Browsing Category

Văn học Nhật Bản

Văn học Nhật Bản

THƯ CẢM ƠN

 

 

Thân gửi quý thầy cô, các anh chị và các bạn đã tham dự bài giảng Close-up Japan số 5,

 

Tôi gửi thư này để một lần nữa cảm ơn tất cả quý vị đã dành thời gian sáng thứ 7 để tham dự bài giảng một cách nghiêm túc và nhiệt tình. Như đã hứa trong bài giảng, tôi xin gửi đến quý vị một vài truyện của Inoue Yasushi mà tôi đã dịch ra tiếng Việt. Mặc dù ít ỏi, nhưng hi vọng giúp quý vị hình dung rõ hơn về phong cách của tác giả.

Sau đây là link của các truyện:

Lang tai ký: http://breadandrose.com/?s=lang+tai+ký

Hồng thuỷ: http://breadandrose.com/blog/hong-thuy-truyen-cua-inoue-yasushi-phan-thu-van-dich-tu-ban-tieng-trung/

Lâu Lan: http://breadandrose.com/blog/lau-lan-truyen-cua-inoue-yasushi-phan-thu-van-dich-tu-ban-tieng-trung/

Duyên do sự hình thành nước Tăng Già La: http://breadandrose.com/blog/duyen-do-su-hinh-thanh-nuoc-tang-gia-la/

Chúc quý vị những ngày hè bình an và nhiều niềm vui.

 

Trân trọng,

 

Phan Thu Vân

Văn học Nhật Bản Văn học phương Đông

DUYÊN DO SỰ HÌNH THÀNH NƯỚC TĂNG GIÀ LA

DUYÊN DO SỰ HÌNH THÀNH NƯỚC TĂNG GIÀ LA

 Inoue Yasushi

(Phan Thu Vân dịch từ bản tiếng Trung)

         Trước đây rất lâu, phía nam Ấn Độ có một vương quốc nhỏ, công chúa con quốc vương nước ấy được gả cho nước láng giềng, thế là vào giờ hoàng đạo của một ngày tốt lành, một đội ngũ hơn ba mươi thị vệ đưa tân nương ra khỏi hoàng cung. Vì quốc gia nhỏ, nên đoàn người ngựa đưa dâu đến chiều tối ngày thứ hai đã tới một thôn trang dưới chân ngọn núi cao nằm ở biên giới hai nước. Dự tính ngày thứ ba và ngày thứ tư đều sẽ cắm trại qua đêm trong rừng núi, ngày thứ năm có thể tới được nước láng giềng. Nghe nói ngọn núi này thường có cường đạo và yêu quái xuất hiện quấy rối người qua lại, cho nên quốc vương lần này đã đặc biệt chọn lấy đoàn thị vệ ai nấy đều trẻ tuổi, thân thể cường tráng.

         Đoàn người ngựa trú ngụ một đêm trong thôn trang dưới chân núi, trước khi trời sáng thì chuẩn bị vào núi. Đoàn người đi theo kế hoạch trù tính từ trước, một ngày một đêm bình an qua đi. Ngày tiếp theo, ban ngày cũng bình an vô sự, nhưng tới tối, khi họ vượt núi và cắm trại qua đêm tại một vùng đất bằng nhỏ hẹp sau lưng núi, tai nạn cuối cùng cũng đã giáng xuống.

         Đêm khuya, mọi người bị một tiếng gầm thét kỳ quái làm giật mình tỉnh giấc. Các thị vệ trẻ tuổi bật dậy, lắng tai nghe ngóng cảnh giác. Tiếng gầm thét lại truyền tới, xuyên qua hẻm núi, vượt qua đỉnh núi, khiến người ta lạnh tóc gáy. Các thị vệ thầm nghĩ, có lẽ là hổ, thế là mỗi người đều nín thở tập trung tinh thần. Khi tiếng gầm thét vọng đến lần thứ ba, dường như gần hơn một chút, các thị vệ trẻ tuổi đều không ngăn được đôi chân họ trở nên mềm nhũn. Bất luận cường đạo hay yêu quái, họ đều không sợ, nhưng địa phận này cơ hồ chưa từng có hổ xuất hiện, cho nên không ai biết phải đối phó với hổ thế nào. Trước mắt những người thanh niên này dường như bắt đầu hiện ra hình ảnh con mãnh thú lần theo mùi người, từng bước tiến gần.

         Lần thứ tư, tiếng gầm thét phát ra từ phía gần nơi cắm trại. Một thị vệ trong số họ thực sự không nhẫn nại thêm được nữa, bèn chui ra khỏi lều, thế là những người khác cũng chạy theo anh ta. Bên ngoài là một đêm trăng sáng, ánh trăng trắng xanh trải trên mặt đất, sáng như ban ngày, song những dãy núi cao thấp nối tiếp nhau lại là một mảng đen đặc quánh. Bấy giờ, tiếng gầm gào liên miên không dứt, mỗi lúc một gần lều trại hơn, nhưng lại không thể phán đoán được âm thanh truyền đến từ đâu. Các thị vệ có cảm giác con hổ dường như bất kỳ lúc nào cũng có thể xông ngay đến. Trên núi phía sau lều trại, những lùm cây rậm rạp bị gió thổi xào xạc, các thị vệ vội vàng nhảy vào trong bóng râm dưới chân núi trước mặt, tránh ánh trăng chiếu vào người, rồi lao thẳng xuống dưới núi.

         Sau khi các thị vệ chạy trốn hết, tiếng gầm gừ lại dội tới từng đợt, còn hung tợn hơn trước. Không biết đã đến lần gầm thét thứ bao nhiêu, con mãnh thú cuối cùng cũng theo tiếng gầm mà xuất hiện ở góc khoảng đất bằng, hóa ra là một con hổ cực lớn. Bấy giờ ở đó chỉ còn lại chiếc kiệu của tân nương.

         Cả mình con hổ tắm trong ánh trăng, nó thong thả vờn quanh khu lều trại. Đột nhiên, chiếc rèm che của một chiếc lều được vén lên, bóng dáng người con gái xuất hiện, vừa đúng lúc nàng đứng vào nơi mà vừa nãy con hổ bước qua. Con hổ nhảy lùi về sau theo bản năng, rùn thấp người xuống, chuẩn bị tư thế sẵn sàng. Chỉ thấy dưới ánh trăng trắng bệch, người con gái giống như bị thôi miên, hướng về phía con hổ dò dẫm bước vài bước, rồi nhanh chóng ngã lăn ra như một khúc củi khô. Nàng đã sợ mất hồn mất vía.

         Thoáng chốc mười mấy năm trôi qua. Tân nương ngày nào đã cùng con hổ sống chung nơi thâm sơn cùng cốc và sinh ra một trai một gái. Mỗi ngày con hổ đều vào rừng sâu săn bắt hươu rừng, hái quả dại về nuôi con. Người đàn bà cũng từng đau khổ và nuối tiếc vì cảnh ngộ lạ lùng mà mình gặp phải, nhưng cuối cùng vẫn thuyết phục mình rằng đây là nhân duyên từ kiếp trước, trời định rằng bà phải sống với danh phận vợ loài cầm thú suốt đời này. Hai đứa con cả trai lẫn gái đều có dáng vẻ bề ngoài giống người bình thường, nhưng bên trong lại đầy thú tính, tính cách vô cùng bạo liệt. Đặc biệt là người anh, không chỉ có thân thể to lớn, mà sức mạnh cũng chẳng thua gì mãnh thú. Thế nhưng đến một năm kia, vào một đêm nguyệt thực, hai anh em đột nhiên có tính người, biết nói tiếng người. Người đàn bà vui mừng đến nỗi tưởng như đang nằm mơ, nhưng niềm vui chẳng tày gang.

         Hai anh em bắt đầu truy vấn mẹ, vì sao mình rõ ràng là người, mà lại có cha là hổ. Người mẹ không muốn cho con biết thân thế của chúng, nhưng hai anh em cương quyết không buông. Thế là người mẹ bất đắc dĩ phải nói về sự việc ly kỳ mà mười mấy năm trước mình đã gặp phải. Con trai nghe xong nói: “Hổ và người vốn khác loài, chúng ta lẽ nào không nên nhanh chóng trốn khỏi con hổ này, đi đến sống với loài người sao?” Em gái cũng tỏ ý đồng tình. Người mẹ cho rằng con mình muốn chạy trốn cũng không sao, song bản thân thì không thể. Bà nói: “Tuy mẹ cũng từng có ý muốn trốn chạy khỏi chồng hổ, nhưng cuối cùng hiểu ra rằng dù có rời bỏ được cũng chẳng ích gì, cho nên mới từ bỏ ý định này. Huống chi mẹ là đàn bà, không thể nắm chắc liệu có chạy thoát được không. Con hổ có sức mạnh ngày chạy ngàn dặm, mắt nhìn xuyên được ngàn dặm. May mà hai con không thua kém cha, nếu có thể chạy trốn thì chắc là thoát được. Hãy tìm thời cơ rời khỏi đây, đến nơi có người sinh sống, sống cuộc sống của loài người. Đó cũng là điều mà người làm mẹ như mẹ đây mong muốn.”

         Nửa năm sau, có lần con hổ vượt núi đi xa săn mồi, hai anh em nói với mẹ đây chính là cơ hội tốt để chạy trốn. Tuy vậy, người mẹ vẫn không muốn đi. Thế là, anh con trai cõng luôn người mẹ đang phản đối lên lưng, đưa em rời khỏi hang hổ. Họ chạy men theo con đường xuống chân núi gần nhất đã được thăm dò từ trước, ngày hôm sau đã tới được nơi thôn làng có người sinh sống.

         Khi bóng thôn làng dần dần lọt vào tầm mắt, người mẹ cuối cùng cũng đã từ bỏ ý muốn quay lại với chồng hổ, vì quay lại cũng không làm được gì nữa. Người mẹ nói với hai con: “Vậy hãy về quê của mẹ. Nhưng các con phải nhớ kỹ dù thế nào chăng nữa cũng không được tiết lộ việc chồng của mẹ và cha của các con là hổ. Người đời nếu biết việc này, chúng ta sẽ bị kỳ thị đến chết, không thể sống tiếp được, cho nên dù thế nào chăng nữa cũng nhất định phải giữ bí mật.”

         Chiều tối ngày hôm sau, người mẹ đưa hai con quay về đất nước nơi mình sinh ra, nhưng hoàng thất ngày xưa đã không còn nữa, các thành viên trong gia tộc đều chẳng còn ai sống sót, quốc gia đã bị quốc gia khác chiếm lĩnh. Biết được tin này, ba mẹ con đứng ngẩn ra giữa đường, không biết phải đi đâu về đâu. Người trong thành thấy ba mẹ con trần trụi nửa người, ăn mặc kỳ dị bèn xúm nhau lại xem, đồng thời hỏi họ từ quốc gia nào tới. Người mẹ nói với mọi người: “Chúng tôi vốn là người xứ này, về sau bị ác nhân lừa gạt, lưu lạc tha hương nhiều năm, nay cuối cùng mẹ con tôi cũng được trở về cố quốc.” Mọi người nghe xong không ai không tỏ vẻ xót thương, đem quần áo và thức ăn cho họ. Ngày tiếp theo, mọi người lại giúp ba mẹ con dựng một căn nhà nhỏ bên ngoài thành để họ tạm thời có nơi trú ngụ. Ba mẹ con mỗi người đều đi làm công cho nhà người khác, tạm coi là đủ ăn qua ngày.

        

         Cứ như thế được một tháng, quốc gia này bắt đầu thường xuyên bị hổ quấy nhiễu. Con hổ vì quá thương nhớ vợ con mà lửa giận ngút trời, xông ra khỏi rừng sâu núi thẳm, thường xuyên lởn vởn trong các thôn làng, gầm gừ kêu gào, hết lần này đến lần khác tấn công người dân và giết các gia súc. Mọi người mới hôm nay thấy hổ trong thôn, ngày mai đã gặp nó xuyên qua hẻm núi; cho rằng nó chạy vào thâm sơn cùng cốc, lại thấy nó xuất hiện trên đường và giữa ruộng gần thôn làng. Người bị hổ tấn công vô số kể, mọi người đều sợ hổ mà run rẩy không yên, thậm chí không thể ngủ ngon giấc. Những lữ khách phải qua núi lại càng sợ hãi, nếu chỉ đi thành nhóm nhỏ thì quá nguy hiểm, người ta không thể không tụ tập thành từng đoàn mấy mươi người, khua chiêng gõ trống, chuẩn bị sẵn cung tên giáo mác.

         Quốc vương biết được sự việc, sợ hại đến an nguy của quốc gia, bèn đích thân bắt tay vào việc trị hổ. Quốc vương triệu tập thợ săn trong toàn quốc, phái đến vùng núi nằm gần biên giới quốc gia nơi con hổ ẩn náu. Thế nhưng, con hổ này xuất quỷ nhập thần, cách đối phó của quốc vương chỉ khiến cho những người thợ săn hy sinh vô ích, mà hổ thì vẫn không sao giết được. Quốc vương sau khi nhận ra các thợ săn không thể đảm nhận nhiệm vụ này thì đích thân dẫn quân bao vây ngọn núi. Binh sĩ lên đến hàng vạn, bị phân thành vô số đội nhỏ, mỗi ngày đều chui vào rừng sâu, leo lên núi cao, xuyên qua sơn cốc. Nhưng tiếng gầm kinh thiên động địa của con hổ ngày nào cũng vang lên trong các hẻm núi. Cứ tiếp tục như thế chỉ khiến cho người và gia súc mất mạng vô ích. Rất nhiều binh sĩ chỉ vừa nghe được tiếng gầm của hổ hai chân đã run lẩy bẩy, thậm chí co rúm lại không dám tiến lên phía trước, vừa kêu khóc vừa chạy xuống núi.

         Bấy giờ lại có vài thợ săn đến muốn thử chinh phục mãnh thú, có những người từ quốc gia khác tới. Binh sĩ và thợ săn hợp lực tiến vào khe núi. Thế nhưng, ban ngày không thấy bóng dáng con hổ đâu, ban đêm nó lại đến tập kích khu lều bạt, mỗi đêm đều có người thương vong.

         Thế là, quốc vương yết bảng trong nước, tìm dũng sĩ có thể diệt trừ hổ dữ. Ai có thể tiêu diệt hổ, giải nạn cho nước, tất được trọng thưởng. Tuy vậy, chẳng một ai dám đến gỡ bảng, đảm trách nhiệm vụ khó khăn này.

         Tin quốc vương yết bảng cũng đã truyền tới khu dân nghèo mà ba mẹ con nhà kia sinh sống. Người anh trai nói với mẹ: “Cứ nghèo mãi thế này thực không phải cách, mùa đông đã đến gần, chúng ta không có lương thực, cũng không có quần áo ấm. Con sẽ xung phong đi giết hổ.” Nghe những lời này, người mẹ biến sắc, vô cùng đau khổ: “Con ơi, sao con có thể nói ra những lời như vậy? Hổ tuy là con vật, nhưng lại là cha của các con. Không nên vì cuộc sống của mình khổ cực mà có ý nghĩ đáng sợ là phải mưu hại cha mình, làm ra cái việc đại nghịch bất đạo như vậy.” Nhưng bấy giờ người em gái cũng nói giúp anh mình, hai anh em cùng một suy nghĩ: “Hổ là loài khác, chẳng có cái gì là đạo lý thuận nghịch ở đây cả. Huống chi chúng ta đã từ bỏ cha, nay lại nói về đạo cương thường nghĩa cha con thì có ích gì? Chúng con chỉ có thể làm theo điều mình nghĩ. Trong nhà đến gạo ngày mai ăn cũng đã không còn nữa.” Người mẹ biết mình không thể thay đổi được con, quỳ sụp ngay xuống nền nhà, lặng lẽ khóc.

        

         Chàng trai trẻ giắt con dao nhỏ vào người, bước ra khỏi nhà, hướng về phía ngọn núi lớn nơi mình từng sinh ra và lớn lên, chuẩn bị tự tiến cử mình trước mặt quốc vương. Lúc sắp tới ngọn núi nơi con hổ trú ngụ, chỉ thấy trong các thôn làng đều có điểm đóng quân. Anh đến một điểm đóng quân, báo rằng mình là dũng sĩ đến muốn xin tham gia trừ hổ, sau đó được đưa từ trạm quân này sang trạm quân khác. Dù đến chỗ nào, anh cũng  đều được các binh sĩ khuyên can rằng anh chỉ là thằng ngốc không biết hổ đáng sợ thế nào. Còn có người nói anh quá lỗ mãng, khuyên anh nên mau chóng trở về quê. Nhưng người trai trẻ chỉ coi những lời này như gió thoảng qua tai. 

         Không biết đã qua bao nhiêu trạm gác, cuối cùng người thanh niên cũng được đưa đến trước lều của quốc vương dựng dưới chân núi, bái kiến quốc vương. Quốc vương hỏi chàng thanh niên duy nhất dám đến nhận nhiệm vụ cam go: “Ngươi định dùng sách lược nào để đối phó với mãnh thú?” Chàng trai đáp rằng chỉ cần lúc con hổ xuất hiện, xông tới trước mặt đâm chết nó. Các binh sĩ có mặt tại đó không ai nhịn được cười, chỉ riêng quốc vương không cười mà nói với người trai trẻ: “Ngươi hãy làm như vậy.”

         Sau đó, chàng thanh niên ở tại một nơi đồn trú dưới chân núi, suốt mấy ngày không có việc gì để làm. Cho dù quốc vương phái hàng ngàn hàng vạn binh mã đóng khắp các hang hốc, bao vây ngọn núi, song không hiểu vì sao con hổ suốt mấy ngày trời không thấy xuất hiện.

         Một đêm nọ, người trai trẻ bị tiếng la hét và tiếng trống quân vang vọng trong núi làm thức giấc. Một binh sĩ tới nói cho anh biết con hổ đã xuất hiện trong rừng.

         Chàng trai nắm lấy con dao nhỏ giắt vào người, lập tức vọt ra khỏi lều. Ánh trăng sáng đến mức tưởng như ban ngày. Rời nơi đồn trú chưa xa, đã có thể nhìn thấy bóng dáng các binh sĩ rải rác khắp nơi, người bên khe suối, người ở lưng đồi, người ven góc núi, đến trong những bụi cây cũng có người đang mai phục. Binh sĩ đã bao vây toàn bộ khu rừng nguyên sinh âm u um tùm nơi con hổ đang ẩn náu. Phục binh có người chuẩn bị rút dao, có người giương cung chuẩn bị bắn tên, có người đang cầu nguyện, cũng có người đến giờ phút này còn chuẩn bị chạy trốn. Chàng trai lặng lẽ xuyên qua khu vực binh sĩ mai phục.

