quê hương mình. Nếu so với Israel, có lẽ đất đai miền Trung Việt Nam còn màu mỡ và có các điều kiện tự nhiên để sản xuất tốt hơn nhiều. Ngay một nước có nền nông nghiệp phát triển nhất ở khu vực như Thái Lan cũng có hàng ngàn thực tập sinh lao động trong các trang trại, mà thực chất là lao động xuất khẩu.
Có điều ít người để ý là trong khi thực tập sinh Việt Nam chăm chỉ làm lụng, tiết kiệm từng đồng gửi về cho gia đình, vợ con, thì khá nhiều “lao động” Thái là các “tình báo” nông nghiệp. Họ là các kỹ sư, con cái các chủ nông trại Thái, những người nuôi chí làm giàu bằng nghề nông và sử dụng thời gian lao động tại Israel như một hình thức “khổ nhục kế”, âm thầm tìm hiểu quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý… để tìm đường khởi nghiệp làm giàu cho mình và cho nước Thái sau này.
Vậy ta nên và sẽ làm gì? Xin nhường câu trả lời cho các bạn trẻ.
Kinh Do Thái, lối sống, bản sắc, và tiếng Hebrew
Có ba câu chuyện ngồi ngẫm lại thấy khá hay và cũng phần nào liên quan đến chủ đề sắp bàn dưới đây.
CÂU CHUYỆN 1: Công việc đã xong, nhưng rủi một cái là không thể bay về được vì là ngày Thứ 7 nên hãng hàng không Israel El Al không làm việc. Nhưng lại có cái may là nhờ đó hiểu được thêm về kỳ nghỉ cuối tuần Thứ 6 và Thứ 7 (lễ Sabbath, người Do Thái đi làm từ Chủ nhật đến hết Thứ 5) của người Do Thái. Khi đi trên đường, đặc biệt ngày Thứ 7, thấy đường phố vắng ngắt và gặp không ít đàn ông Do Thái chính thống (Jewish Orthodox) mặc bộ đồ đen, đầu cũng đội mũ đen rộng vành, đứng trên vỉa hè, hai tay cầm quyển Kinh thánh Do Thái đọc lẩm nhẩm hàng tiếng đồng hồ với động tác hết sức thành kính và giữa trời nắng chang chang, trong khi đầu gật tới gật lui. Điều này không chỉ gây cho tôi sự ngạc nhiên thích thú, mà còn gợi ra rất nhiều điều.
CÂU CHUYỆN 2: Trước đó, khi chia tay Đại sứ Dan Stav, người tháp tùng trong suốt chuyến đi, tôi có nói rằng “Khi tôi mới đến nơi, ông Đại sứ có nói Bộ Ngoại giao Israel có khoảng 1000 nhà ngoại giao. Giờ đây khi đã xong các cuộc tiếp xúc tôi chỉ đồng ý một nửa. Các ông không chỉ có 1000 nhà ngoại giao, mà đó còn là 1000 Giáo sư nữa”. Dan ngửa mặt cười ha hả. Quả thực, hiếm có nước nào, kể cả các cường quốc, lại có nhiều nhà ngoại giao nắm giữ các vị trí chủ chốt nhưng lại có trình độ khá đều tay, am hiểu sâu chuyên môn và có thể trình bày vấn đề mạch lạc như một giáo sư đại học. Không chỉ rành chuyên môn, họ còn thể hiện tác phong hết sức chuyên nghiệp, động tác mạnh mẽ, dứt khoát.
CÂU CHUYỆN 3: Khi vào phòng làm việc với Lãnh đạo Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc Phòng của họ, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy phòng khách bày biện khá đơn giản, không rõ chỗ ngồi của chủ và khách. Bèn hỏi cô lễ tân là ngồi thế nào, cô để “Sếp” cô ngồi đâu. Câu trả lời là: Các ông ngồi thế nào thì tùy và chỉ cần để một chỗ cho ông ấy ngồi là OK. Sau này mới thấy rõ hơn, trừ một số cuộc gặp phải tuân thủ một số nghi lễ ngoại giao bắt buộc, việc ngồi tự do (free sitting) tạo không khí thảo luận thoải mái và bình đẳng giữa chủ và khách, càng ngạc nhiên hơn khi đây cũng chính là cách người Israel ngồi khi thảo luận nội bộ!
Quay trở lại Phần 1, tôi thấy rằng các câu trả lời về nguyên nhân thành công của người Do Thái, sự cố kết của dân tộc này đều khởi nguồn từ 3 yếu tố chính (i) cuốn Kinh Do Thái (Jewish Bible), (ii) cách thức duy trì Đạo, bản sắc và lối sống Do Thái; và (iii) tiếng Hebrew. Các vấn đề khác như “gien” và tố chất thông minh của người Do Thái; tính hiếu học, ham hiểu biết và sáng tạo; cách duy trì và tổ chức cuộc sống, đời sống xã hội một cách văn minh, lành mạnh của họ đều bắt nguồn từ 3 yếu tố trên. Và cũng thật trớ trêu, đây lại là nguyên nhân chính khiến họ bị xua đuổi, miệt thị, truy sát trong hơn 20 thế kỷ qua. Tôi cũng nghiệm thấy rất ít dân tộc, quốc gia có thể học được theo họ, trừ phi anh cũng trở thành… người Do thái như họ!
Ta hãy đi từng vấn đề một:
Thứ nhất, Israel là đất nước duy nhất trên thế giới được định hình bởi 4 yếu tố mang đậm chất Do Thái là: (i) Dân tộc Do Thái, (ii) Đạo Do Thái, (iii) văn hóa Do Thái, và (iv) Đất nước Do Thái.
Trong các tôn giáo trên thế giới, Đạo Do Thái được ghi nhận là đạo có tuổi đời lâu thứ hai trên thế giới (ra đời cách đây khoảng 3000 năm), sau Đạo Hindu (ra đời cách đây khoảng 4000 năm). Tuy nhiên, do Hindu là đạo đa thần, nên Do Thái giáo có thể xem là đạo độc thần (Monotheistic) ra đời sớm nhất thế giới. Đạo Độc thần là đạo chỉ thờ 1 vị chúa/thần/hoặc thánh duy nhất. Đạo Do Thái chỉ thờ duy nhất Chúa trời, nên trên bàn thờ trong nhà thờ Do Thái họ trang trí đơn giản, không thờ người hoặc động vật. Họ cho rằng, người là người, dứt khoát không thể là chúa hay thánh được và chỉ có một Đức Chúa trời duy nhất. Phải chăng điều này làm cho người Do Thái cũng như sinh hoạt tôn giáo của họ “dân chủ” hơn do không bị phân tán, mất bớt quyền lực qua các nhân vật trung gian?
Một điều rất đặc biệt là trong cuốn Kinh Torah (gồm 5 tập, ghi lại các lời của Nhà tiên tri Moses) có ghi người Do Thái được Đức chúa trời chọn (the Chosen People) để truyền đạt thông điệp của Chúa cho các dân tộc khác, dẫn dắt và khai sáng các dân tộc khác. Người Do Thái rất tin vào điều này, tin vào “sứ mạng” được Chúa giao phó. Đây có lẽ là động lực lớn nhất khiến người Do Thái luôn tìm cách đạt đến đỉnh cao của khoa học, phấn đấu đủ tầm trí tuệ “dẫn dắt” nhân loại như họ nghĩ đã được “Chúa lựa chọn”. Do đó, điểm nổi bật nhất ở người Do Thái là họ thấy mục đích cao nhất của cuộc sống là sáng tạo, chứ không chỉ là kiếm tiền, và kiếm tiền cũng như sự giàu có của họ thực ra là hệ quả của các lao động sáng tạo chứ không phải mục đích mà họ theo đuổi.
Thứ hai, trong bất kỳ tôn giáo nào, tính “Giáo điều” đều tồn tại, duy chỉ khác nhau về mức độ. “Giáo điều” là những điều được ghi trong kinh/kinh thánh hoặc được các Bề trên giảng và được coi mặc nhiên đúng, không bàn cãi. Tuy nhiên, bản kinh Torah của người Do Thái lại rất gợi mở để mọi người suy nghĩ, khám phá. Trong 5 cuốn Kinh Torah thì có đến 4 cuốn nói về luật và 1 cuốn về các vấn đề trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày. Torah ghi các vấn đề trong cuộc sống, đặt ra các câu hỏi, gợi mở để suy nghĩ, nhưng lại không chỉ có một câu trả lời, mà có nhiều câu trả lời tùy thuộc bối cảnh khác nhau, và thậm chí còn để khoảng trống để mọi người cho trí tưởng tượng bay bổng với các hỏi và câu trả lời. Trong bữa cơm gia đình cuối ngày, hoặc trong ngày Sabbath, các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng đọc và tranh luận các điều ghi trong kinh thánh, và có thể chính điều này làm tăng thêm năng lực trí tuệ, làm cho họ rất giỏi về luật.