         Cuối cùng, anh vượt qua mức cảnh giới, đi vào nơi hoang dã, xuyên qua những bụi cỏ dại cao lút đầu người, vào khu rừng của hổ. Khi ra khỏi vùng cỏ mọc đầy, tiếng la hét và tiếng trống trận huyên náo vừa nãy còn nghe rõ giờ đột nhiên ngưng bặt. Anh từ từ tiến gần đến khu rừng, rồi dừng bước. Vốn dĩ tưởng rằng con hổ náu mình trong rừng sâu, nhưng không phải, một thân thể lừng lững mạnh mẽ đang nằm trên một phiến đá lớn trên một vùng đất khá bằng phẳng ngay cửa rừng. Anh có thể chắc chắn con hổ ấy là cha mình.

         Con hổ đang tắm trong ánh trăng, bất động như một pho tượng, chỉ có đôi mắt sáng rực. Chàng trai nhìn chăm chú về phía con hổ một lúc, trong tim hoàn toàn không có cảm giác xúc động như khi con gặp được cha, mà hoàn toàn coi đó là con mãnh thú cần phải tiêu diệt. Con hổ chuyển hướng nhìn chàng trai, đôi mắt mở lớn, nhưng vẫn hoàn toàn bất động, không biết có nhận ra người thanh niên này là ai hay không. Cuối cùng, con hổ từ từ nhổm dậy, vươn hai chân trước, dùng sức cong người lên, gầm một tiếng lớn, những cành cây trong rừng lay động theo gió. Con hổ đi vòng quanh tảng đá, đuôi rủ xuống, chuẩn bị hướng về phía người thanh niên to gan đang dám bước gần về phía nó khiêu chiến. Nó cong người, hạ thấp đầu, sẵn sàng trong tư thế tấn công.

         Người thanh niên cũng nhìn thẳng vào đôi mắt hổ với tư thế sẵn sàng. Nhưng một giây sau đó, con hổ bỗng dưng thả lỏng người, như thể quên mất phải tấn công. Nó thu chân trước, rồi ngồi xuống với một vẻ rất trẻ con. Người thanh niên ý thức được rằng đối phương đã hoàn toàn nhận ra anh là ai.

          Người thanh niên lại bước thêm mấy bước. Con hổ vẫn bất động. Anh nhìn thấy rõ trong trái tim con mãnh thú lúc này chỉ còn lại sự dịu dàng và nỗi nhớ nhung. Anh trèo lên tảng đá, con hổ chậm rãi quay đầu về phía anh. Anh tới bên con hổ, cúi người xuống. Thế là, con hổ nằm lăn ra, lim dim mắt, nhìn anh với ánh mắt hiền từ không thể biểu đạt thành lời. Trong một thoáng, người thanh niên cảm thấy động lòng trước thái độ của cha hổ, nhưng lập tức phủi ngay cảm xúc ấy ra khỏi đầu. Anh thò tay nắm lấy con dao nhỏ trong người, rồi rút ra đâm mạnh vào lồng ngực hổ. Lập tức máu phọt ra như suối, trên phiến nham thạch tung tóe những bọt máu đen. Con hổ quẫy đạp mạnh, nhưng dường như rất nhanh lại quên đi sự phẫn nộ, vẫn hiền từ nhìn chăm chú vào chàng thanh niên. Anh dùng hết sức lực rút con dao nhỏ trên bụng hổ rồi quyết liệt rạch toang vùng da bụng. Lúc này, trên gương mặt hổ thoáng một nét đau đớn, cái miệng mở to như muốn hớp hết ánh trăng. Nó rên lên mấy tiếng trầm đục, thanh âm ấy lúc cao lúc thấp, liên tục trong một quãng, rồi tắt thở.

         Ngày hôm sau, người thanh niên được đưa đến trước mặt quốc vương. Quốc vương hỏi anh là người nước nào, vì sao có thể hoàn thành việc không tưởng tượng nổi như thế. Thanh niên đáp: “Tôi là người nước này, chỉ vì thời thơ ấu lớn lên trong rừng núi, quen thuộc với thói quen và tính nết của loài mãnh thú.” Quốc vương không hài lòng lắm với câu trả lời, cảm thấy có nguyên nhân đặc biệt nào khác, nên lệnh cho anh ta không được giữ trong lòng, phải thành thật trình bày. Vua hứa chỉ cần anh nói thật, không chỉ được trọng thưởng mà còn được làm quan. Song chàng thanh niên vẫn lặng thinh. Thế là quốc vương nói: “Nếu ngươi dù thế nào chăng nữa cũng không muốn nói thật thì ta chỉ còn cách trục xuất ngươi sang nước khác, vì tại quốc gia này không ai được làm trái mệnh lệnh của nhà vua.” Chàng thanh niên vẫn không chịu khai. Quốc vương cũng không dễ dàng từ bỏ, hết ngày này sang ngày khác gọi anh ta đến, vừa dọa nạt, vừa dụ dỗ. Sau nhiều ngày, anh ta cuối cùng không chịu nổi nữa, bèn nói cho quốc vương biết thân thế thực sự của mình, kể lại việc mình chạy trốn khỏi cha hổ, về lại cố quốc, rồi vì nghèo khổ mà xung phong đi giết hổ.

         Nghe anh ta kể xong, quốc vương gay gắt: “Đại nghịch bất đạo! Mưu hại cha ruột của mình, người như thế sẽ còn đối xử với người không phải cha mẹ mình ra sao? Thật là thú tính khó dạy bảo. Tuy ngươi có công lớn vì dân trừ hại, nhưng việc giết chết cha mình quả thật tội không thể tha. Ta sẽ trọng thưởng công lao của ngươi, nhưng vẫn phải trừng phạt tội giết cha, đày ngươi sang nước khác. Như thế mới không trái với phép nước. Ta là quốc vương, nói một là một, hai là hai.”

         Người thanh niên bị đưa về nhà chờ quốc vương xử lý. Không lâu sau, quốc vương lệnh cho đóng hai chiếc thuyền lớn, trên thuyền lương thực và quần áo chất cao như núi. Mọi việc chuẩn bị xong xuôi, hai anh em bị gọi đến, mỗi người bị đưa lên một con thuyền. Ngày hai chiếc thuyền lớn chở hai anh em họ rời bến, dân chúng tụ tập dọc bên bờ xem rất đông.

         Quốc vương đã ban thưởng và trừng phạt hai anh em họ như vậy, còn người mẹ vẫn được ở lại trong nước. Quốc vương làm nhà cho bà ở, trợ cấp đầy đủ cho bà đến trọn đời, coi như ban thưởng vì bà đã giữ tròn bổn phận làm vợ.

         Hai chiếc thuyền phiêu bạt theo những con sóng xanh thẫm của phương nam. Chiếc thuyền của người anh sau mấy mươi ngày lênh đênh trên biển đã đến bên bờ một hòn đảo nhỏ. Người anh thấy trên đảo cây cối xanh tốt, nhiều hoa thơm quả ngọt, bèn quyết định lưu lại nơi đây. Sau đó vài năm, một chiếc thuyền gặp nạn dạt vào hòn đảo, trên thuyền có một gia đình thương nhân còn thoi thóp thở. Người thanh niên giết chủ thuyền, rồi cho con cái của gia đình này lưu lại trên đảo. Sau đó, người thanh niên cùng các con của thương nhân sinh con đẻ cái hết đời này đến đời khác. Đời sau tiếp tục sinh sôi nảy nở không dứt. Về sau lại có thuyền dạt vào đảo, cư dân trên đảo càng đông đúc thêm lên. Cứ như thế suốt vài trăm năm, cư dân trên đảo bắt đầu phân quân thần trên dưới, sau đó kiến thiết đô thành, xây nên rất nhiều thành trì và thôn xóm.

         Câu chuyện người thanh niên giết hổ đươc lưu truyền đời này sang đời khác như một truyền thuyết về tổ tiên trên đảo. Theo thời gian, không biết từ lúc nào hổ đã biến thành sư tử. Tổ tiên đã từng giết sư tử, đời sau bèn lấy sư tử làm quốc hiệu, gọi là Sư Tử quốc.

         Người em gái cũng tai qua nạn khỏi, chiếc thuyền lớn cuối cùng dạt vào phía tây nước Ba Tư, sau đó bị quỷ thần mê hoặc, sinh ra một đàn con gái. Đây là tổ tiên của Tây đại nữ quốc.

         Câu chuyện trên được ghi lại trong Đại Đường Tây vực ký của Huyền Trang Tam Tạng. Huyền Trang không đích thân đi qua Sư Tử quốc, có lẽ ông ghi lại truyền thuyết nghe được từ dân bản địa. “Người nước Sư Tử tướng mạo đen đúa xấu xí, to lớn, tính tình mạnh mẽ hoang dã, là giống còn sót lại của loài mãnh thú, cho nên người của họ dũng mãnh khỏe khoắn.”

         Đại Đường Tây vực ký ghi lại như vậy. Nhân tiện cũng nói luôn, nửa đầu thế kỷ thứ bảy khi Huyền Trang Tam Tạng đi Ấn Độ, cái tên Sư Tử quốc bị bỏ đi, thay bằng tên nước Tăng Già La, cũng chính là đảo Tích Lan (Sri Lanka) ngày nay. Còn Tây đại nữ quốc mà người em gái là tổ tiên thì ngày nay là đảo nào, đã không còn ai biết.

Văn học Nhật Bản Văn học phương Đông

HỒNG THỦY (Truyện của Inoue Yasushi; Phan Thu Vân dịch từ bản tiếng Trung)

HỒNG THỦY[1]

(Truyện của Inoue Yasushi; Phan Thu Vân dịch từ bản tiếng Trung)

Những năm cuối đời Hán Hiến Đế (tại vị từ năm 189 đến năm 220 Công nguyên), Tác Lệ dẫn một ngàn binh Đôn Hoàng ra khỏi Ngọc Môn quan với nhiệm vụ đi tới bờ sông Khố Mỗ của sa mạc Taklamakan để xây dựng căn cứ đóng quân mới. Cách biệt ba mươi năm, quân Hán lại lần nữa vượt qua biên ải, ra đến gần Tây vực.

Từ sau lần đầu tiên Hán Vũ Đế chính thức dùng vũ lực để đối phó với Tây vực, đến nay đã đằng đẵng hơn ba trăm năm. Trong thời gian này, Hán và Hung Nô vẫn đấu tranh không ngừng trên chiến trường Tây vực. Ngọc Môn quan và Dương quan lúc đóng lúc mở, uy thế nhà Hán từng có lúc vượt qua khỏi dãy núi Côn Lôn, còn Hung Nô cũng từng băng qua Ngọc Môn quan để tiến vào xâm lấn đến tận lưu vực sông Hoàng Hà.

Từ Tây Hán đến Đông Hán, các đời vua đều cảm thấy vấn đề Hung Nô là một thách thức lớn lao, không thể kê cao gối ngủ chẳng thèm bận tâm chuyện gì đang diễn ra. Muốn thu lại được Hà Tây tất phải đánh bại Hung Nô, mà muốn đánh Hung Nô tất phải nắm được Tây vực. Tuy vậy, đường đến Tây vực xa xôi hiểm trở, thêm vào đó người Hồ nay thế này mai thế khác rất khó lường, mà kinh phí cho việc nuôi quân lại quá lớn, vì vậy hết đời này đến đời khác, thế lực thống trị đều đành buông tay từ bỏ Tây vực sau một thời gian ngắn. Đây dường như là luân hồi không ngừng của định mệnh.

Tác Lệ tiến quân vào Tây vực, chẳng qua cũng là một lần luân hồi như vậy trong chặng đường lịch sử dài vô tận.

Ba mươi năm trước Hán từ bỏ Tây vực, nhưng những năm gần đây sự quấy rối của Hung Nô càng lúc càng trở nên quá quắt. Địa phận Hà Tây một năm nhiều lần bị vó ngựa sắt Hung Nô giẫm nát. Vì vậy, để một lần nữa quét sạch căn cứ địa của Hung Nô, Hiến Đế buộc phải phái binh vào Tây vực. Thế là nhiệm vụ xây dựng doanh trại quân sự chuẩn bị cho một lượng lớn quân Hán tiến vào được đặt lên vai Tác Lệ. Trong sách sử tuy có ghi lại rằng “Đôn Hoàng Tác Lệ, tự Nhan Nghi, hữu tài lược.” (Tác Lệ vùng Đôn Hoàng, tên tự là Nhan Nghi, là người có tài thao lược), nhưng trước khi đến đóng tại Tây vực, hoàn toàn chẳng ai biết được điều gì rõ ràng về chàng cả.

Từ xưa đến nay, binh sĩ được phái vào Tây vực đều là tù phạm hoặc thành phần bất hảo. Thời Vũ Đế, Trương Khiên lần đầu đi sứ Tây vực dẫn theo tất thảy là đám cường bạo man di; binh sĩ của Nhị Sư tướng quân Lý Quảng Lợi vào Đại Uyển xin ngựa tốt cũng toàn loại tội đồ bán mạng. Cho đến sau này, những người lập được chiến công hiển hách tại Tây vực như Ban Siêu, Ban Dũng… cũng không ngoại lệ, đều chiêu mộ kẻ tội đồ, phường lêu lổng trong thiên hạ để tổ chức thành đội quân của mình.

Đội quân quy mô lớn vào Tây vực mà còn như thế, thì không khó tưởng tượng một ngàn quân đi cắm đất lập doanh trại của Tác Lệ là đồ vô danh tiểu tốt đến cỡ nào. Vị võ tướng  ngoài bốn mươi tuổi, sinh ra ở vùng ven đã đặc biệt chọn ra những phần tử liều lĩnh nhất trong đội quân đóng tại biên cương Đôn Hoàng làm tùy tùng. Tiêu chuẩn duy nhất mà vị tướng yêu cầu ở mỗi binh sĩ là bờ lưng chắc khỏe để kéo được cánh cung căng cứng.

Tác Lệ và mọi người đều cho rằng một ngàn binh sĩ này một khi đã ra khỏi Ngọc Môn quan thì đừng nghĩ đến chuyện quay về đất nhà Hán nữa. Hôm ấy, cánh quân đi đầu của Tác Lệ thúc cho lạc đà tiến lên phía trước. Lúc đội quân cuối cùng rời khỏi tường thành Ngọc Môn quan khoảng hai trăm mét, bỗng dưng tất cả đều dừng lại. Tác Lệ không ra bất kỳ mệnh lệnh nào, chỉ muốn cho binh sĩ một cơ hội vĩnh biệt cố quốc. Đội quân tập hợp từ khi trời mờ sáng, nhưng thời gian chuẩn bị dài hơn nhiều so với dự tính, nên lúc này mặt trời đã lên rất cao, khiến người ta dễ dàng liên tưởng đến cái nóng khốc liệt của buổi trưa. Giữa ánh nắng rực rỡ, tường thành Ngọc Môn quan bày ra trọn vẹn cái hình dáng xám xịt, đầy vẻ u ám nặng nề.

Tác Lệ ngước nhìn lên vọng lâu chót vót của Ngọc Môn quan. Lúc rời mắt khỏi nơi ấy, nét mặt chàng kiên định trở lại, ánh mắt chàng khôi phục sự sắc bén thường ngày. Chàng truyền lệnh tiến bước.

Cả đời Tác Lệ trôi qua trong cuộc chiến trường kỳ chống Hung Nô, nhiều lần bị điều chuyển đến vùng biên giới, nửa thời gian của đời người đã rót vào cuộc chiến với dị tộc. Giờ đây, dù phải nhận lệnh tới nơi đâu, chàng cũng đều có thể giữ thái độ bình thản không lay động. Nhưng lần tiến binh Tây vực này khiến chàng ít nhiều mang chút cảm khái khác với mọi lần. Chàng hiểu rất sâu sắc việc xây dựng một căn cứ địa bé nhỏ giữa trung tâm thế lực lớn mạnh của kẻ địch có nghĩa thế nào. Đó chính là thời gian từ nay về sau sẽ không ngừng bị bào mòn trong những cuộc chiến không ngừng nghỉ với Hung Nô. Đó chính là mình sẽ thịt nát xương tan vì những chính sách thất thường của các nước Tây vực không sao lường trước. Hơn nữa để có thể sống sót, phải canh tác, mà cho dù may mắn trồng trọt chăn nuôi thành công được bên bờ sông Khố Mỗ thì muốn kiên trì dài hạn được trong sa mạc, dường như cũng là điều không thể. Triều đình nếu tích cực chi viện thì còn cầm cự được, bằng không, vận mệnh của các binh sĩ sẽ giống như đất vừa khai hoang, cuối cùng cũng bị bỏ rơi trong hoang mạc. Không thể quá trông đợi vào sự chi viện của triều đình. Nhà Hán ngày một suy bại, lại quá bận ổn định đối nội nên lúc nào chính sách ngoại vực cũng có thể thay đổi. Việc sáng ban lệnh ra chiều đổi ý đã thành thói quen của nhà cầm quyền những năm trở lại đây.

Trưa hôm đó, đội quân của Tác Lệ bước vào lòng sa mạc mênh mông vô tận. Từ ngày thứ ba trở đi, sa mạc biến thành những đồi cát thoai thoải trải dài trước mắt, vượt hết đồi cát này lại tiếp một đồi cát khác. Từ ngày thứ tư, quân đội dàn thành thế trận tiến lên phía trước. Tối hôm đó, họ tìm được một nơi có nhiều cây xanh để cắm trại. Trong đêm, không biết từ đâu có tin báo rằng xuất hiện mười mấy nam nữ ăn mặc kỳ lạ đến bán nước. Đó là người tộc Á Hạ.

Tác Lệ gọi một cô gái trẻ trong đám người ở lại lều của mình qua đêm. Người con gái không phản kháng. Thân thể nàng sáng lấp lánh như bôi một lớp dầu, da nàng lạnh như da cá. Nàng là con lai giữa người Hán và người Á Hạ, biết một chút tiếng Hán.