Thứ ba, các bạn Israel cho biết, cuốn Kinh Torah giống như một cuốn sách khoa học hơn là một cuốn kinh với các “Giáo điều”. Chẳng hạn, trong Kinh Torah ghi rõ ngày Thứ 7 là ngày Chúa nghỉ ngơi, nên tất cả mọi người Israel, kể cả các nô lệ và súc vật không được làm việc trong những ngày này. Ngày lễ Thứ 7 của họ gọi là ngày lễ Do Thái (Sabbath) được xem là ngày “nghỉ tuyệt đối”, theo đó Chúa khuyên các thành viên trong gia đình dành thời gian này bên nhau, cùng trò chuyện, đi chơi, vợ chồng “yêu” nhau, gia đình cùng nhau đi đến nhà thờ (Synagogue). Trong ngày này, mọi người không được bật lửa (vì thời xa xưa, bật lửa có nghĩa là phải vào bếp nấu nướng, tức vẫn “đi làm”) và ăn đồ ăn được chuẩn bị từ hôm trước. Thậm chí thang máy trong các cao ốc cũng để “chế độ Sabath”, tức người Do Thái không dùng tay bấm nút (biểu hiện của “làm việc”), mà để thang tự chạy automatic và mở cửa trước từng tầng một từ tầng thấp nhất đến tầng cao nhất của tòa nhà. Ngày Chủ nhật là ngày làm việc đầu tiên của họ, và điều ngạc nhiên là theo cách gọi trong Kinh thánh Do Thái các ngày làm việc trong tuần theo tuần tự là các ngày “sáng tạo”, chứ không phải ngày “đi làm”.
Chỉ bấy nhiêu thôi cũng gợi ra một số điều thú vị:
Người Do Thái coi trọng chuyện học hành
Người Do Thái rất chú trọng đến chuyện học hành và chữ nghĩa của con cái. Cuốn Kinh Talmud từ cách đây trên 2000 năm đã yêu cầu các ông bố, bà mẹ phải dạy cho con cái biết đọc, biết viết từ năm lên 6 tuổi. Điều này, cũng như một số giáo lý khác trong kinh Talmud, được người Do Thái thực hiện hết sức nghiêm túc (sẽ nói kỹ sau), một phần vì thấy đúng, một phần vì sợ bị cộng đồng xa lánh. Do đó, từ cách đây trên 2000 năm người Do Thái cơ bản xóa được nạn mù chữ, với trên 90% người dân biết đọc, biết viết.
Đối với cuộc sống của con người hiện đại thời nay, điều này là quá sức bình thường. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh người Do Thái là những người du mục, nông dân, thậm chí tha phương cầu thực mà vẫn giữ được truyền thống này, trong bối cảnh tới trên 90% dân châu Âu và các sắc dân khác ở Bắc Phi, Trung Đông ở xung quanh thời đó mù chữ thì đây quả là điều phi thường. Không chỉ thời nay người Do Thái mới được trọng dụng và phát huy vai trò, mà vào thời cực thịnh của Đạo Hồi (thế kỷ IX-XIII) sau Công nguyên, người Do Thái được người Hồi giáo tin dùng và đóng vai trò nổi trội là các thương gia biết tính toán, “ăn nên, làm ra” với hệ thống buôn bán kéo dài từ Trung Đông, qua Nam Á và Đông Nam Á, thậm chí tới Thượng Hải.
Vậy trong điều kiện bị chiếm đóng và lưu lạc, họ duy trì được chữ viết và tiếng nói của mình ra sao trong hàng ngàn năm mà không bị mai một? Câu trả lời chính là sự sùng đạo và cuốn kinh Do Thái viết bằng tiếng Hebrew.
Hầu hết những người Do Thái mà tôi gặp, dù là người Chính thống hay người Do Thái bình thường, đều nói rằng khi gặp nạn, vật đầu tiên và cũng là vật quý giá nhất mà người Do Thái đem theo đầu tiên đó chính là CUỐN KINH THÁNH, chứ không phải bất cứ vật dụng nào khác. Cuốn Kinh thánh Do Thái (Hebrew Bible) đối với họ vừa là đức tin, vừa là lịch sử, vừa là nguồn tri thức, vừa giúp họ giữ được bản sắc, vừa giúp họ có tương lai:
Một là, sự sùng đạo, khiến người Do Thái phải đọc kinh liên tục, đọc thuộc làu, đọc ở trong nhà, đọc ngoài đường, đọc ở nhà thờ… giúp người Do Thái giữ được tiếng nói, nhận diện được ngôn ngữ đặc trưng của mình và được truyền từ đời này qua đời khác.
Hai là, khi lưu lạc sang các xứ khác nhau, ngữ âm của họ có bị thay đổi do phát âm theo thổ ngữ địa phương, nhưng cơ bản họ vẫn hiểu được nhau dù lang bạt hàng ngàn năm, và tới tận 73 quốc gia và lãnh thổ khác nhau. Điều đó giải thích tại sao người Do Thái từ “tứ xứ” đổ về, nhưng đã nhanh chóng gắn kết với nhau ngay sau khi Israel được tái lập năm 1948.
Ba là, không chỉ thạo tiếng Hebrew, mà người Do Thái còn thạo tiếng bản địa nơi họ sinh sống. Như vậy trên thực tế, người Do Thái sử dụng thông thạo hai ngoại ngữ từ rất sớm. Khoa học đã chứng minh, những người hoặc nhóm cộng đồng sử dụng được trên 1 ngoại ngữ thường có chỉ số IQ lớn hơn nhóm, hoặc người sử dụng ít ngôn ngữ hơn. Không chỉ vậy, kinh thánh không chỉ là phương tiện duy trì ngôn ngữ, mà còn giúp họ mở mang các kiến thức luật, kinh tế và khoa học thông thường ở trong đó.
Bốn là, niềm ao ước tột cùng trở về Jerusalem cũng được ghi trong Kinh thánh. Thời cổ đại, dù muốn đi đâu, làm ăn gì, thì người Do Thái cũng quy ước về quần tụ tại Jerusalem để hành lễ ít nhất là 4 lần 1 năm. Đến nay, truyền thống đó vẫn được duy trì và người Do Thái ở Israel thường về Jerusalem mỗi năm một lần, còn người Do Thái ở khắp nơi trên thế giới thì về ít nhất 1 lần trong đời. Kinh Thánh Do Thái ra đời trong bối cảnh người dân Do Thái đã từng mất tổ quốc, mất Jerusalem trong một thời kỳ dài từ hàng trăm năm trước đó. Do đó, Kinh Thánh nhắc nhở người Do Thái rất kỹ về điều này. Truyền thống có từ cả ngàn năm nay và đến nay vẫn được duy trì trong cộng đồng Do Thái, là khi gặp nhau, hoặc khi viết thư, họ thường nói đến việc “sớm hẹn gặp nhau tại Jerusalem”, “hẹn gặp tại Jerusalem vào năm tới”. Do đó, ước nguyện trở về Jerusalem, lấy lại Jerusalem luôn cháy bóng trong mỗi người Do Thái và họ không bao giờ quên điều này khi tha hương.
Đạo Do Thái và việc duy trì nòi giống
Việc thực hiện nghiêm ngặt các phong tục tập quán của Do Thái giáo giúp người Do Thái sàng lọc gien “xấu”, lấy và nhân giống gien “tốt”. Thực ra, không chỉ người Do Thái làm vậy, mà các dân tộc khác như ngoài Hoa và Việt Nam cũng có những vần thơ để chọn người xứng đôi, vừa lứa như “Trai anh hùng, gái thuyền quyên”, “Nữ tuệ tam tài nguyên thị đối” (Gái giỏi trai tài nom thật đối), v.v…. Chắc chắn đây không chỉ là chuyện “tâm đầu, ý hợp” của trai gái, mà còn liên quan đến việc duy trì nòi giống sau này.