Nàng bảo cho Tác Lệ biết vùng quanh đây từng được gọi là Long Đô, là đô thành của Khương Lai. Cái tên bộ tộc Khương Lai này Tác Lệ lần đầu được nghe. Từ lời kể của người con gái, tuy không thể phán đoán được là thời đại nào, nhưng có thể hình dung tòa thành vô cùng lớn, lúc mặt trời mọc xuất phát từ cổng Tây thì sau khi mặt trời lặn mới đến được cổng Đông. Tòa thành được xây dựng trên mặt đồi phẳng gần hồ, một con sông lớn chảy dọc theo thành đổ vào hồ. Đứng trên nơi cao trong thành phóng tầm mắt nhìn bờ hồ phía tây, dòng sông giống như một con rồng uốn khúc về đó nằm ngơi nghỉ. Dưới chân thành, khoảng đất rộng lớn phủ một tầng muối rất cứng và dày. Những lữ khách qua đây phải trải lên mặt đất một tấm thảm len mới có thể giúp cho súc vật đi theo an giấc. Nơi đó bốn mùa trong năm không kể ngày đêm lúc nào cũng giăng đầy sương mờ, cho nên có lúc không thấy được mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Nơi đó không chỉ người Khương Lai cư trú, mà còn thêm rất nhiều yêu ma. Một đêm kia, trong hồ xuất hiện điều bất thường, rồi cả tòa thành lớn chìm sâu vào trong cát.

Ánh trăng chiếu qua vải bạt vào bên trong lều, Tác Lệ nhìn bóng hình người con gái đang kể chuyện giữa ánh trăng, lần đầu tiên cảm thấy mình bị nàng mê hoặc.

Ngày hôm sau, chàng cho người con gái ở cùng quân đội. Nhằm che mắt những binh sĩ tính tình lỗ mãng, chàng nghe theo lời khuyên của tùy tùng, để nàng cải dạng nam trang, đồng thời cho nàng cưỡi lạc đà đi theo gần mình.

Chỉ cần hai ngày, tất cả binh sĩ đều đã biết trong quân có đàn bà, song không ai đến gần nàng, vì họ đều sợ Tác Lệ.

Từ ngày thứ bảy trở đi, đội quân đã tiến vào vùng hoang vu mênh mông với địa chất sa thạch, chỉ có xương người và xương thú làm mốc chỉ đường, họ cứ thế đi mãi. Từ ngày này, liên tiếp trong ba hôm, hôm nào cũng thấy một thành quách không người. Tất cả thành quách đều bị chôn vùi một nửa trong cát. Các vọng lâu, tháp, tất cả kiến trúc đều ngả về phía tây. Vốn đây từng là thành ấp của người Hồ, cùng với sự biến đổi của thời gian, theo từng thời kỳ, từng nhiều lần trở thành nơi đóng quân của quân Hán và quân Hung Nô. Nhưng giờ đây, nơi này hoang vu không chút sinh khí, rõ ràng đã trở thành một đống đổ nát bị bỏ rơi trong sa mạc.

Đội quân vừa đi vừa ngắm nhìn những thành quách sắp bị cát vàng vùi lấp, đến ngày thứ mười thì tới một nơi cách đích đến ở bên sông Khố Mỗ nửa ngày đường. Hôm trước trời bắt đầu đổ mưa, đến hôm sau đã biến thành bão. Người, ngựa và lạc đà đều ướt như chuột lột. Mọi người dựng lều lập trại nghỉ chân trong mưa. Nước mưa thấm qua các tầng vải, ướt tận vào bên trong. Thân thể các binh sĩ như bị bao bọc bởi hàn khí của mùa đông.

Đêm đó, điều khiến người ta không ngờ là mười mấy binh sĩ nước Thiện Thiện đại diện cho Thiện Thiện đem lương thực tới tỏ lòng tiếp đón. Sau đó đến nửa đêm lại thêm ba thương nhân Quy Từ dùng lạc đà chở lương thực tới, nhưng là để bán. Nghe các thương nhân Quy Từ nói, bên bờ sông Khố Mỗ mà Tác Lệ chuẩn bị lập doanh trại có một thôn trang, khoảng hai ba ngày trước đại quân của Hung Nô đã đến đó tập kết.

Tác Lệ nghe vậy, dù đã nửa đêm, lập tức hạ lệnh cho quân đội tiến lên phía trước. Chàng muốn không bỏ lỡ thời cơ tập kích quân đội Hung Nô, một trận quét sạch bọn chúng. Quân đội xuất phát trong đêm tối, hành quân giữa trời mưa xối xả, mờ sáng thì tới được bên bờ sông Khố Mỗ, nhìn sang bên kia sông là nơi thôn tập kết của Hung Nô.

Chàng đứng bên bờ sông, trong ánh sáng le lói của sớm tinh mơ nhìn thấy nước sông đục ngầu đang cuồn cuộn chảy. Không cách nào qua sông được ngay. Nếu bây giờ có thể qua sông, thì việc tập kích quân Hung Nô, đánh đuổi chúng đi, sẽ thật là dễ dàng. Điều có vẻ rất đơn giản này trước mắt lại bị sông Khố Mỗ đang cuồn cuộn gầm thét gây trở ngại.

Tác Lệ vô kế khả thi, chỉ đứng lặng nhìn ra. Lau sậy bên bờ hồ mọc rất tươi tốt, song  chẳng kiếm được một cây nào đủ lớn để có thể trú mưa. Chàng đành để đội quân đóng lại ven sông, mặc mưa tuôn bão thổi. Cứ như thế, nửa canh giờ qua đi. Một thuộc hạ đến trước mặt chàng khi ấy vẫn đang nhìn dòng sông lớn đục ngầu một cách không chớp mắt, tâu rằng: “Từ xưa đến nay có truyền thuyết để làm nguôi cơn giận của thần sông, phải tế sống một người con gái. Hiện giờ, ngoài cách đó ra chẳng còn cách nào khác.”

Người này họ Trương, hơn mười năm nay đồng cam cộng khổ với chàng chốn sa trường. Chàng rất tin tưởng anh ta.

Nghe lời nói ấy, Tác Lệ lặng yên không đáp. Họ Trương tiến lên một bước, nói: “Thêm một ngày nữa mới qua sông, thế lực Hung Nô sẽ càng tăng thêm, như thế đối với chúng ta rất bất lợi.”

Tác Lệ vẫn lặng yên, một lúc sau mới đọc mấy câu: “Vương tôn kiến tiết, hà đê bất ích. Vương bá tinh thành, hô đà bất lưu. Thủy đức thần minh, cổ kim nhất dã.” (Ý nói: Bậc vương tôn mà có tiết độ thì đê không tràn. Bậc vương bá mà có lòng thành thì nước sông không chảy. Nước có thần minh, xưa nay đều thế.)

Chàng lập tức cho người lập đàn tế bên sông, rồi tới đó cầu khấn. Dù thế nào chăng nữa, chàng cũng không muốn đem người con gái kia ném xuống sông. Chàng định dùng phương thức lập đàn khấn thay cho nghi thức hiến tế để cầu cho sức nước sông Khố Mỗ giảm bớt. Nếu trước kia câu chuyện người đức độ trấn phục được dòng chảy của nước là thực, thì chàng cũng có khả năng làm được.

Sau một canh giờ cầu khấn, dòng nước đục ngầu có vẻ như vẫn y nguyên. Sức nước chẳng những không giảm, mà càng hung tợn. Chàng lại cầu khấn thêm một canh giờ nữa, nước bắt đầu tràn lên tận bờ. Chẳng biết từ khi nào, dòng chảy đục ngầu ấy đã tràn tới dưới chân binh sĩ, ngựa và lạc đà. Dầu vậy, chàng vẫn không rời đàn tế.

Người họ Trương đến bên chàng, một lần nữa đề nghị: “Cứ cầu khấn rồi chờ đợi ý thần như thế này, chẳng bằng ném ngay cô gái kia xuống sông. Thế chẳng phải nhanh hơn sao?”

Nhìn thấy Tác Lệ lộ vẻ chẳng thèm để ý, người đó lại nói: “Đã thế, phải lập tức đưa quân lên vùng cao, nếu không, người, ngựa và lạc đà đều sẽ bị nước cuốn đi hết.”

Lúc này Tác Lệ đột nhiên rút đao ra khỏi vỏ, miệng cắn ngang sống đao, ngửa mặt lên trời. Chàng trợn trừng mắt, những hạt mưa rơi tới tấp trên gương mặt. Binh sĩ đều nín thở tập trung nhìn vào vị chủ soái trước mắt. Thần thái chàng có một thứ âm khí làm người ta chùn bước. Chính lúc đó, đàn tế trước mặt chàng lật nghiêng, trong chớp mắt chìm vào dòng chảy cuồn cuộn đục ngầu, còn lại Tác Lệ với vẻ mặt dị thường vẫn đang giẫm lên dòng nước, đứng yên bất động.

Một lúc sau, chàng quay người lại, bỏ thanh đao đang ngậm trên miệng xuống, quay về phía binh sĩ thét lớn: “Lòng thành của ta không thể thông thiên chính là vì ác ma ở dưới sông này. Dù vậy, chỉ có thể dùng vũ lực để đánh bại nó, đợi nước rút rồi sẽ qua sông!”

Tiếng thét của Tác Lệ vọng đến tai binh sĩ nghe như sấm dậy.

Lúc đó mưa ngừng rơi, nhưng thế nước lại mỗi lúc một hung hãn hơn. Tác Lệ cho quân lùi về sau trăm mét, dàn quân ở phần đất cao, bố trí thế trận đâu vào đấy.

Các cung thủ nhất tề phóng tên vào lòng sông. Vô số mũi tên nhọn liên tiếp không ngừng rơi vào giữa dòng chảy đục ngầu, trong chớp mắt bị những lớp sóng vàng nuốt chửng. Sau khi đã phóng vài trăm mũi tên, quân đánh bộ cùng hét lớn một tiếng, đồng loạt bao vây bờ sông. Trong tiếng trống trận dồn dập, binh sĩ nhảy vào dòng sông đang dâng cao giận dữ, nước ngập đến hơn đầu gối, múa đao và thương đâm chém xuống mặt nước. Dòng sông sủi bọt tứ bề. Giữa cao trào cuộc chiến với dòng sông, vài binh sĩ đứng không vững, bị nước xiết cuốn đi.

Cuộc chiến cứ diễn ra liên tục cho đến chiều tà. Vì phải bày binh bố trận trên cao, đội ngũ bắt đầu rút dần từng tốp một. Dù trong mắt Tác Lệ đang chỉ huy chiến đấu, hay trong mắt những binh sĩ đang liều chết xông vào dòng nước lớn, không biết từ lúc nào, những dòng chảy vũ bão của dòng sông đã hóa thành một con yêu quái khổng lồ. Yêu ma uốn lượn thân mình, điên cuồng vật lộn, ào ạt đánh tới, có lúc rút về, rồi lại tấn công.

Đến tối, các binh sĩ đã sức cùng lực kiệt, ngã vật ra trên nền đất cao đang mấp mé nước, ngủ thiếp đi.

Ngày hôm sau, tuy mưa tạnh trời quang, nhưng sức nước không hề có xu hướng giảm đi, mà còn sâu và hiểm hơn hôm qua, với những dòng chảy cuồn cuộn xoáy hình phễu. Cuộc chiến chống sông Khố Mỗ đã bắt đầu từ lúc bình minh. Giống như hôm trước, các binh sĩ bắn tên, ném đá vào sông, khua đao múa giáo đâm xuống các dòng chảy. Đến trưa, khí trời bỗng chốc từ lạnh lẽo như giữa mùa đông chuyển sang nóng cháy như đang mùa hạ, những thanh đại đao và giáo dài mà các binh sĩ cầm trong tay trở nên sáng lấp loáng một cách khác thường dưới ánh nắng mặt trời. “Kẻ địch” không hề tỏ ra yếu thế. Cứ mỗi hiệp, sóng trào lại nuốt trôi vài binh sĩ.

Màn đêm lại dần buông xuống. Ba nước Thiện Thiện, Yên Kỳ, Quy Từ mỗi nước dẫn một ngàn binh sĩ vừa kịp tới. Bao năm nay họ bị Hung Nô ức hiếp khổ sở, đang mong mỏi nhà Hán đưa binh vào Tây vực, vừa nghe tin Tác Lệ xuất binh Tây vực, liền vội vã đến ngay, tuyên thệ quy thuận nhà Hán. Thế là Tác Lệ lệnh cho các binh sĩ người Hồ với tiếng nói và phong tục không giống nhau này liên tục ngày đêm tham gia vào cuộc chiến trước mắt. Đội quân bốn ngàn người dàn thành ba hàng ngang trên sa mạc trải đầy ánh trăng xanh. Trống trận vừa vang lên, các binh sĩ liền cao giọng thét to để tuyên chiến, và đâm thẳng tới dòng nước đang chảy xiết. Một đội quân rút về, đội khác lập tức tiến lên thay. Nhưng thế nước vẫn không suy giảm, vẫn cuồn cuộn thành những hố đen sâu thẳm dưới ánh trăng và vun vút lao về phía trước.

Cuối cùng, Tác Lệ quyết tâm tiến hành đợt tấn công quyết tử. Chàng lệnh cho tất cả ngựa của quân đội tập trung vào với nhau, những binh sĩ cường tráng nhất cưỡi lên trên, chuẩn bị để cả người lẫn ngựa cùng xông thẳng vào dòng sông đang ầm ào chảy xiết. Tác Lệ đích thân dẫn đầu hơn ba trăm kỵ binh. Lệnh vừa ban xuống, chiến mã đồng thời đạp lên cát vàng lấy đà lao thẳng xuống nước. Vị tướng không quan tâm đến điều gì khác, múa ngọn giáo dài, đồng thời cảm thấy thân thể mình và ngựa giống như một mũi tên vừa bắn khỏi cây cung, lao đi vun vút. Không biết bao lâu sau, Tác Lệ và ngựa đều bị vứt lại lên triền cát. Chàng ôm cổ ngựa lên bờ. Mấy mươi con ngựa đã đứng chờ ở đó, những tấm thân ướt rượt lấp lánh sáng dưới trăng. Có những con ngựa không người cưỡi, cũng có những kỵ binh không còn ngựa. Chiến mã cùng binh sĩ nối nhau bò từ dưới sông lên bờ không dứt.

Chỉ huy cho binh sĩ đứng thành hàng ngũ để kiểm tra quân số. Người và ngựa đều tổn thất quá nửa. Họ bị cuốn xa đến tận dưới hạ lưu. Để quay trở lại chiến địa, họ phải lội bộ gần canh giờ trên vùng đất đang bị nước nhấn chìm.

Quay về điểm tập kết, Tác Lệ lại hạ lệnh cho binh sĩ còn sót lại tiếp tục tấn công. Lần này chàng vẫn muốn xông lên dẫn đầu, nhưng chiến mã không nghe lệnh, chùn chân không muốn bước lên phía trước. Chẳng phải chỉ ngựa của Tác Lệ, mà tất cả chiến mã đều như thế. Tác Lệ tuốt đao thay roi để thúc ngựa, các binh sĩ cũng đồng loạt làm theo. Rút kinh nghiệm từ lần trước, lần này Tác Lệ và binh sĩ đều bỏ giáo, cầm đao. Cuối cùng, kỵ binh cũng tập hợp được thành một đoàn, dũng mãnh xông ra bờ sông.

Tác Lệ đến bên bờ sông, bất giác nắm chặt dây cương, giơ cao đại đao, ra lệnh khẩn cấp cho binh sĩ phía sau dừng bước. Dù vậy, vẫn có vài binh sĩ không kịp ghìm cương ngựa, bổ nhào vào lòng sông. Tác Lệ kinh ngạc đến lặng người. Chàng dường như không thể tin được vào mắt mình, nước sông vừa rồi vẫn còn dâng đầy tràn, không biết từ lúc nào đã rút đi một nửa. Dòng chảy vẫn cuồn cuộn, nhưng bên bờ đã lộ ra khoảng cách cao hơn mặt nước vài gang tay.

Tác Lệ gọi họ Trương. Anh ta đáp lời chạy tới, và cũng đứng ngây người ra ở đó, nhìn đăm đắm vào mặt sông. Toàn quân đâu đâu cũng dậy tiếng reo hò mừng chiến thắng trong trận đánh với dòng sông Khố Mỗ.

Nửa canh giờ sau, toàn quân phân làm vài nhánh lần lượt vượt qua dòng Khố Mỗ đã rút xuống. Sau đó, quân Hán, quân Thiện Thiện, quân Yên Kỳ và quân Quy Từ tụ tập làm một, không lỡ thời cơ để tập kích doanh trại Hung Nô cách sông khoảng năm sáu dặm.

Cuộc chiến mãi mờ sáng hôm sau mới hoàn toàn kết thúc, mà cánh quân truy đuổi tàn quân của địch mãi đến ba ngày sau mới quay trở về được hết. Tác Lệ từng trịnh trọng tuyên bố, chỉ cần một quân địch còn sống, cũng sẽ đuổi giết đến cùng không ngừng nghỉ.

*

Trong vòng một năm sau, Tác Lệ đoạt được thôn trang nhỏ bên bờ sông Khố Mỗ từ tay Hung Nô, tiến hành lập đồn điền vũ trang quy mô nhỏ. Trước tiên xây doanh trại tạm thời, sau đó dẫn nước từ sông Khố Mỗ vào khoảng đất rộng gần thôn để tưới tiêu đồng ruộng, khai khẩn đất đai. Binh sĩ các nước Quy Từ, Thiện Thiện… cũng không ngừng được phái tới hiệp trợ. Tác Lệ vừa đánh đã dẹp tan đại quân Hung Nô, danh tiếng truyền khắp Tây vực. Trận đánh uy dũng chinh phục sông Khố Mỗ khiến cho hơn ba mươi nước Tây vực xung quanh sa mạc Taklamakan đều cảm thấy vô cùng nể sợ.

Vì có Tác Lệ lập đồn điền bên bờ sông Khố Mỗ, sau đó một thời gian dài Hung Nô không dám xuất hiện tại nơi này. Quân Hán còn lập hai vọng lâu giữa phần đất đồn điền với Ngọc Môn quan để làm trạm trung chuyển. Các đoàn thương buôn từ Hán vào Tây vực ngày một nhiều. Đoàn buôn lớn nhỏ từ Tây vực cũng thường xuyên qua đây để đi vào đất Hán.

Giống như trước đây, tin tức rỉ tai nhau về việc thiết lập Tây vực Đô hộ đều từ miệng các thương nhân từ các đoàn buôn truyền ra. Đây chưa chắc đã là lời đồn thổi. Tại các nước Tây vực, tiếng kêu gọi thiết lập chế độ đô hộ vốn dĩ đã rất mạnh mẽ. Trên thực tế, các sứ thần Tây vực muốn dâng tấu thỉnh cầu triều đình nhà Hán thiết lập chế độ đô hộ quản lý Tây vực đều đã qua thôn trang nơi Tác Lệ đồn trú để đi về phía Đông.