Nếu như người Đông Á chỉ dừng lại ở mức “khuyên răn” thì người Do Thái đã “luật hóa” và “hệ thống hóa” được việc chọn lọc có chủ đích thay cho việc chọn lọc tự nhiên, vô thức để “hoàn thiện” và “phát triển” gien của mình:
Một là, trong Đạo Do thái, Giáo sĩ (các Rabbis) là những người được chọn từ những người thông minh nhất. Các Rabbis là người diễn giải Kinh thánh có uy tín và trọng lượng nhất, duy trì các giá trị “chính thống” và được xã hội hết sức trọng vọng. Tuy là thầy tu, nhưng các Rabbis vẫn có con như những người bình thường, và thậm chí có rất nhiều con. Do có uy tín cao trong xã hội, nên họ dễ dàng chọn hôn thê và hôn thê được họ ưu tiên chọn thường là con cái của các học giả (scholars), rồi sau đó mới đến con các nhà buôn.
Hai là, không chỉ các Rabbis chọn như vậy, kinh thánh Do Thái thậm chí còn khuyên mọi người là nếu có tiền của thì hãy tìm cách cho con cái của mình lấy con gái của các học giả. Kinh thánh khuyến khích người Do Thái sinh nhiều con, cho rằng sinh 13 con thì sẽ có nhiều may mắn. Nhưng trên thực tế lại có các “phanh hãm” đối với người nghèo, người ít học là sinh ra con cái nhưng phải đảm bảo các điều kiện kinh tế và tài chính. Chính điều này làm cho người nghèo, người ở tầng lớp thấp không “sinh tràn lan”, mà sinh có trách nhiệm và số người này chiếm tỷ lệ ngày một ít đi trong so sánh tương đối với những người có “gien” tốt, hoặc có điều kiện vật chất tốt hơn. Trải qua hàng ngàn năm chọn lọc có điều kiện như vậy nên việc có được nhiều gien tốt trong người Do Thái là điều dễ hiểu.
Ba là, trong quan niệm Do Thái chính thống, và ngay tại các khu vực người Do thái chính thống sinh sống hiện nay tại Israel, phụ nữ, con gái không bao giờ được “bén mảng” đến Nhà thờ. Trái lại, đàn ông dù bận công việc đến mấy cũng tìm cách đến nhà thờ vào lúc 6h chiều hàng ngày để làm lễ trước khi về nhà. Tuy nhiên, phụ nữ Do Thái lại được xem là có “quyền năng” tuyệt đối trong việc duy trì nòi giống. Con của một phụ nữ Do Thái đương nhiên được coi là người Do Thái, còn con của người đàn ông Do Thái với một phụ nữ không phải Do Thái thì chỉ được coi là người Israel (nếu như sống ở Isael), chứ không được coi là người Do Thái. Thời xa xưa, việc gia đình người Do Thái có một cô con gái lấy chồng không phải người Do Thái bị coi là “nỗi nhục” của cả gia đình và dòng họ, và người bố “từ con” bằng cách đào một nấm mộ giả coi như đứa con mình dứt ruột đẻ ra đã chết.
Nhiều nhà thần học mà tôi có điều kiện tiếp xúc cho rằng Đạo Do Thái hiện là một trong số ít tôn giáo “giữ” được “kỷ cương” khá tốt. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh câu chuyện này và cần nghiên cứu sâu hơn mới có câu trả lời thỏa đáng. Quả thực, bất kỳ tôn giáo lớn hoặc quan trọng nào đều đứng trước 3 thách thức lớn trong quá trình phát triển, đó là:
Do Thái giáo cũng không phải là ngoại lệ, nhưng ít gặp các “vấn nạn” ở trên hơn, do:
Trong những điều kiện khắc nghiệt thời kỳ Đế quốc La mã là bá chủ khu vực Trung Đông, để tránh bị truy đuổi và tận diệt, người Do Thái buộc phải cải đạo sang đạo Thiên chúa. Tuy nhiên họ lại cải đạo trở lại thành người Do Thái khi điều kiện cho phép. Bản thân Hitler là người rất căm thù dân Do Thái, một cộng đồng đoàn kết nhưng sống tách biệt với người bản xứ. Trong con mắt Hitler, đã sinh ra là một người Do Thái thì sẽ luôn luôn là một người Do Thái, cải đạo chẳng giúp ích gì, và quyết truy sát 1 người nếu tìm được bằng chứng trước đó 4 đời họ là người Do Thái.