Năm thứ hai, Tác Lệ bắt đầu xây sửa doanh trại và tường thành với quy mô lớn. Doanh trại được làm từ gỗ và gạch ngói, tường được trét thêm một lớp bùn, nóc nhà lợp cỏ gai. Bốn doanh trại lớn có sức chứa năm trăm binh sĩ được dựng lên, hai tòa vọng lâu ở cạnh doanh trại cũng được xây dựng. Tường thành không chỉ vây kín doanh trại, thao trường luyện binh mà còn vây hết cả thôn trang. Trong thành có chợ, chùa, còn có khu mộ địa chung. Các nước Tây vực cung cấp cho công trình cả sức người lẫn sức của. Giữa nơi thi công thường nổi lên âm thanh pha lẫn vào nhau của các loại ngôn ngữ địa phương như tiếng Hán, tiếng Hung Nô, tiếng Vu Điền, tiếng Lật Đặc v.v… Đứng trên tường thành phóng mắt nhìn ra, chỉ thấy bên dưới đất canh tác trải dài bốn phía, kênh đào chằng chịt nối nhau trên đất, bên cạnh các kênh đào còn trồng một ít cây bạch dương không cao lắm, như để chỉ dẫn đường chảy cho dòng nước.

Một nửa thuộc hạ của Tác Lệ chăm lo việc xây dựng và tu sửa thành trì, một nửa khác mỗi ngày đều cùng dân trong thôn ra ngoài thành canh tác. Năm thứ hai, trong lần thu hoạch đầu tiên, gạo và tiểu mạch mỗi thứ đã được năm mươi vạn thạch[2]. Sản lượng này hầu như mỗi năm đều tăng lên đáng kể.

Các binh sĩ quên mất chuyện đánh nhau, chuyên tâm lo việc đồng áng và xây dựng. Tác Lệ luôn sống chung với người con gái Á Hạ. Cô gái này trầm tư ít nói, không gây chú ý, nhưng chàng rất yêu nàng. Nàng không biết mình đã đem đến niềm an ủi lớn lao đến thế nào cho đời sống nơi đất Hồ của chàng. Trong doanh trại, chỉ mỗi nơi ở của Tác Lệ có sắc màu rực rỡ. Nền đất nện được phủ thêm chiếu cỏ lau, bên trên lại trải một lớp thảm nhung tươi tắn. Trên mặt đất bày bình nước, các giá trong phòng bày đĩa thủy tinh của phương Tây và các dụng cụ khác. Người con gái tuy không trang điểm, nhưng dùng những phục sức đẹp đẽ để tô điểm cho mình, nàng đeo nhẫn bằng đồng xanh mỏng, dây chuyền ngọc bích và hoa tai bằng bạch ngọc.

Vào đầu mùa thu hoạch tiểu mạch, tức vừa tròn một năm ngày Tác Lệ vào đóng tại Tây vực, triều đình thông qua Trưởng sử Tây vực trú tại Đôn Hoàng để ban thưởng cho chàng, đồng thời truyền lệnh cho chàng quay trở lại đất Hán. Tác Lệ tâu rằng công việc canh tác đồn điền mới vừa bắt đầu, nên hy vọng tạm thời vẫn lưu lại Tây vực. Qua sứ giả, chàng biết việc chàng giao chiến với sông Khố Mỗ đã được xưng tụng khắp nơi tại quê nhà. Sứ giả nói, tướng quân Lý Quảng Lợi đi sứ Đại Uyển được phong làm Nhị Sư tướng quân; nếu Tác Lệ về nước, chắc cũng sẽ nhận vinh dự giống như vậy; tin tức này đã được lưu truyền rộng rãi khắp kinh thành. Nửa đời Tác Lệ chẳng có duyên gì với công danh hiển hách, chàng đã tin tưởng một cách chắc chắn rằng đây chính là định mệnh của mình, nên đối với những vinh quang chưa bao giờ nghĩ đến, chàng có cảm giác sợ hơn là mừng.

Tác Lệ tuy chẳng tiết lộ nửa lời, song tin tức đã lan truyền nhanh chóng khắp toàn quân. Binh sĩ đều chìm trong khát vọng muốn trở về nhà, dù đi đến đâu, ai ai cũng chỉ nói một chủ đề này.

Người con gái Á Hạ cũng nghe tin, bèn tìm hỏi Tác Lệ. Chàng nói với nàng rằng trước mắt chàng hoàn toàn không có ý định quay về Hán. Người con gái vốn xưa nay không bao giờ biểu lộ cảm xúc trên nét mặt, nhưng khi nàng nghe Tác Lệ không hề có ý quay lại Hán thì niềm vui sướng trong lòng khiến đôi mắt của nàng đầy sức sống, nàng cũng trở nên hoạt bát hơn. Đôi mắt nàng lấp lánh, nói cười vui vẻ, cả ngày đeo hết trang sức này đến trang sức khác để làm đẹp. Những điều này khiến chàng cảm thấy vô cùng xúc động.

Tác Lệ triệu tập toàn thể binh sĩ, làm rõ những lời đồn đại trong quân, tuyên bố từ nay về sau vẫn phải chiến đấu trường kỳ với Hung Nô, dù là bất kỳ ai, nếu như còn nhắc đến chuyện trở về đất Hán, sẽ tuyệt không khoan dung, tội đáng chém đầu.

Lời của vị chỉ huy quả thật ứng nghiệm. Mấy ngày sau, binh sĩ liên tục trong vài hôm  phải bỏ công cụ cày cấy xuống để nắm lại đao và cung đã rất lâu không đụng tới, chiến đấu cùng kỵ binh Hung Nô hung hãn đến tập kích. Từ đó về sau, Hung Nô nhiều lần tấn công, các sĩ binh lúc thì cầm lưỡi cày canh tác, lúc lại đổi sang cung và đao để tác chiến, bận rộn đến mức không còn nghĩ được việc gì khác. Lời đồn trở về đất Hán cũng giống như nước sông Khố Mỗ lúc thủy triều xuống, rất nhanh đã trôi dạt và biến mất về phương nào.

Mùa hè năm thứ ba, tiểu mạch và thóc lúa đã thu hoạch được mỗi thứ một trăm vạn thạch. Lúc này chính vào thời điểm công trình xây dựng thành ấp cũng đã gần như hoàn thành, Tác Lệ quyết định cử hành một tiệc mừng công lớn kéo dài ba ngày trên mảnh đất mà chàng đã khổ tâm vun xới suốt ba năm. Ngày tiệc mừng được tổ chức, điều khiến người ta không dám tin là rốt cuộc không hiểu từ đâu mà có nhiều người Hồ đến như thế. Những người này mặc trang phục yêu thích của họ, tụ tập trong thành xem nghi thức lớn sẽ diễn ra.

Suốt ba ngày, mỗi tối Tác Lệ đều cùng người con gái Á Hạ đứng trên vọng lâu, nhìn thành ấp náo nhiệt khắp nơi rực rỡ ánh lửa. Lúc này, người con gái hỏi chàng: “Tổ chức một nghi thức trọng đại thế này, chẳng lẽ vì quân đội không lâu nữa sẽ rời khỏi nơi đây?” Chàng cười phủ nhận. Người con gái nhìn chăm chú vào đôi mắt chàng, lặng lẽ lắc đầu. Tác Lệ trách hỏi sao nàng không tin mình, nàng đáp: “Không phải em không muốn tin chàng, mà ngay cả chàng cũng không biết được vận mệnh mình sẽ ra sao, thì em sao có thể tin được?”

Nỗi lo của người con gái không phải là vô căn cứ. Cái vận mệnh mà đến Tác Lệ cũng không thể biết được và không thể tin được ấy, nửa năm sau đã rơi xuống.

Cuối thu, việc đồng áng vừa kết thúc, Tác Lệ bèn dẫn nửa số quân ra khỏi thành giao chiến cùng quân Hung Nô đang ngấm ngầm nổi dậy ở vùng tây bắc. Lúc ra khỏi thành, chàng nghĩ nhiều lắm không quá mười ngày có thể quay trở lại. Kết quả, trận chiến bị kéo dài ngoài dự kiến. Do một cánh quân Quy Từ câu kết với Hung Nô, lại thêm mưa đá rơi xuống sớm hơn năm ngoái gây trở ngại, chiến sự không thuận lợi, đội quân của chàng không thể lập tức rút lui, thành ra rơi vào thế hiểm nghèo.

Cuộc chiến bắt đầu lúc cuối thu, hai bên bất phân thắng bại. Khi quân của Tác Lệ cuối cùng cũng đuổi được quân Hung Nô về phương bắc, thì đã là đầu năm sau. Tác Lệ cùng binh sĩ đều gầy gò tiều tụy hẳn, so với lúc xuất phát khác nhau một trời một vực. Trong một ngày tuyết lớn, đội quân cuối cùng cũng về lại được thành. Đội quân cưỡi lạc đà dẫn đầu giương cao ngọn giáo dài treo thủ cấp của tướng Hung Nô như giương một lá cờ. Chiếc thủ cấp, lưng lạc đà và vai của các binh sĩ đều phủ đầy tuyết.

Tác Lệ về lại nơi ở quen thuộc sau bao ngày xa cách. Khi chàng nhìn thấy người con gái Á Hạ đang đứng trước cửa chờ đón mình, chàng cảm nhận được ngay nét mặt nàng có gì đó không giống trước. Người con gái dẫn chàng vào phòng khách. Trong phòng khách có một vị sứ giả nhà Hán. Để đợi Tác Lệ quay trở lại thành, vị sứ giả đã lưu lại một tháng. Sứ giả mang tới cho chàng mệnh lệnh quay về Hán, bên trên có đóng đại ấn của triều đình. Tại cố quốc, vinh hoa phú quý đang chờ đợi Tác Lệ cùng đội quân của chàng.

*

Lúc toán quân mới đến nơi đồn trú để thay thế Tác Lệ cùng đội quân của chàng thì  đã là tháng bảy, sanh liễu bắt đầu đâm chồi nảy lộc. Từ sau khi quyết định quay trở về Hán, Tác Lệ luôn bận rộn sắp xếp việc đồng áng và chiến đấu với những nhóm quân Hung Nô rải rác  thỉnh thoảng lại xuất hiện, dường như chẳng còn thời gian đâu để mắt đến người con gái Á Hạ. Song người con gái này dường như rất quan tâm đến vận mệnh của nàng. Liệu nàng có thể cùng Tác Lệ vào đất Hán không? Dù rằng vào được đất Hán rồi, liệu có thể cùng chàng tiếp tục cuộc sống như trước đây? Tất cả những vấn đề ấy vượt quá sức suy nghĩ của nàng, cái đầu nhỏ bé của nàng không thể giải quyết được. Mỗi khi nàng đề cập đến việc này, Tác Lệ đều đáp: “Tất nhiên, đưa em cùng đi.” Chàng quả thật dự định đưa nàng cùng quay về, chỉ là mỗi khi trong tâm trí chàng hiện ra những con đường Lương Châu và Tửu Tuyền đã lâu không đặt chân tới, thì không biết vì sao, chàng luôn cảm thấy người con gái man di này chẳng hài hòa gì với cảnh vật ở đó. Tóc nàng, mắt nàng, làn da và giọng nói của nàng, tất cả đều khiến chàng lo lắng. Tuy vậy, Tác Lệ lập tức gạt ngay suy nghĩ ấy ra khỏi đầu. Chàng vốn không phải là người giỏi suy nghĩ, huống chi đây là việc về sau, bây giờ chàng làm gì còn lòng dạ nào để nghĩ.

Binh lực của đoàn quân thay thế lớn gấp đôi quân của Tác Lệ. Chàng hoàn thành công tác chuyển giao với vị tướng trẻ kế nhiệm, rồi lưu lại trong thành ba ngày, vừa có chút lưu luyến với thành ấp mà chàng chăm chút bấy lâu, vừa để chờ lúc đẹp trời.

Hôm xuất phát, quân mới đến trấn thủ tiễn chân đội quân của Tác Lệ trong sự kính trọng đặc biệt. Vừa ra khỏi cổng thành đã thấy bên ngoài tập trung hơn hai trăm thôn dân đang chờ nói lời tiễn biệt cùng chàng. Binh sĩ hợp thành từng tốp cùng lạc đà và ngựa, kéo dài theo những con đường đi giữa đồng ruộng mênh mông do chính họ đắp nên, tiến lên phía trước.

Khoảng trời xanh nhạt cao cao, gió thổi lay động những cây bạch dương và sanh liễu, khiến người ta cảm thấy vô cùng sảng khoái.

Con đường từ ngoài thành vươn thẳng tít tạo nên một đường thẳng cắt ngang sông Khố Mỗ. Đến bên bờ sông Khố Mỗ, Tác Lệ phát hiện ra dòng sông lại đang dâng nước lên hệt như mấy năm trước khi đoàn quân muốn băng qua sông để đánh Hung Nô. Mặt sông rộng hơn đến mấy lần, nước ào ào chảy xiết.

Tác Lệ vắt óc nghĩ cách qua sông, trong lòng rất không muốn vì sông Khố Mỗ dâng nước mà lại phải quay về. Chúng thuộc hạ cũng đều cho rằng: quân Tác Lệ từng nhờ khuất phục được sông Khố Mỗ mà uy chấn thiên hạ, nay tuyệt nhiên càng không thể lùi bước.

“Ngoài việc nhất định phải cố gắng qua sông lần nữa, chúng ta không có lựa chọn nào khác.” Một thuộc hạ nói.

Tác Lệ quyết định cho quân tạm thời đóng lại qua đêm. Ban ngày rõ ràng trời rất trong xanh, nhưng đến nửa đêm bắt đầu đổ mưa, hơn nữa mưa mỗi lúc một dữ dội.

Đến mờ sáng, họ Trương lại vào lều của Tác Lệ, bày tỏ ý kiến: “Nước sông không ngừng dâng lên do mưa, còn băn khoăn do dự thì khó tránh khỏi việc rơi vào tình thế khó khăn, mấy ngày thậm chí đến mấy mươi ngày cũng sẽ không thể qua sông. Nếu nhất định cố gắng qua sông, phải tiến hành càng sớm càng tốt.”

Tác Lệ bảo họ Trương lại lều, một mình chàng bước ra bên ngoài. Trời vừa chuyển sắc trắng, chàng đội mưa đứng bên bờ sông quan sát. Lượng nước trong dòng chảy của sông rõ ràng đã tăng thêm rất nhiều so với hôm qua. Chàng đứng lặng rất lâu, một ý nghĩ bám chặt lấy tim chàng. Lần đầu tiên trong đời chàng cảm nhận một nỗi thống khổ khủng khiếp dày vò.

Chàng quay vào trong lều, nói với họ Trương đang căng thẳng chờ đợi: “Hiến tế nữ nhân.”

Giọng Tác Lệ rất thấp, nhưng rất rõ ràng. Họ Trương nghe được lời này, giật mình kinh ngạc, chỉ biết đứng đờ ra nhìn chàng. Nói đến phụ nữ, trong quân ngoài người con gái Á Hạ ra thì chẳng còn ai khác. Một lúc sau, họ Trương mới từ từ mở miệng, bày tỏ rằng anh ta rất cảm kích trước quyết định của chỉ huy, vốn dĩ chính anh ta cũng vì chuyện này nên mới tới đây, nhưng cảm thấy sợ nên không dám mở lời. Nói xong, họ Trương nhanh chóng bước ra khỏi lều.

Không lâu sau, tiếng gào thét bi thảm vọng tới bên tai Tác Lệ. Đó là tiếng người con gái Á Hạ ở lều bên cạnh bị lôi đi. Thanh âm này giống như tiếng kêu của loài chim rừng xé toạc màn đêm mà chàng nhiều lần nghe thấy lúc đóng quân giữa rừng núi trong cuộc chiến gian khổ với Hung Nô suốt từ mùa thu năm ngoái đến đầu năm nay.

Khi trời sáng, Tác Lệ cho quân tập trung bên bờ sông. Không biết từ lúc nào, mưa đã tạnh. Có lẽ chính là nhờ hiến tế một người con gái, sức nước của dòng sông đục ngầu dường như đã giảm đi.

“Bắt buộc phải nhân lúc này qua sông.” Người họ Trương nói như muốn giục Tác Lệ hạ quyết tâm.

Quân sĩ men theo bờ sông thuận dòng xuống phía hạ du vài trăm mét, chọn một chỗ thế nước có vẻ yếu nhất làm nơi qua sông. Đội quân phân làm vài nhánh, nhánh phía trước thử bước xuống nước, nhưng lạc đà, ngựa và người rất nhanh chóng bị nước đánh xuống phía hạ du. Mấy bọc hành lý buộc rất chặt trên yên ngựa cũng bị đánh bật ra, trôi trên mặt nước. Dù vậy, đội quân đầu tiên coi như cũng đã bình an đến được bờ bên kia. Họ Trương nhìn tình hình, tặc lưỡi: “Chẳng tốn một binh một tốt nào cũng có thể qua sông, chắc chính là nhờ đã hiến tế phụ nữ cho thần sông!” Tác Lệ lặng im không nói, nhưng nhất định chàng cũng đang nghĩ như vậy.

Đội quân tiếp tục sang sông. Tác Lệ kẹp trong cánh quân cuối cùng, thúc ngựa tiến vào giữa lòng sông. Thế nước so với lúc cánh quân đầu tiên qua sông có vẻ còn yếu hơn. Lúc đã bình an sang được bờ bên kia, trong lòng chàng một lần nữa xuất hiện cảm giác thương xót và cảm kích đối với người con gái Á Hạ đã hy sinh. Đồng thời, chàng cũng nảy ra cảm giác chưa từng có, nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng.

Đội quân tiếp tục tiến bước. Tác Lệ và họ Trương dẫn đầu. Đội quân vượt lên chưa được bao xa, họ Trương đột nhiên kéo cương ngựa kêu lên: “Nhìn bên kia!”

Tác Lệ nghe tiếng bèn dừng ngựa nhìn sang. Nơi đường chân trời phía xa xa, một khối gì đó như dung nham màu vàng đang từ từ nở rộng dần ra, lăn thẳng về phía họ. Tác Lệ không thể lập tức phán đoán được đó là gì. Cái khối này đang rất từ tốn nhưng vô cùng chắc chắn, băng qua toàn bộ sa mạc.

“Đó là cái gì?!” Tác Lệ thét lớn.

Họ Trương và binh lính xung quanh cũng không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Họ liên tục kêu lên với nhau: “Đó là cái gì? Đó là cái gì?”

Bỗng một người hét to: “Là nước, là hồng thủy!”

Bấy giờ mới thấy, cái thứ cuồn cuộn đang dần băng qua sa mạc kia quả thật là nước. Chắc chắn là hồng thủy, chỉ có thể là hồng thủy. Thứ hồng thủy vàng đục dường như đang vươn ra vô số cẳng chân khổng lồ khiến người ta kinh sợ, nhanh chóng lao tới bao vây lấy họ.

“Làm sao đây?” Họ Trương bên cạnh hỏi. Tác Lệ nhất thời cũng không nghĩ ra cách nào.

“Xuống dưới hạ du trước!” Tác Lệ hét.

Nhưng cho dù hướng nào chăng nữa, cũng không thoát khỏi bàn tay ma quái của “kẻ địch”. Để không bị hồng thủy nuốt chửng, cách duy nhất là phải xuống được hạ du của sông Khố Mỗ. Lạc đà, người và ngựa phút chốc trở nên hỗn loạn, tranh nhau chạy về phía hạ du. Họ vượt qua mấy đồi cát, chuyển hướng về phía đông nam. Nhưng không lâu sau, họ bị chặn mất đường, đành dừng lại. Vùng hạ lưu sông Khố Mỗ cũng dâng lên, biến thành một đầm nước mênh mông.

Đội quân lập tức đổi hướng về phía đông bắc. Nhưng chẳng bao lâu, lại bị nước chặn đường. Chính trong lúc không biết đã là lần đổi hướng thứ mấy, Tác Lệ nhìn thấy dòng nước vàng cuồn cuộn trông như một tấm thảm dày đang mở tung ra, chỉ còn cách họ có ba đồi cát, đang dần ập đến.

“Lên chỗ cao kia!”

Vốn chẳng cần đến lệnh của chỉ huy, đám người, ngựa và lạc đà như ong vỡ tổ đã tranh nhau phóng lên phần đồi cát cao. Trên gương mặt các binh sĩ lộ ra một vẻ quyết liệt giành mạng sống mà ngay cả trên chiến trường cũng khó lòng thấy được.

Tác Lệ nhắm một đồi cát để tiến tới. Người cùng súc vật quấn lấy nhau thành từng búi, giống như bị nam châm hút. Tác Lệ đứng trên đỉnh đồi cát, một lần nữa hướng về phía xa. Dòng chảy đục ngầu đang dìm dần bình địa và các ngọn đồi. Sa mạc mênh mông trong chớp mắt biến thành một biển bùn kéo dài vô tận không biết đâu là bờ. Bấy giờ, người ngựa líu ríu tụ vào nhau trên một ngọn đồi cao, dòng nước đã vọt đến đồi cát thứ ba trước mặt họ.

Trong chốc lát, Tác Lệ phát hiện ra một việc còn đáng sợ hơn. Từ đồi cát nhìn ra xa về phía tây bắc, nơi đó biển bùn không giống như chỗ khác, đang bắt đầu nổi sóng. Nơi đầu những ngọn sóng vàng đang cuộn lên, chàng nhìn thấy lộ ra một phần tường thành và vọng lâu. Dù xa như thế, nhỏ như thế, nhưng Tác Lệ không thể nhầm được, đó chính là thành ấp do chính tay chàng xây dựng và sinh sống cho đến tận ngày hôm qua. Có lẽ những ngôi nhà cùng đồng ruộng ở đó cũng đã toàn bộ bị nhấn chìm trong biển bùn.

Lúc này, Tác Lệ nghĩ không lâu nữa mình cũng sẽ bị dòng chảy đục ngầu kia nuốt chửng. Một sát na, trong đầu chàng vụt hiện lên cái đêm lần đầu chàng gặp người con gái Á Hạ, câu chuyện nàng kể về Long Đô. Ý niệm này chỉ chớp mắt là biến đi, để lại chàng với hiện thực khủng khiếp trước mắt. Tuy thời gian cấp bách, nhưng Tác Lệ vẫn giữ được chút bình tĩnh. Chàng cảm thấy trong người mình cháy lên một ngọn lửa giận dữ mãnh liệt, quyết tâm tấn công hồng thủy. Ngoài việc giao chiến cùng hồng thủy, quyết một trận thư hùng, thì giờ đây cũng chẳng còn cách nào khác.

Chàng lập tức hạ lệnh. Các binh sĩ liền phục tùng. Họ đều hiểu, cứ đứng im bất động thế này ở đây cũng chẳng có ý nghĩa gì cả.

Trống trận nổi lên dồn dập, bắn ra những âm thanh vang dội của chiến tranh. Đội quân phân thành hai nhánh, họ Trương và Tác Lệ mỗi người dẫn đầu một cánh quân. Cánh quân của họ Trương lao xuống đồi cát trước và bắt đầu tấn công. Lạc đà, ngựa cùng binh sĩ đều xông thẳng tới. Họ phi lên đồi cát, rồi lại phóng xuống. Tuy vậy, trong mắt Tác Lệ, cuộc tấn công có vẻ như hoàn toàn không có chút sức lực nào.

Khoảng cách giữa đội quân và dòng chảy đục ngầu kia mỗi lúc một gần. Trong khoảnh khắc mà hai luồng sức mạnh này gặp nhau ở dưới đồi cát, Tác Lệ nhìn thấy đội quân của họ Trương tựa hồ đột nhiên bị xóa sạch, tất cả chỉ diễn ra trong khoảng thời gian chưa hết một lần chớp mắt.

Cùng lúc đó, Tác Lệ hạ lệnh cho tàn quân tấn công. Đối diện với kẻ địch lớn mạnh lần đầu tiên chạm trán trong đời, toàn bộ thù hận và sức mạnh chống trả trong người chàng như kết lại thành một khối. Chàng vọt lên ngựa, khua ngọn giáo, xông lên dẫn đầu đội quân. Tiếng nước ầm ầm vang dội khắp trời đất.

Trong chốc lát, Tác Lệ nhìn thấy ngọn sóng lớn đục ngầu đang nuốt chửng một gò cát, được thể ào ào lướt sang phía này. Vô số ác hồn đang lăn lộn ập tới như phát điên. Tác Lệ nắm chặt cây giáo trong tay phải, vung lên qua đầu, cả người lẫn ngựa cao gần một trượng xông thẳng vào dòng chảy. Không thấy Tác Lệ đâu nữa. Rồi tất cả binh sĩ, ngựa và lạc đà phía sau Tác Lệ đều biến mất chẳng còn dấu vết. Tất cả chỉ trong chớp mắt.

Sa mạc đã hóa thành một biển bùn mênh mông, bầu trời u ám sập xuống, mặt trời đỏ như một vầng máu bắn lên in vào một góc trời, giống như ánh sáng của nhật thực, tĩnh lặng một cách kỳ lạ. Trong không gian vẫn vẳng tiếng ầm ào của nước lũ. Dòng nước ấy không ngơi nghỉ phút nào. Nó còn phải tiếp tục đi nuốt gọn những gì còn lại.

[1]   (日)井上靖 著,赵峻 译. (2013). 楼兰.北京十月文艺出版.

(Nhật), Inoue Yasushi, Triệu Tuấn dịch. (2013). Lâu Lan. Nxb Văn nghệ tháng 10 Bắc Kinh.

[2]   (1) Đơn vị dung lượng thời xưa: 10 đấu hay 100 thưng là một thạch. (2) Đơn vị trọng lượng thời xưa: 120 cân là một thạch. Cũng đọc là “đạn”.

Văn học Nhật Bản Văn học phương Đông

LÂU LAN (Truyện của Inoue Yasushi; Phan Thu Vân dịch từ bản tiếng Trung)

LÂU LAN

Inoue Yasushi

(Phan Thu Vân dịch từ bản tiếng Trung)[1]

 

1.

Thời xa xưa, có một nước nhỏ ở Tây vực gọi là Lâu Lan. Cái tên Lâu Lan xuất hiện trên sách sử phương Đông cổ đại vào khoảng những năm một trăm ba mươi đến một trăm hai mươi trước công nguyên, nhưng cái tên của nó biến mất khỏi sách sử khoảng năm thứ bảy mươi bảy trước công nguyên. Nghĩa là, trong lịch sử, sự tồn tại của quốc gia Lâu Lan này tính ra chỉ năm mươi năm, mà khoảng cách đến nay cũng đã hai ngàn năm rồi.

Người giới thiệu Lâu Lan đến với thế nhân là nhà thám hiểm Trương Khiên. Vào thời Hán Vũ Đế, ông đi sứ Tây vực, sau được phong làm Bác Vọng Hầu. Ngày nay phần lớn khu vực Tây vực nằm trong khu tự trị Duy Ngô Nhĩ, Tân Cương, Trung Quốc, lúc bấy giờ là vùng sa mạc hoang vu phía bắc Trung Quốc. Cái nơi được gọi là Hồ địa – đất mà người Hồ tập trung sinh sống, thuộc vùng đất ngoại tộc, nơi trở thành hành lang giao lưu văn hóa Đông Tây, hình thành con đường tơ lụa, ấy là chuyện rất lâu về sau này.

Thời Hán Vũ Đế, còn chưa có ai dám bước vào vùng hoang mạc ấy. Mọi người không biết sa mạc rộng đến đâu, cũng không biết nơi đó có dân tộc nào đang sinh sống, hay có quốc gia nào.

Hán Vũ Đế phái Trương Khiên đi sứ Tây vực hoàn toàn không phải vì sự hiếu kỳ đối với một vùng đất chưa ai biết tới, mà vì vượt qua vùng hoang mạc xa lạ kia sẽ đến được một quốc gia lớn tên là Đại Nguyệt Chi. Hán Vũ Đế muốn liên minh với quốc gia này để chinh phạt Hung Nô – thế lực vẫn luôn ỷ vào sức mạnh của mình đến nỗi dám uy hiếp triều đình nhà Hán. Nhà Hán từ thời Hán Cao Tổ đến Hán Vũ Đế, trong suốt hơn năm mươi năm đã không ngừng hạ mình gả công chúa cho Hung Nô, tặng không biết bao nhiêu lễ vật của cải, lại cho phép thông thương, nhưng Hung Nô chưa từng nguôi dã tâm xâm lược.

Thời ấy, các đời thiên tử Hán triều đều bó tay trước sự xâm lấn cướp bóc của Hung Nô. Hung Nô là dân tộc du mục, hoành hành khắp từ Siberia đến khu vực Trung Á, tính tình ngang tàng hung bạo, hết lần này đến lần khác tìm cớ tràn xuống phía nam xâm phạm biên cương nhà Hán. Những năm mất mùa đói kém, không năm nào là không phải đối phó với Hung Nô. Có thể nói, nhà Hán bấy giờ vì chiến đấu với Hung Nô mà tổn thất không biết bao nhiêu binh mã, sức cùng lực kiệt. Hán Vũ Đế lần đầu thảo phạt Hung Nô, có một người Hồ trong đám tù binh nói: “Hung Nô đánh Nguyệt Chi, lấy sọ của vua Nguyệt Chi làm đồ đựng rượu, Nguyệt Chi hận Hung Nô thấu xương, nhưng không ai hợp lực cùng họ để đánh Hung Nô, không biết phải làm sao cho đặng.”

Nghe được lời này, Hán Vũ Đế muốn phái sứ giả tới Đại Nguyệt Chi, thương thảo việc cùng nhau thảo phạt Hung Nô. Vũ Đế chiêu mộ sứ giả tới Đại Nguyệt Chi, Trương Khiên bèn xung phong đứng ra nhận lãnh trách nhiệm. Năm 139 trước Công Nguyên, Trương Khiên dẫn đầu một toán hơn trăm người từng là nô lệ của Hung Nô từ quận Lũng Tây đi vào Hồ địa, lúc quay lại lãnh thổ nhà Hán đã là mười ba năm sau, hơn một trăm người từng cùng ông ra đi chỉ còn một người quay lại được cố hương. Trên đường đi, Trương Khiên bị Hung Nô bắt làm tù binh, sau hơn mười năm mới có cơ hội trốn thoát, vượt qua sa mạc, cuối cùng đến được Đại Nguyệt Chi, hoàn thành sứ mệnh. Song trên đường quay về nước, ông lại bị Hung Nô bắt, rồi ông nhân có nội loạn mà trốn được ra ngoài, cuối cùng về đến cố quốc.

Năm thứ năm Nguyên Sóc (năm 124 trước Công Nguyên), Trương Khiên vào đô thành Trường An, dâng tấu lên Vũ Đế tường trình những việc đã trải qua, kể về tình hình phong thổ, sản vật… của các nước Tây vực trên đường đi sứ.

Lúc bấy giờ Lâu Lan cùng với các quốc gia vùng sa mạc như Thả Mạt, Vu Điền, Sa Chê, Yên Kỳ, Luân Đài, Quy Từ, Sơ Lặc v.v… mới lần đầu tiên xuất hiện trên sách lịch sử Trung Quốc. Tây vực truyện trong sách Hán Thư lần đầu tiên mô tả về Tây vực: Tây vực vốn có ba mươi sáu nước, sau đó phân tách ra, lúc nhiều nhất có đến hơn năm mươi nước, đều nằm phía Tây của Hung Nô, phía Nam của Ô Tôn. Nam Bắc có Thiên sơn, Côn Lôn sơn che chắn, giữa có sông Tháp Lý Mộc (sông Tamir) chảy qua, từ Đông sang Tây khoảng hơn sáu ngàn dặm, từ Nam đến Bắc hơn ngàn dặm, phía Đông giáp Ngọc Môn quan, Dương quan thông với phần đất của nhà Hán, phía Tây tới cao nguyên Pamir.

Tóm lại, xung quanh Tây vực là Thiên sơn, Côn Lôn sơn, cao nguyên Pamir, giữa hình thành sa mạc Taklamakan. Xung quanh sa mạc rải rác vài quốc gia nhỏ, các dân tộc không cùng màu da, tiếng nói, ngôn ngữ… sống đan xen với nhau. Trước thời Vũ Đế, Tây vực và Trung Nguyên cũng có liên hệ, nhưng đều là người dân tự đi lại với nhau, còn sự giao lưu giữa các quốc gia thì bắt đầu từ thời Vũ Đế.

Vừa ra khỏi Ngọc Môn quan, Dương quan là đến sa mạc mênh mông. Giữa sa mạc có hồ La Bố. Đương thời, người Hán gọi đó là biển Bồ Xương hoặc đầm muối. Bấy giờ hồ La Bố lớn hơn ngày nay gấp mấy lần, gọi nó là “biển” thì thích hợp hơn “hồ”, hàm lượng muối trong nước rất cao, sóng hồ rất mạnh. Hồ La Bố cách Ngọc Môn quan, Dương quan khoảng hơn ba trăm dặm. Dòng sông Tháp Lý Mộc lớn nhất giữa sa mạc Taklamakan đổ vào đây.

Quốc gia nằm bên bờ tây bắc của hồ La Bố, gần với Hán nhất chính là Lâu Lan. Đường từ Hán đến Tây vực qua Lâu Lan chia làm hai ngả: một ngả hướng nam, men theo triền núi phía bắc Côn Lôn sơn đi dần về phía tây; một ngả hướng bắc, men theo triền núi phía nam rặng Thiên sơn đi về phía tây. Từ Lâu Lan về phía nam có các quốc gia như Thả Mạt, Vu Điền, Sa Chê, Sơ Lặc, v.v… Từ Nguyệt Chi về phía bắc đi qua các nước Cô Sư, Yên Kỳ, Luân Đài, Quy Từ… có thể đến Ô Tôn, Đại Uyển, v.v… Cho nên, dù chọn con đường hướng nam hay hướng bắc, Lâu Lan đều là nơi bắt buộc phải qua trên hành trình từ Trung Nguyên đến các quốc gia Tây vực.

Trong Tây vực truyện, sách Hán thư, có đoạn viết về nước Thiện Thiện, chính là Lâu Lan về sau này: “Hộ thiên ngũ bách thất thập, khẩu vạn tứ thiên nhất bách, thắng binh nhị thiên cửu bách thập nhị giáp.” (nghĩa là “Một ngàn năm trăm bảy mươi hộ, một vạn bốn ngàn một trăm người, hai ngàn chín trăm hai mươi binh sĩ.”)

Theo đó có thể tưởng tượng ra phần nào quy mô của Lâu Lan – một nước nhỏ khoảng hơn một vạn bốn ngàn dân ven bờ tây bắc hồ La Bố. Người Lâu Lan thuộc nhánh người Iran của chủng Yalian, da ngăm đen, mắt sâu, mũi cao, đường nét trên gương mặt rất rõ ràng, góc cạnh, sống nhờ vào việc canh tác, du mục và bắt cá, làm muối từ hồ La Bố.

Trước khi Trương Khiên giới thiệu Lâu Lan đến với người đời (Hán), thì dân tộc này đã ở đó khoảng vài trăm năm. Trước khi thiết lập mối bang giao với nhà Hán, Lâu Lan luôn bị Hung Nô uy hiếp, thường xuyên chịu cảnh bị cướp bóc, chỉ có thể thần phục Hung Nô. Bên bờ hồ La Bố tươi đẹp, người Lâu Lan nương tựa vào nhau, nhờ vậy mà dân tộc nhỏ bé với chỉ hơn mười bốn ngàn người này mới có thể sinh tồn. Tuy sức lực mỏng manh của họ không thể phản kháng lại Hung Nô, nhưng chỉ cần cầm lấy binh khí, người Lâu Lan ai cũng dũng mãnh thiện chiến. Kỹ thuật cưỡi ngựa điêu luyện, bản lĩnh vừa cưỡi ngựa vừa bắn cung của họ đủ khiến cho các dân tộc khác phải kiêng dè.

Vũ Đế phái Trương Khiên đến vùng đất xa xôi này để mưu cầu việc liên kết tác chiến chống Hung Nô, nhưng nước nắm vai trò then chốt là Đại Nguyệt Chi lại tỏ thái độ ỡm ờ. Như vậy, Vũ Đế chưa nhận được kết quả mong đợi về sự hợp tác ngoại giao quân sự, nhưng lại thu hoạch lớn lao ngoài dự kiến, đó là nhận thức mới mẻ về các nước Tây vực.

Trong chiến lược đối phó với Hung Nô, các nước Tây vực đều có ý nghĩa và giá trị vô cùng to lớn. Nếu chi phối được Tây vực, có thể tạo thế uy hiếp từ nhiều cánh đối với Hung Nô, cũng có thể mượn binh lực của các nước để đánh Hung Nô. Ngoài ra, các nước nhỏ giữa sa mạc này đều sản xuất đồ kỳ trân dị bảo, như ngọc thạch, hổ phách, vàng, bạc, đồng, muối, hồ tiêu, rượu nho, lại còn có cả ngựa, trâu, voi, khổng tước, hà mã, sư tử, v.v… Sản vật phong phú, ngũ cốc dồi dào. Nếu mở rộng giao dịch buôn bán với họ, ít nhiều có thể bù đắp cho ngân khố trống rỗng sau những cuộc chiến với Hung Nô. Đối với Vũ Đế lúc nào cũng lo lắng về việc thiếu ngựa, thì những con tuấn mã của Đại Uyển lại càng có sức hấp dẫn đặc biệt.