Tản mạn thay lời kết: Chuyện ăn uống và tố chất của người Do Thái
Đồ ăn Kosher (Kosher food) là đồ ăn được chế biến và ăn theo kiểu Do Thái. Đối với người Do Thái Chính thống, việc sử dụng Kosher là điều gần như bắt buộc, còn đối với người thế tục thì tùy lựa chọn. Các canteen phục vụ tai các cơ quan chính phủ Israel như Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc phòng nghiễm nhiên là các nhà hàng phục đồ ăn Kosher. Đồ ăn Kosher hiện ngày càng trở nên phổ biến tại Israel và trên khắp thế giới và không chỉ người Do thái chính thống mới dùng. Hiện nay, có 100.000 loại thực phẩm Kosher khác nhau được bán trên phạm vi toàn thế giới.
Vậy Kosher là gì và ăn như thế nào? Trong Halakha quy định rất rõ, chi tiết và khá phức tạp, nhưng chung quy lại có một số điểm chính:
Về các thức ăn Kosher:
Về cách ăn đồ Kosher:
Có lẽ trên thế giới không có dân tộc nào có kiểu ăn “kiêng, khem” phức tạp và rườm rà như người Do Thái chính thống. Các nhà hàng phục vụ đồ ăn Kosher thường đắt hơn từ 20-30% so với nhà hàng thông thường, vậy mà lúc nào cũng đông khách ăn.
Theo tôi, đây không chỉ là đồ ăn kiêng của người Do Thái, mà THỰC CHẤT KOSHER LÀ ĐỒ ĂN, CÁCH ĂN THÔNG MINH, KHOA HỌC, THẬM CHÍ LÀ LÝ TƯỞNG không chỉ của người Do Thái, mà của con người nói chung. Nếu chỉ khuyên nhủ thông thường sẽ ít người theo, nhưng khi khoa học được “phủ” một lớp màu tôn giáo thì Kosher đã trở nên thành món ăn kỳ ảo, mê hoặc và quyến rũ.
Tạm cắt nghĩa một số thứ:
Như vậy, trải qua cả ngàn năm, với cuốn Kinh Thánh Hebrew, người Do Thái không chỉ thành công trong việc bảo tồn, mà còn phát triển bản sắc, văn hóa, tôn giáo của mình. Không những vậy, thông qua ăn uống, cuộc sống tinh thần lành mạnh, làm cho “gien Do Thái” vốn đã ưu việt, ngày một trở nên ưu việt hơn. Khác với các tôn giáo khác, người Do Thái không tìm cách phát triển tôn giáo của mình qua con đường truyền đạo như Đạo Hồi, Đạo Thiên chúa, hay Đạo Phật, mà tìm cách giữ sao cho Do Thái giáo càng “thuần khiết” càng tốt. Phải chăng những người được Chúa “chọn mặt gửi vàng” đâu có thể phát triển tràn lan được!
Có lẽ chính vì vậy mà cách đây từ trên 3.000 năm Nhà tiên tri Moses của người Do Thái đã lường trước điều này khi ông, ngay từ khi đó, đã hình dung ra rằng nếu người Do Thái làm theo các lời răn dạy của ông thì họ sẽ trở thành đối tượng bị săn đuổi và tận diệt của nhiều sắc dân khác và vì vậy đã chuẩn bị cho họ hành trang đầy đủ trong cả ngàn năm thiên di trước khi “trở về Jerusalem”. Điều ngạc ngạc nhiên là người Do Thái không than thân, trách phận mà họ coi đó là “sự thử thách” của Chúa trời đối với dân tộc Do Thái!
TS. Hoàng Anh Tuấn là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược và Ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Bài viết tổng hợp những ghi chép đăng lần đầu trên trang Facebook của tác giả về chuyến công tác tới Israel gần đây, thể hiện quan điểm cá nhân, không phải quan điểm của cơ quan nơi tác giả công tác.
– See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/10/10/giai-ma-thanh-cong-cua-israel-va-nguoi-do-thai/#sthash.XniPT1UR.dpuf