Vũ Đế còn biết thêm tên của vài nước lớn xa xôi hơn cả các nước Tây vực, tuy không rõ Khang Cư, An Tức, Thân Độc (Ấn Độ) rốt cuộc ở vị trí nào, nhưng dường như các nước này đều rộng lớn giàu mạnh. Vũ Đế đặc biệt hứng thú với Thân Độc, một nước nóng như thiêu như đốt cách Đại Hạ hàng ngàn dặm về phía đông nam. Nghe đâu đường đến Thân Độc không bị Hung Nô quấy nhiễu, hơn nữa Thân Độc cũng mong muốn trao đổi buôn bán sản vật với nhà Hán. Đất nước này tạo được một ấn tượng sâu sắc trong lòng Vũ Đế.

Năm 122 trước Công nguyên, Trương Khiên phụng mệnh Vũ Đế đi sứ Tây vực lần thứ hai. Sứ mệnh lần này là đến Thân Độc cầu mối thông giao, nhưng giữa đường bị man tộc tây nam gây trở ngại, đành tay trắng trở về.

Năm tiếp theo, Trương Khiên đi sứ Tây vực lần thứ ba. Lần này, quân nhà Hán đã đánh lui Hung Nô, khống chế được vùng Đôn Hoàng vốn thuộc phạm vi thế lực của Hung Nô trước đây, đảm bảo cho con đường thông với Tây vực được rộng mở. Để không mất thời cơ thiết lập mối quan hệ hữu hảo với các nước Tây vực, Vũ Đế một lần nữa phái Trương Khiên tiến vào đất Hồ. Đó là năm 121 trước Công nguyên.

Người Lâu Lan lần đầu tiên nhìn thấy quân nhà Hán là vào lần thứ ba Trương Khiên đi sứ Tây vực. Ngày hôm đó, giữa những bức tường thành vây quanh nước Lâu Lan ven hồ La Bố, tin người Hán xâm phạm lãnh thổ truyền tới, trong chốc lát khiến trên dưới đều hỗn loạn. Ngoài thành, hàng ngàn con ngựa và lạc đà đều bị đuổi vào thành. Cánh cửa thành bảy cánh bị đóng chặt, tất cả đàn ông đều giáp trụ khí giới sẵn sàng, dàn trận ở những góc hiểm yếu trong thành.

Đứng trên thành lâu, mặt hồ La Bố phẳng lặng tựa một tấm lụa màu xanh lam. Nước hồ chứa nhiều thành phần muối, chỉ một cơn gió nhẹ thổi qua cũng khiến mặt hồ gợn sóng. Ngày hôm đó bình lặng quá, khiến người ta hoang mang không yên. Mặt hồ gần bờ có màu xanh lục trong như ngọc, phía xa xa loang dần ra thành màu lam thẫm. Từ trên bờ tường thành nhìn ra, phía bờ bắc của hồ có rừng cây trải dài vô tận tạo thành những đường uốn lượn mềm mại phía chân trời, với những hàng bạch dương điểm xuyết sanh liễu và các đám cây bụi lúp xúp, giống như một tấm lụa do tạo hóa dệt thành, với những sắc màu xen lẫn vào nhau một cách tự nhiên. Bờ nam của hồ mọc đầy lau sậy, che khuất cả bờ hồ, nếu không đến gần thì không thể nhìn thấy được mấy nhánh sông chảy đổ vào hồ.

Xung quanh thành quách có rất nhiều kênh đào, trên mặt đất phía ngoài rừng ở bờ bắc hồ, các kênh đào dệt thành hình lưới nhện, giăng mắc vào nhau uốn lượn suốt mấy dặm liền, giữa các kênh đào là khoảnh đất canh tác rộng lớn. Kênh do người đào, nhưng đa phần lợi dụng những dòng chảy của sông ngòi kênh rạch đã cạn khô từ xa xưa để dẫn nước sông Tháp Lý Mộc cách thành một dặm vào trong vùng canh tác. Quả thực, Lâu Lan tuy là quốc gia trên sa mạc, nhưng lại thuộc khu vực tam giác phì nhiêu được tạo nên bởi hồ La Bố và sông Tháp Lý Mộc.

Từ sông Tháp Lý Mộc về phương bắc có một con đường. Trên tường thành nhìn ra, phần lớn dòng sông bị khuất sau rừng cây ở hai bờ, chỉ lộ ra một chút màu lam thẫm. Mấy năm trước, sông này đổi dòng chảy ở một khúc nào đó, hai bên dòng sông mới không có rừng cây, gió thổi nắng thiêu, con đường song song với bờ sông cũng lộ ra dưới ánh nắng mặt trời.

Người Lâu Lan đứng trên tường thành nhìn dải đường phía xa xa, nơi những con người bé bằng hạt đậu nối nhau thành một hàng dài từ trong rừng bước ra, rồi sau đó rất lâu mới xuyên lại vào rừng cây. Ba người có nhãn lực tốt nhất phóng mắt quan sát, đếm số lượng người trong hàng ngũ vừa xuất hiện, mỗi người tiếp nhau lớn tiếng thông báo số lượng vừa đếm được. Từ tường thành lần lượt truyền đi thanh âm báo về tình hình quân Hán.

Có một ông già gầy guộc đã bảy mươi tám tuổi biệt hiệu “Lâu Lan thiên lý nhãn”. Ông nhìn rõ đội quân có ba trăm người, sáu trăm con ngựa, với số cừu và bò lên đến hàng vạn. Khi ông thấy một nửa số ngựa thồ các rương hành lý, vẻ mặt căng thẳng của ông dần giãn ra. Ông biết đoàn quân Hán không phải đến đây để gây chiến.

Không khí trong thành phút chốc thay đổi. Dầu vậy, không ai dám khinh suất. Hai ngày sau, trạng thái thời chiến trong thành mới được giải tỏa, mọi người đem tài sản từ trong hầm lên, lại thả lạc đà và ngựa ra phía ngoài thành. Mấy ngày sau đó, người Lâu Lan đều bàn tán suốt, vì sao đại quân nhà Hán vào Tây vực lại không phái sứ giả đến Lâu Lan mà đi thẳng một mạch về phía tây.

Nửa năm sau, người Lâu Lan mới nghe nói, quân Hán từ Lâu Lan đã đi theo con đường phía bắc, đến phía bắc sa mạc Taklamakan, thiết lập quan hệ hữu hảo với các nước thế lực hùng mạnh nhất ở phương bắc như Ô Tôn, sau đó toán quân phân thành nhiều ngả, tới Đại Uyển, Khang Cư, Đại Nguyệt Chi, Đại Hạ, An Tức, Thân Độc, Vu Điền, Phủ Di v.v… Hiển nhiên, quân Hán có ý né tránh Lâu Lan là nước nằm trong phạm vi thế lực của Hung Nô, cũng như né tránh luôn cả Cô Sư, cũng nằm tại cửa vào Tây vực như Lâu Lan, và cũng lệ thuộc Hung Nô.

Sau đó bắt đầu từ năm thứ hai, người Lâu Lan phát hiện các toán quân lớn nhỏ của nhà Hán hầu như mỗi tháng đều đi sang phía tây hoặc tiến về phía đông. Không chỉ quân Hán, còn cả mấy mươi người Ô Tôn dắt vài chục ngựa và lạc đà men theo dòng sông Tháp Lý Mộc để tiến vào đất Hán. Đại Hạ cũng có một nhóm nhỏ dắt ngựa và lạc đà, mỗi ngày hoặc cách ngày đều đi về phía đông. Tuy chẳng liên quan gì đến họ, nhưng người Lâu Lan thấy rất rõ mối quan hệ giữa Hán và các nước Tây vực đang ngày càng trở nên khắng khít.

Có lúc, để ra khỏi thành quan sát những kẻ lữ hành này với khoảng cách gần hơn, người Lâu Lan vượt qua đồng ruộng mênh mông, đến bên bờ sông Tháp Lý Mộc. Đây là việc chưa từng xảy ra từ lúc họ đến cư trú tại nơi này.

Người Lâu Lan nghe việc nhà Hán đánh bại Hung Nô, Hỗn Tà Vương của Hung Nô đã bị hàng phục. Họ tin rằng đây là việc không còn gì để bàn, và cho rằng Hung Nô từ đây sẽ không hung hăng xâm lấn nữa. Nghe những người lữ hành nói, Hán đã lập quận huyện ở căn cứ địa của Hung Nô trước đây như Tửu Tuyền, Đôn Hoàng; Vạn lý trường thành đã được tu sửa đến tận Tửu Tuyền; Ngọc Môn quan, Dương quan về phía tây của Đôn Hoàng đều đã dựng phong hỏa đài và trạm gác; hành lang kết nối giữa nhà Hán và Tây vực đã được tu sửa xong xuôi.

Việc chưa từng có trong lịch sử đã xảy ra: người Lâu Lan trong hai năm liền thoát được nạn cướp bóc của Hung Nô.

Người Lâu Lan lần đầu tiên tiếp đón sứ thần nhà Hán là vào năm thứ ba sau năm đầu tiên nhìn thấy quân Hán. Sứ giả lệnh cho nước Lâu Lan phải phái người tiếp tế lương thực và nước cho người Hán trong sa mạc sau khi qua khỏi Ngọc Môn quan và Dương quan để vào Tây vực. Cô Sư cũng nhận được mệnh lệnh tương tự.

Vì vậy, Lâu Lan gần như ngày nào cũng phải phái nhân lực đi vào sa mạc. Họ gánh trên vai rất nhiều lương thực và nước để nghênh tiếp người Hán, khổ không kể đâu cho hết. Người Lâu Lan bao năm qua đã nếm đủ mùi bị Hung Nô chèn ép bắt nạt, nay đến nhà Hán dựa vào uy lực nước lớn để ra lệnh sai bảo người Lâu Lan, khiến họ khó mà chịu đựng nổi.

Sau đó khoảng một tháng, đêm nọ, người Lâu Lan bị tiếng vó ngựa Hung Nô đã lâu không nghe thấy làm cho tỉnh giấc. Mười mấy kỵ binh Hung Nô xông thẳng vào cổng thành, hung hãn ngang dọc trong hành, báo cho người Lâu Lan biết rằng Hung Nô vẫn đang tồn tại. Trên mũi giáo dài của binh sĩ Hung Nô ngồi trên mình ngựa treo thủ cấp của quân Hán bị họ giết chết. Chiếc đầu còn đang nhỏ máu, ánh lên màu biêng biếc dưới ánh trăng.

Ngày hôm sau, các thanh niên Lâu Lan được phái vào sa mạc như thường lệ đã giết chết ba người Hán, cướp đồ đạc mà họ mang theo, chập tối mới về đến thành. Toàn thành đón họ trở về trong tiếng hoan hô vang dội. Người Lâu Lan cho rằng, dù sao cũng phải thần phục một phía, so với việc thần phục nhà Hán mà họ chẳng hiểu rõ ngọn ngành, chi bằng quy thuận Hung Nô vốn đã có quan hệ mật thiết nhiều năm.

Ngày tiếp theo lại có người Hán bị giết trong sa mạc, sau đó người Lâu Lan không còn vào sa mạc để cung cấp lương thực và nước cho người Hán nữa. Không lâu sau, một cánh quân Hung Nô tới đóng tại hai nước Cô Sư và Lâu Lan. Người Lâu Lan cũng vì vậy mà hết lần này đến lần khác tập kích người Hán.

Đầu mùa đông năm 108 trước Công nguyên, quân Hán lần đầu tiên mở cuộc chiến ác liệt giữa vùng sa mạc với quân đội Hung Nô xâm phạm Ngọc Môn quan và Dương quan. Tướng nhà Hán là Triệu Phá Nô soái lĩnh mấy vạn đại quân tiến vào Tây vực. Quân Hung Nô thua to, chạy về phía bắc. Quân Hán thừa thắng xông lên, chém giết đến tận ven bờ hồ La Bố, chuẩn bị tấn công Cô Sư và Lâu Lan.

Lâu Lan trong chớp mắt bị quân Hán bao vây. Quân Hán tấn công bất thình lình, Lâu Lan hoàn toàn không kịp trở tay. Tướng nhà Hán là Vương Khôi dẫn đầu bảy trăm thân binh tiến vào cổng thành, người Lâu Lan đành xin hàng. Quân Hán xông vào cung điện giữa thành, quốc vương bó tay chịu trói.

Vua Lâu Lan bị giải tới doanh trại của Triệu Phá Nô, bị bắt thề quy thuận triều đình nhà Hán, ngay trong đêm đó phải giao nộp thái tử cho quân Hán để làm con tin.

Sau khi quân Hán thu phục Lâu Lan, bèn tấn công tiếp đến Cô Sư, trấn áp Ô Tôn, Đại Uyển. Mùa xuân năm tiếp theo, quân Hán rút lui.

Quân Hán vừa rời Tây vực, Hung Nô nhân cơ hội lại hung hăng nổi dậy. Vua Lâu Lan cũng giống như lúc quy thuận nhà Hán trước đây, bị buộc phải thề trung thành với Hung Nô, đưa thái tử đi làm con tin.

Sau lần động binh đầu tiên với các nước Tây vực, Vũ Đế bắt đầu chính sách dùng vũ lực để đối phó. Đại Uyển cự tuyệt yêu cầu của Đại Hán lấy ngàn vàng đổi tuấn mã, chém sứ giả. Vũ Đế nổi giận, khởi binh thảo phạt Đại Uyển. Năm thứ hai Thái Sơ (năm 103 trước Công nguyên), Lý Quảng Lợi dẫn sáu ngàn kỵ binh và vài vạn sĩ tốt vào Tây vực đánh Đại Uyển. Do lúc bấy giờ các nước Tây vực từ chối cung cấp lương thực cho quân Hán, nên khi đội quân viễn chinh đến được Đại Uyển, đa phần binh sĩ đã vô cùng mệt mỏi đói khát. Quân Hán thua trận. Lý Quảng Lợi dẫn tàn binh quay lại Ngọc Môn quan. Vũ Đế nghe nói Lý Quảng Lợi chiến bại, vô cùng giận dữ, ra sắc lệnh “trong quân có ai dám vào cửa ải thì chém”, không cho quân bại trận quay về. Lý Quảng Lợi vì vậy mà phải ở lại Đôn Hoàng.

Năm tiếp theo, Lý Quảng Lợi lại dẫn sáu vạn quân ra khỏi Đôn Hoàng, lần này đem theo mười vạn con trâu, ba vạn con ngựa, còn vài vạn lừa và lạc đà; vũ khí lương thực đều trang bị đầy đủ.

Đại quân của Lý Quảng Lợi vừa qua bờ hồ La Bố, Lâu Lan đã nhận lệnh của Hung Nô xuất binh quấy nhiễu phía đằng sau. Quân Hán lập tức phát giác, cánh quân trấn thủ Ngọc Môn quan liền bao vây Lâu Lan. Bấy giờ tuy có kỵ binh Hung Nô chi viện, nhưng Lâu Lan vẫn không thể giải vây. Vua Lâu Lan một lần nữa bị quân Hán bắt làm tù binh.

Quân viễn chinh đánh phạt Đại Uyển báo tin thắng trận, vua Lâu Lan bị dẫn về kinh đô Trường An của nhà Hán. Quân viễn chinh bao vây, thu phục Đại Uyển, lấy đi mấy chục con ngựa tốt và hơn ba ngàn ngựa bậc trung của Đại Uyển.

Vua Lâu Lan khi bị thẩm vấn đã nói: “Lâu Lan là nước nhỏ kẹp giữa hai nước lớn Hán và Hung Nô, đắc tội với bên nào cũng đều khó mà sống nổi, bách tính khốn khổ lầm than. Hán muốn thống trị Lâu Lan thì chỉ có một cách, xin cho phép toàn bộ dân Lâu Lan chuyển vào cư trú trên đất Hán.”

Vũ Đế nghe xong, không nỡ giết, bèn đưa vua Lâu Lan trở về lại Lâu Lan.

Thu phục Đại Uyển xong, Hán cho xây dựng và tu sửa vọng lâu tại những điểm trọng yếu trên sa mạc gần hồ La Bố và Ngọc Môn quan, bảo đảm cho con đường từ Hán đến Tây vực được thông suốt; ngoài ra, còn đặt các đồn vài trăm binh sĩ tại Luân Đài và ven bờ sông Tháp Lý Mộc. Từ đó về sau, Lâu Lan dù muốn dù không, cũng phải chịu sự quản lý của nhà Hán. Năm Chinh Hòa thứ tư (năm 89 trước Công nguyên), Hán đánh Cô Sư, Lâu Lan nhận lệnh nhà Hán xuất binh tham chiến, giao tranh cùng quân Hung Nô chi viện cho Cô Sư, kết quả thương vong không biết bao nhiêu mà kể.

Lâu Lan bị kẹp giữa Hán và Hung Nô, vua Lâu Lan vì thế đêm ngày lo nghĩ không yên, lâu dần thành bệnh mà qua đời, ngôi vị không người thừa kế. Hai con trai của vua, một người làm con tin ở Hung Nô, một người làm con tin cho nhà Hán. Người con trưởng làm con tin trên đất Hán phạm hình luật, bị khép vào tử tội, còn người con thứ đưa đi Hung Nô thì bặt vô âm tín. Người Lâu Lan chẳng có cách nào khác, chọn ra một vị thân vương kế thừa ngôi báu. Tuy nhiên, vua mới vừa kế vị, Hán và Hung Nô lại đòi con tin. Vua mới đành phải đưa con trưởng An Quy đến Hung Nô, con thứ Úy Đồ Kỳ vào Hán.

Hán Vũ Đế vốn rất tích cực trong việc quản lý cai trị Tây vực, song đến khi về già, mệt mỏi vì tình hình ngân khố quẫn bách, lòng người rời rạc, cùng chiến sự liên miên, đã dần mất đi nhiệt tình từng có. Hung Nô lại nghênh ngang ra vào các nước Tây vực, thế lực càng lúc càng lớn mạnh. Các quốc gia từng một thời thần phục nhà Hán dần quay lưng. Lâu Lan cũng thuận thế theo thời mà xa Hán, thân Hung Nô.

Vua mới của Lâu Lan cũng vì việc bị kẹp giữa hai nước lớn mà tâm lực đều hư tổn, kế vị được vài năm cũng lìa đời. Hung Nô đưa người con trưởng An Quy đang làm con tin tại Hung Nô về Lâu Lan kế vị. An Quy lúc ấy hai mươi tám tuổi, sau khi kế vị thì theo chính sách thân Hung Nô phản Hán. Vị vua trẻ biết rõ cha mình và quốc vương trước đó đã khổ sở như thế nào khi phải đứng giữa hai nước lớn, mà bản thân vua lại sống trên đất Hung Nô nhiều năm khiến vua dễ gần với Hung Nô hơn, ở Hung Nô cũng còn rất nhiều bằng hữu.

Chính sách thân Hung Nô phản Hán của vị vua trẻ nước Lâu Lan rất nhanh được thể hiện ra bằng hành động cụ thể. Kế vị không lâu, Hán phái sứ giả khuyên tân vương vào triều bái kiến thiên tử, An Quy từ chối. Không chỉ vậy, là thành viên trong chiến lược liên minh của Hung Nô, An Quy còn gây trở ngại cho giao lưu giữa Hán và các nước Tây vực. Sứ giả nhà Hán đi sứ Tây vực và sứ giả các nước Tây vực đến Hán triều kiến, lúc đi qua địa phận gần hồ La Bố thường hết lần này đến lần khác bị người Lâu Lan tập kích.

Mấy năm sau khi An Quy kế vị, quân đội Hung Nô nghiễm nhiên ra vào thành Lâu Lan. Trong ngoài cổng thành lúc nào cũng có thể thấy hàng bầy ngựa trắng của Hung Nô. Đây cũng là thời điểm Hán Vũ Đế mất, Chiêu Đế kế vị.

Trong các quốc gia Tây vực, ngoài Lâu Lan công khai quy thuận Hung Nô còn có Quy Từ. Quy Từ thuộc đất tranh chấp giữa Hán và Hung Nô, cũng là quốc gia kẹp giữa hai nước lớn như Cô Sư và Lâu Lan. Thời điểm ấy, hai quốc gia nhỏ đối diện nhau qua sa mạc cuối cùng cũng đã từ bỏ chính sách làm hài lòng cả hai nước lớn, quyết tâm quy thuận Hung Nô để giữ nước, yên dân.

Thế nhưng, thái độ này của Lâu Lan và Quy Từ không sớm thì muộn cũng bị nhà Hán trả đũa. Vua An Quy biết điều này, chỉ là cái ngày ấy đến sớm hơn vua dự đoán.

Mùa thu năm 77 trước Công nguyên, Lâu Lan tiếp rước sứ thần Phó Giới Tử của nhà Hán. Đây là lần thứ hai Phó Giới Tử đi sứ Lâu Lan, lần trước là để khiển trách thái độ thân Hung Nô của Lâu Lan. An Quy ngoài mặt nhận tội, nhưng Phó Giới Tử đi rồi, chính sách quốc gia của Lâu Lan vẫn không hề có chút gì thay đổi. Lần này sứ thần vẫn là Phó Giới Tử, An Quy khó tránh cảm giác nặng nề. Quân đội Hung Nô ngày thường vẫn đóng ở gần đó vừa khéo lại mới giải tán. An Quy tuy rất không sẵn lòng, nhưng lại chẳng thể không chiêu đãi sứ thần nhà Hán trong cung điện.

An Quy bày tiệc nơi đại sảnh, Phó Giới Tử mang theo hai tùy tùng đến dự. Hoàng tộc và các trọng thần của Lâu Lan đều ngồi quanh sứ thần nhà Hán.

Tiệc rượu đến quá nửa, Phó Giới Tử bảo có lời muốn thưa riêng cùng vua An Quy. An Quy muốn nghe, bèn ngả người về phía Phó Giới Tử. Hai thanh niên người Hán ngồi phía góc phải của An Quy trong nháy mắt rút dao đâm vào lưng vua. Tất cả người ngồi quanh đều kinh hãi. Phó Giới Tử bật dậy, trợn mắt, hét to lên một tiếng. Chỉ thấy mắt sứ thần trông như Kim Cang hộ pháp, sát khí đằng đằng, giọng như sấm dậy: “Vương phản Hán bị thiên tử diệt, lập Úy Đồ Kỳ đang làm con tin nhiều năm tại Hán làm tân vương, theo quân Hán trở lại Lâu Lan. Các ngươi chớ phản loạn mà mất nước!”

Nhân lúc mọi người xung quanh đang hoảng hốt, Phó Giới Tử nhào tới rút đao chặt đầu An Quy.

2.

Sứ giả thông báo cho Úy Đồ Kỳ đang làm con tin tại Trường An sự việc hoàng huynh của chàng đã chết, lệnh cho chàng lập tức về nước nhận ngôi vua Lâu Lan.

Úy Đồ Kỳ dâng tấu thỉnh cầu lưu lại Trường An vài ngày rồi mới rời đi: “Tôi nay về Lâu Lan, tất lập tức sẽ bị Hung Nô giết chết. Phía nam Lâu Lan có thành Y Tuần đất đai màu mỡ, cây cối tốt tươi, khẩn thỉnh phái quân Hán đồn trú tại nơi đó. Uy thế của quân Hán có thể khiến Lâu Lan thoát khỏi gông cùng kìm kẹp của Hung Nô. Nếu không được như vậy, tôi không đủ lòng tin có thể cai trị Lâu Lan.”

Không lâu sau, triều đình chuẩn tấu, phái một quan Tư mã và bốn mươi binh sĩ đến Y Tuần đồn trú.

Hai tháng sau khi vua Lâu Lan là An Quy bị Phó Giới Tử hành thích, Úy Đồ Kỳ được quân Hán hộ tống rời khỏi Trường An, qua Tửu Tuyền, Ngọc Môn quan, qua sa mạc Bạch Long Đôi[2] “trên không có chim bay, dưới không có thú chạy”, từ xa xa nhìn ra đã thấy được những cánh rừng ven bờ hồ La Bố sau nhiều năm ly biệt.

Được biết Úy Đồ Kỳ quay về, người Lâu Lan tụ tập tại cửa thành, nhìn tân vương một cách lạnh lùng nghi ngại. Lúc Úy Đồ Kỳ đang vào cổng chính của thành, một đứa trẻ chưa đầy mười tuổi hét lên: “Không được bán đứng Hà Long!”

Hà Long là thần được người Lâu Lan sùng bái.

Úy Đồ Kỳ bước thêm vài bước, một bà già vừa giơ nắm đấm lên như muốn đánh tân vương, vừa hét: “Rời khỏi Lâu Lan là sẽ chết!”

Úy Đồ Kỳ không thể lý giải lời của đứa trẻ và bà già. Vương cung do quân Hán canh giữ gắt gao, những thành viên hoàng tộc quen thuộc tuy đều ra nghênh tiếp, nhưng thái độ với tân vương rất lạnh lùng xa cách.

Úy Đồ Kỳ diện kiến tướng Hán được lệnh lưu lại giữ Lâu Lan để phòng nội loạn và Hung Nô. Tướng nhà Hán nói: “Quân Hán sẽ đến Y Tuần rất nhanh thôi, xin tân vương nhanh chóng rời khỏi nơi này, đưa người Lâu Lan dời đến Y Tuần.”

Câu nói này như sét đánh giữa trời quang, khiến Úy Đồ Kỳ sửng sốt.

Nước Lâu Lan ven hồ La Bố không cách nào thoát khỏi sự ức hiếp của Hung Nô. Nếu muốn thoát khỏi vòng kìm kẹp của Hung Nô, quy thuận Hán triều, Lâu Lan tất phải dời về phía Nam, nếu không thì bao nhiêu quân binh Hán được phái đi cũng sẽ chẳng tác dụng gì. Đây là sự sắp đặt của triều đình nhà Hán dành cho Lâu Lan.

Úy Đồ Kỳ yêu cầu quân Hán đóng tại Y Tuần, nhưng chưa từng nghĩ đến việc toàn quốc phải thiên di. Đối với người Lâu Lan, hồ La Bố chính là thần, là tổ tiên, là gốc rễ của sự sống và cái chết. Người Lâu Lan không thể tưởng tượng nổi không có hồ La Bố, không có sông Tháp Lý Mộc rót vào hồ La Bố, không có đầm nước rừng cây ven hồ, không có gió vờn nắng chiếu trong những đám cỏ lau, nước Lâu Lan và người Lâu Lan rồi sẽ ra sao.

Úy Đồ Kỳ ban bố mệnh lệnh đầu tiên sau khi trở thành vua, triệu tập thành viên hoàng tộc từ mười tuổi trở lên và tất cả trọng thần nguyên lão, giải thích rõ với họ sự việc khẩn cấp mà nước Lâu Lan phải đối mặt. Nhưng mọi người đã biết tin từ tướng nhà Hán, và tưởng rằng đây là âm mưu mà Úy Đồ Kỳ cùng người Hán lập ra. Úy Đồ Kỳ giải thích mãi mới giải trừ được những hiểu lầm và thù hận trong lòng mọi người.

Thành viên hoàng tộc, các trọng thần và nguyên lão mỗi ngày đều tranh luận không ngừng. Chẳng ai tán thành việc dời cả quốc gia khỏi ven bờ hồ La Bố, nhưng hiện giờ, đây là mệnh lệnh không cho phép kháng cự. Trước mắt chỉ có hai con đường: hoặc mạo hiểm tính mệnh của quốc gia để phản kháng, hoặc tạm thời khuất phục, chọn địa điểm gần Y Tuần để lập một thành đô tạm thời.

Cuối cùng mọi người quyết định: tạm thời khuất phục Hán, từ bỏ thành ấp Lâu Lan, đi về phía nam kiến lập quốc gia mới, cố gắng làm cho dân giàu nước mạnh dưới sự bảo hộ của nhà Hán, rồi dần tìm cơ hội quay trở lại ven hồ La Bố.

Một tháng cuối cùng, thành Lâu Lan đêm đêm đèn đuốc sáng trưng, bàn tế lễ bày ra khắp nơi, mọi người đều chộn rộn không sao ngủ được, nam phụ lão ấu đi lại khắp trên những nẻo đường thắp đuốc sáng rực rỡ.

Sau đó, Lâu Lan chọn địa điểm mới cho quốc đô, là một khoảng bình nguyên cách thành Y Tuần không xa, ven bờ nam của một hồ nhỏ hơn hồ La Bố rất nhiều. Địa điểm của thành đô mới quyết định việc sau này mọi người không hẹn mà đều gọi nó là “Thiện Thiện”, trong ngôn ngữ của họ nghĩa là “dòng nước mới”. Họ không mảy may có ý giữ tên nơi mới này là “Lâu Lan”. Rời khỏi hồ La Bố thì không còn Lâu Lan, cũng không còn người Lâu Lan nữa.

Đô thành Thiện Thiện và lịch dời nước đã định xong, người Lâu Lan bận rộn suốt hơn hai mươi ngày. Họ chưa từng nghĩ đến, đồng thời cũng không muốn tin rằng vĩnh viễn phải từ bỏ vùng đất dày công tạo dựng suốt bao năm qua. Điều thay đổi có thể chấp nhận được là: giờ đây họ không dựa vào Hung Nô nữa mà chuyển sang sống dưới sự bảo hộ của nhà Hán, giống như bao lần thế cuộc đổi dời trước đây. Họ tin tưởng rằng trước khi Hung Nô hoàn toàn bị Hán đánh đuổi khỏi Tây vực, việc tránh Hung Nô mà di dời về phía nam có thể giúp họ sống yên ổn dưới sự bảo hộ của Hán.

Người Lâu Lan trốn khỏi tầm quan sát của binh lính Hán đang giữ thành, tìm kiếm khắp nơi ven hồ La Bố một chỗ để giấu tài sản. Có người thậm chí còn chạy ra ngoài đến vài dặm. Trong số tài sản có ngọc Vu Điền tìm được vào đêm trăng sáng, có ngọc quý vớt dưới đáy sông lúc dòng Tháp Lý Mộc cạn khô, có ngọc bội, có túi đeo được dệt thủ công, có tơ lụa mềm mại lấp lánh, có giày vải được làm một cách tinh xảo, còn có cả sừng động vật quý hiếm và các đồ mỹ nghệ được làm từ sừng. Người Lâu Lan phải mang những thứ này cất giấu vào chỗ tuyệt đối không ai phát hiện ra, đợi khi quay về đô thành cũ sẽ tìm lại báu vật. Có người còn không ngại những tiếng kêu quái dị của loài chim được gọi là “bò yak của hồ” để tiến vào giữa rừng sâu, có người trèo lên cây cổ thụ đã chết khô bên hồ. Mọi người không kể ngày đêm tìm chỗ cất giấu của báu.

Sau khi tài sản đã được giấu kỹ, người Lâu Lan phân thành từng toán rời khỏi thành, đến ven hồ La Bố, bên các nhánh sông Tháp Lý Mộc, bên những đầm nước mọc đầy cỏ lau, những kênh đào khô cạn nhìn thấy tận đáy trắng xóa và những nơi liên quan đến nước để lập đàn tế, đốt lửa tế lễ trước thần bảo hộ Hà Long của họ.

Chính trong lúc người Lâu Lan sắp từ bỏ thành ấp ven hồ La Bố mà họ đã cư trú từ đời này sang đời khác, dời đến đô thành Thiện Thiện cách đó hơn tám trăm dặm, thì có hai sự việc xảy ra.

Sự việc thứ nhất là cái chết của một vương phi già. Bà góa bụa từ khi còn trẻ, người con trai duy nhất bị đưa đến Hung Nô làm con tin, thực là một phụ nữ bất hạnh. Mấy năm gần đây bà ốm liệt giường, rồi chết trong nhà đúng vào sáng sớm hôm nước Lâu Lan chuẩn bị dời đô. Vì bà là thành viên hoàng tộc, tang lễ phải được tổ chức long trọng, nên việc dời đô của Lâu Lan đành hoãn lại một ngày. Trên đầu vương phi già đội một chiếc mũ dải hồng mà thường ngày bà vẫn đội, người mặc áo liệm, bên trong lót vải đen.

Những người đưa tang lần lượt bước ra khỏi kinh thành đã sắp biến thành phế tích, khiêng quan tài lên núi, bỏ xuống mộ huyệt sâu hun hút, lấp đất phủ đầy, rồi mang vài phiến đá lớn đặt lên trên. Mọi người cứ đứng mãi chẳng muốn rời, vừa tiếc thương cho người quá cố, vừa như để nói lời từ biệt cùng hồ La Bố dưới chân núi.

Sự việc thứ hai là trong đêm mà vương phi già qua đời, vương phi của tiên vương An Quy tự tận tại phòng riêng. Người phát hiện ra nàng đã chết là một thị nữ, chỉ thấy nàng trang điểm vô cùng lộng lẫy, mặc y phục tuyệt đẹp, miệng ngậm cỏ độc, đã tắt hơi trên giường ngủ, gương mặt không hề có nét đau đớn nào.

Người đau đớn nhất trước cái chết của vương phi An Quy là Úy Đồ Kỳ. Chàng đã đem lòng yêu vương phi trẻ trung xinh đẹp của người anh đã mất, thầm tính sẽ lấy nàng làm vợ. Đây không chỉ là suy nghĩ riêng của Úy Đồ Kỳ, mà còn là hy vọng của tất cả vương tộc và toàn thể người dân Lâu Lan. Người Lâu Lan vô cùng yêu quý vị vương phi này của họ. Tất nhiên, Úy Đồ Kỳ chưa từng thổ lộ suy nghĩ của mình ra với bất kỳ ai. Mỗi ngày chàng đều bận rộn với việc dời đô cấp bách ngay trước mắt, cũng như bao việc vụn vặt dồn dập khác. Chàng định sau khi dời đô về Thiện Thiện sẽ thương lượng cùng với mọi người việc lập phi, tranh thủ sự đồng tình của tất cả để xe duyên cùng người chàng thương mến.

Vậy mà vương phi của tiên vương lại đột nhiên tự tận. Người Lâu Lan không ngừng bàn tán, có người bảo vận mệnh bi thảm của tiên vương khiến nàng quá bi thương, có người đoán nàng không muốn rời khỏi mảnh đất đã an táng tiên vương, cũng có người nói nàng tuẫn táng cùng thành Lâu Lan đang sắp bị biến thành phế tích. Không ai thật sự hiểu rõ nguyên nhân cái chết của nàng. Nhưng điều khó tin là mọi người đều bình thản tiếp nhận cái chết của nàng, chẳng chút ngạc nhiên, dường như đó là việc sớm muộn gì cũng phải xảy ra cuối cùng đã xảy ra. Mọi người chỉ cảm thấy kỳ lạ rằng sao mình không phát giác sớm hơn một chút.

Sự việc xảy ra rồi, người ta mới bừng tỉnh ngộ, vương phi không thể sống được ở bất cứ nơi đâu ngoài Lâu Lan. Giống như rời khỏi hồ La Bố là không còn Lâu Lan, rời khỏi hồ La Bố cũng không còn vương phi trẻ đẹp này nữa.

Do cái chết của vương phi già, Úy Đồ Kỳ đã hoãn việc dời đô Lâu Lan lại một ngày, giờ vì cái chết của vương phi tiên vương, lại phải lùi thêm một ngày nữa. Tang lễ được tổ chức long trọng vào ngày thứ ba. Hai thị nữ dùng vải lụa đẹp nhất khâm liệm cho vương phi, đội mũ lên đầu nàng. Úy Đồ Kỳ tự tay đặt vương phi vào quan tài, phủ lên người nàng tấm vải lụa dệt tinh xảo đem về từ nước Hán.

Vương phi của tiên vương được an táng trên sườn núi cách mộ của vương phi già không xa. Huyệt mộ được đào rất sâu, chôn cùng quan tài gỗ còn có mấy thùng đồ dùng thường ngày của vương phi và một con dê làm vật tùy táng. Buổi hoàng hôn, ráng chiều loang lổ vẽ lên nền trời những vệt đỏ hồng, tím thẫm và xanh biếc, điểm trang thêm cho phần mộ của nàng.

Người ta chặt một cây sanh liễu lớn bên hồ La Bố, cắm lên ngôi mộ để làm bia, rồi lại đặt trước mộ một bồn đá lớn đầy hoa tươi. Úy Đồ Kỳ và những người tham dự tang lễ đều tin tưởng một cách chắc chắn rằng trong tương lai không xa, họ sẽ quay lại đây cúng tế.

Ngày dời đô về phía nam, người Lâu Lan tập trung tại quảng trường trước cổng thành, mấy ngàn con ngựa và lạc đà chất đầy hành lý. Khi mặt trời sớm mai vươn lên từ phía bờ hồ La Bố, khiến mặt hồ nhuộm thành một phiến đỏ rực, họ lại lần nữa, mà có thể cũng là lần cuối cùng, cầu nguyện và lễ bái trước Hà Long. Đội quân đầu tiên  bắt đầu xuất phát.

Một đội ngũ người cùng gia súc xen lẫn nhau kéo dài như một con rồng, từ từ trườn khỏi thành ấp. Đội ngũ bắt đầu qua khỏi đầm lầy và tiến lên hướng bắc, tiếp đó theo những dòng chảy đã cạn khô của sông để xuôi về phương nam. Khi đầu rồng tiến vào trong sa mạc, đuôi của nó vẫn còn ở cổng thành.

Khoảng nửa giờ sau khi nhóm cuối cùng rời khỏi thành, có ba người đàn ông tách đoàn quay lại nơi mà họ vừa xuất phát ban sáng. Một người về thành, cưỡi ngựa đến trước cổng nhà mình, vào nhà lấy ra một thanh đao bỏ quên trên giá trong kho, giắt đao vào lưng, rồi cưỡi ngựa đi. Một người khác thúc ngựa xuyên qua thành ấp đến khu rừng ven hồ, khuân phiến đá lấp miệng cửa hang giấu bảo vật, cất thêm một chiếc bình nhỏ của phương tây đem theo vào trong đó, rồi lấp miệng hang, đổ đất lên trên, dùng gỗ đè thêm cho chắc chắn, lại phủ thêm một lớp lá cây, ngụy trang để người ta nhìn vào không thể biết được bên dưới có một hang chứa bảo vật, sau đó lên ngựa. Người cuối cùng quay trở về thành không để làm việc gì cả, chỉ quất ngựa tới lui trên các đường ngang ngõ dọc trong thành, sau khi ra khỏi cổng thành còn ngước lên nhìn những bức tường thành lần nữa mới quay đầu ngựa, vút đi như một cơn gió, đuổi theo đoàn người phía trước.

Chỉ trong hai ngày, Lâu Lan đã biến thành một ngôi thành bỏ không, già cỗi và hoang phế chỉ trong chốc lát. Gió cuồn cuộn bốn bề, những bức tường đắp bằng bùn bắt đầu rệu rã. Khắp nơi đầy cát, cả tòa thành trông như một đống hoang tàn, tối tăm nhợt nhạt.

Chập tối ngày thứ ba, gió lớn đã tạm ngừng thổi, vài trăm lính người Hán xuyên qua sa mạc đến đây đồn trú. Thành ấp không một bóng người chốc lát dậy tiếng ngựa hí người kêu. Ngày hôm đó, nước hồ La Bố đục ngầu, mặt hồ gợn lên những đợt sóng lăn tăn.

3.

Trong suốt tám mươi lăm năm từ khi người Lâu Lan dời đến Thiện Thiện (năm 77 trước Công nguyên) cho đến loạn Vương Mãng đời Hán (năm thứ 8 Công nguyên), địa vị của Hán tại Tây vực đã áp đảo Hung Nô, thiết lập chế độ quản lý Tây vực và đặt ra chức Tây vực Đô hộ, đóng quân khắp nơi, đại thể đã thống trị được các nước Tây vực. Nhằm tranh đoạt Ô Tôn và Xa Sư, Hán và Hung Nô đã đánh nhau kịch liệt, dần dần Hán đuổi được Hung Nô khỏi Tây vực.

Người Lâu Lan dời đến Thiện Thiện, bắt đầu khai khẩn trồng trọt bên bờ hồ nước ngọt không có chút muối nào và xây dựng thành ấp của mình. Từ lúc dời về phương nam, Lâu Lan không còn bị Hung Nô quấy nhiễu. Nếu dựa vào ý nghĩa thoát khỏi xiềng xích của Hung Nô, thì việc dời đô đến Thiện Thiện đối với người Lâu Lan quả là một quyết định hay.

Năm thứ mười từ khi người Lâu Lan rời khỏi Lâu Lan, tức năm Địa Tiết thứ ba dưới thời Tuyên Đế (năm 67 trước Công nguyên), một nhóm chừng trăm người mang theo hơn trăm con lạc đà từ Thiện Thiện tiến đến Lâu Lan. Họ muốn quay lại đào những bảo vật năm nào chôn vùi gần thành Lâu Lan để mang về.

Trong số người này có quá nửa thuộc độ tuổi ngoài ba mươi, từ khi dời đô đến Thiện Thiện, họ không lúc nào nguôi nỗi nhớ Lâu Lan và hồ La Bố. Còn lại là các thiếu niên, có người lúc dời đô là một đứa bé còn chưa biết nhớ, có người dời đô rồi mới được sinh ra. Sau khi họ ra đời, ngày nào cũng nghe thấy trong lời cầu nguyện với Hà Long của những người xung quanh nhắc tới cái tên Lâu Lan và hồ La Bố, song không biết đó là nơi như thế nào. Họ rất khó tưởng tượng ra việc thực sự có nước chứa muối và cát chứa muối, chỉ biết rằng rồi sẽ có một ngày quay về nơi ấy, sống trong tòa thành nguy nga đẹp đẽ. Họ tin tưởng chắc chắn đó là vận mệnh mà thần của dân tộc đã an bài.

Thế nhưng, cuộc hành trình về lại Lâu Lan của nhóm người này kết thúc một cách bi thảm. Họ bị quân Hung Nô tập kích trong sa mạc, tổn thất mười mấy người và nửa số lạc đà. Sau bao gian khổ cuối cùng cũng tới được Lâu Lan, họ phát hiện ra Lâu Lan đã biến thành một căn cứ quân sự, trong thành đâu đâu cũng là binh lính nhà Hán. Để tập kích Hung Nô đang chiếm đóng Xa Sư, từng đoàn quân Hán kéo đến Lâu Lan, rồi lại từng đoàn kéo đi. Người Lâu Lan đừng nói đến việc vào thành, đến lại gần thành cũng không thể được, làm sao có thể tìm kiếm nơi chôn bảo vật của mình.

Đám người Lâu Lan này đứng trên gò cát phóng mắt nhìn nơi đã từng là đô thành Lâu Lan. Trong mắt họ, thành Lâu Lan cùng phong cảnh xung quanh đã hoàn toàn không còn giống như lúc họ còn ở đó. Nhìn dưới chân, gió miết từng hồi trên mặt đất, quyện thành những miệng cát hình phễu xoáy động. Mười năm trước tuyệt nhiên không phải thế này. Đường nét uốn lượn của các dãy đồi núi xung quanh thành ấp cũng đã thay đổi. Chẳng còn gì như xưa nữa. Nước hồ từng trong vắt như pha lê giờ đây đục ngầu, lau sậy ít đi nhiều, có thể thấy được sóng đánh vào bờ.

“Hà Long nổi giận rồi.” – Những người Thiện Thiện bây giờ, cũng là người Lâu Lan mười năm trước, nghĩ thầm. Họ chẳng đào lên được một bảo vật nào, trở về tay không.

Lại mười năm sau, một ông lão quản lý thủy lợi bảy mươi tuổi tự mình cưỡi lạc đà từ Thiện Thiện về Lâu Lan. Ông lão không nói với bất kỳ ai về việc này, khiến người xung quanh hoảng hốt tìm kiếm khắp nơi khi phát hiện ông đột nhiên biến mất. Ông chậm rãi băng qua sa mạc, ngày thứ mười cuối cùng cũng đến được thành Lâu Lan mà ông ngày nhớ đêm trông. Ông xuống lạc đà, bước vào trong thành. Một vùng hoang vu cỏ áy bóng tà.

Ông lão vào từ cửa thành phía đông, đi được khoảng hơn mười trượng thì gặp một thi thể quân Hán, xem ra chết chưa lâu. Thêm đoạn nữa, ông thấy ba thi thể quân Hung Nô lưng còn cắm mũi tên đang nằm dưới đất. Đi tiếp một đoạn nữa, lại phát hiện xác quân Hán. Lúc này, từ xa có tiếng ngựa hí vang vọng lại, ông lão dừng bước.

Ông quay lại cổng thành, cưỡi lên con lạc đà lúc nãy buộc gần đó, lập tức rời khỏi ngôi thành âm khí nặng nề. Lắc lư trên lưng lạc đà cả ngày trời, khi nhận thấy đã đến vùng lau sậy mọc đầy gần bờ nam của hồ La Bố, ông mới xuống khỏi lưng lạc đà. Ông biết mình chẳng thu được gì, những mục tiêu khi trở lại Lâu Lan đều chẳng đạt được. Ông muốn đào bảo vật, muốn cúng bái mộ tổ tiên, muốn nhìn cho thỏa lòng mong nhớ cảnh đẹp của bờ hồ La Bố mà ông từng sinh sống, nhưng những xác người trong thành Lâu Lan khiến ông quên hết tất cả những điều này.

Đoán mình đã cách bờ hồ La Bố không xa, nên ông trèo lên lưng lạc đà đi tiếp. Một giờ sau, ông đến được nơi giống như bên bờ hồ La Bố, bèn tuột xuống. Ông nhìn ra mặt hồ phía xa xa, thấy mấy ngọn tháp màu đỏ lọt vào tầm mắt, trong đó có một ngọn cao chót vót, ngọn tháp nhọn bốn mặt đều ánh đỏ. Đăm đắm hồi lâu, mấy ngọn tháp này sao trông có vẻ gì đó khiến người ta cảm giác không thật, giống như một trang hình cắt giấy được dựng đứng lên trên mặt hồ đang gợn sóng lăn tăn.

Ông lão lập tức lại trèo lên lưng lạc đà, rời khỏi, cho rằng cảnh tượng dị thường mà mình nhìn thấy vừa nãy trong thành Lâu Lan và cả hiện tại trên mặt hồ sở dĩ xuất hiện đều là do Hà Long đã nổi giận.

Sau khi về lại Thiện Thiện, ông không hé môi nửa lời về việc mình đã đi đâu, thấy những gì. Ông nghĩ, để làm nguôi cơn thịnh nộ của Hà Long, người Thiện Thiện tất phải nhanh chóng quay về cố đô Lâu Lan.

Cảnh tượng chết chóc mà ông lão nhìn thấy tại Lâu Lan chính vào thời đại mà thế lực của Tuyên Đế tại Tây vực hùng mạnh nhất. Năm Thần Tước thứ hai thời Tuyên Đế (năm 60 trước Công nguyên), Trịnh Cát nhận nhiệm vụ bảo hộ Tây vực, đóng quân tại thành Ô Lỗi của Quy Từ. Từ đó, đa số các nước Tây vực đều quy thuận Hán triều. Nhà Hán giao thương thường xuyên với Tây vực, các nhà buôn phương Tây hầu như ngày nào cũng phải đi qua Lâu Lan về hướng đông bắc.

Năm thứ 8 Công nguyên, Hán sinh nội loạn, Vương Mãng soán vị, thi hành chính sách coi thường Tây vực. Tây vực lại rơi vào cảnh loạn lạc, Hung Nô thừa cơ tiến vào hoành hành, không ít quốc gia bắt đầu quan hệ với Hung Nô mà quay lưng lại với Tây vực Đô hộ.

Thế nhưng, thái độ của Thiện Thiện từ đầu đến cuối lại thể hiện rất rõ ràng việc quy thuận triều Hán. Từng vì nương tựa Hán mà phải từ bỏ cố đô Lâu Lan, nơi đã cư trú đời này sang đời khác, song Thiện Thiện dù thế nào chăng nữa cũng không thể lại thay đổi thái độ ban đầu. Nếu giờ đây quay sang nép bóng Hung Nô, thì việc dời đô năm nào còn ý nghĩa gì nữa. Tuy những người Thiện Thiện biết về thời đại Lâu Lan đã chẳng còn được bao nhiêu người, nhưng trong lòng tất cả mọi người Thiện Thiện đều nhận định rằng việc từ bỏ Lâu Lan tự nó đã mang ý nghĩa cắt đứt hoàn toàn quan hệ với Hung Nô. Dù chuyện gì xảy ra, Thiện Thiện cũng phải dựa vào sức mạnh của nhà Hán, rồi sẽ có một ngày quay trở lại được cố đô Lâu Lan. Trong lòng người Thiện Thiện giờ đây, “Lâu Lan” chính là từ đồng nghĩa với “trở về đất cũ”.

Sau khi loạn Vương Mãng đã được dẹp yên, Quang Vũ Đế kế vị, nhưng thế lực nhà Hán không còn được như xưa nữa, thật khó mà cai trị một Tây vực hỗn loạn. Sự cướp đoạt hà hiếp của Hung Nô ngày một dữ dội hơn.

Năm 38 Công nguyên, vua Thiện Thiện đời thứ ba thương nghị với quốc vương Sa Chê lúc bấy giờ đang ngày càng lớn mạnh về việc phái sứ giả đến Hán tiến cống tài vật, thỉnh cầu Hán tích cực xuất binh vào Tây vực, khôi phục chức Tây vực Đô hộ vì loạn lạc mà đã phế bỏ. Bấy giờ, không chỉ hai nước này, mà các nước Tây vực khác đều không thể chịu đựng nổi sự bạo liệt ngang ngược của Hung Nô nữa, hy vọng được quy thuận Hán.

Năm 41 Công nguyên, quốc vương Sa Chê đơn độc phái sứ giả vào Hán, một lần nữa thỉnh cầu việc khôi phục chế độ Tây vực Đô hộ. Quang Vũ Đế không muốn đối đầu với Hung Nô, không chấp thuận lời thỉnh cầu của Sa Chê, nhưng lại mang ấn Tây vực Đô hộ ban cho Hiền vương của Sa Chê. Khi ấy Thái thú Đôn Hoàng là Bùi Tuân dâng tấu, cho rằng không thể mang ấn Đô hộ giao cho người Hồ, dẫn đến việc Hán thu hồi ấn. Vua Sa Chê vì thế mà trong lòng hận nhà Hán. Ông biết Hán không có lòng quản lý Tây vực, nên rắp tâm thống nhất các nước Tây vực. Hiền vương đầy dã tâm muốn vươn lên làm minh chủ, bèn bắt đầu từng bước xâm lược các quốc gia khác.

Các nước Tây vực mệt mỏi với sự xâm lược của Sa Chê, liên hợp dâng thư xin nhà Hán thảo phạt Sa Chê. Vua Thiện Thiện và mười tám nước Quy Từ, Sa Chê tiền quốc, Yên Kỳ v.v… cùng nhau bàn bạc, phái sứ giả đi sứ nhà Hán. Mỗi nước đều dâng tặng người hầu và các loại kỳ trân dị bảo, trình bày rõ tình hình Tây vực, thúc giục Quang Vũ Đế có thái độ tích cực hơn đối với Tây vực. Mười tám sứ giả các nước Tây vực thay phiên nhau khẩn cầu Hán thống trị Tây vực, nhưng Quang Vũ Đế vẫn giữ thái độ ỡm ờ, do dự không dứt khoát. Ngài ban thưởng cho sứ giả các nước Tây vực, nhưng không để người hầu mà họ tặng ở lại trong cung điện nhà Hán.

Sa Chê xâm lược Thiện Thiện, người Thiện Thiện ứng chiến. Đó là lần đầu tiên sau khi dời đô, họ phải cầm vũ khí bảo vệ thành ấp của mình. Thế nhưng, Thiện Thiện không phải đối thủ của Sa Chê. Thiện Thiện từng ba lần phái sứ giả đến Hán báo tình hình khẩn cấp để xin cứu giúp, song Quang Vũ Đế vẫn chẳng thèm bận tâm. Thiện Thiện đành xin cứu viện từ nơi khác, cuối cùng quyết tâm cùng với Xa Sư nhập vào đội ngũ của Hung Nô. Người Thiện Thiện quá giận dữ trước thái độ của nhà Hán nên đã lựa chọn nghiêng hẳn về phía Hung Nô. Lúc này đã là một trăm hai mươi năm sau khi cha ông họ từ bỏ Lâu Lan.

4.

Sau thời Quang Vũ Đế, Minh Đế nối ngôi. Minh Đế cũng bận rộn chăm lo nội chính, không hơi sức đâu mà nghĩ đến sự vụ của các ngoại tộc. Giống như thời Quang Vũ Đế, các cửa ngõ thông với Tây vực như Ngọc Môn quan, Dương quan đều đóng kín. Thời gian này, Hung Nô ngang nhiên hoành hành tại các nước Tây vực, không chỉ Thiện Thiện, mà các nước Tây vực khác đều quy thuận Hung Nô, cắn răng chịu áp bức.

Nhà Hán suốt một thời gian dài không ngó ngàng gì đến Tây vực, mãi cho đến những năm cuối đời Minh Đế, vì Hung Nô xâm phạm hành lang Hà Tây[3], mới bắt đầu xem xét lại vấn đề Tây vực. Hán muốn giữ được hành lang Hà Tây, tất phải thông Tây vực; muốn thông Tây vực, tất phải trục xuất thế lực Hung Nô.

Năm Vĩnh Bình thứ mười sáu (năm 73 Công nguyên), nhà Hán quyết tâm thảo phạt Hung Nô. Hai viên đại tướng Đậu Cố, Cảnh Bỉnh xuất binh từ Tửu Tuyền, tiến về phương bắc vào sa mạc đánh đuổi Hung Nô, chiếm lĩnh căn cứ địa Y Ngô Lô của địch. Cuộc chiến kết thúc, Đậu Cố lập tức phái sứ giả Ban Siêu đi sứ Tây vực, mở quan hệ ngoại giao với các nước. Ban Siêu dẫn đầu đoàn tùy tùng ba mươi sáu người ra khỏi Ngọc Môn quan, vượt qua sa mạc, mười sáu ngày sau đến được nước Thiện Thiện.

Từ sau loạn Vương Mãng, nước Thiện Thiện hơn sáu mươi năm rồi mới lại được tiếp đón sứ thần nhà Hán. Người Thiện Thiện chưa từng nhìn thấy nhiều người Hán như thế. Quốc vương Thiện Thiện là Quảng mở tiệc linh đình khoản đãi Ban Siêu, lưu ông lại mấy ngày. Nhưng lúc bấy giờ quân Hung Nô đã đến một nơi cách Thiện Thiện ba mươi dặm. Quảng sợ làm Hung Nô nổi giận, bất đắc dĩ phải thay đổi thái độ đối với sứ thần nhà Hán. Sự thay đổi đột ngột trong thái độ của người Thiện Thiện khiến Ban Siêu biết rằng Hung Nô đang ở gần đó. Ông xin vua Thiện Thiện thăm dò xem Hung Nô đóng nơi nào, ngay trong đêm ấy thình lình tập kích doanh trại Hung Nô, chém đầu sứ giả Hung Nô.

Vua Thiện Thiện khiếp đảm trước uy dũng của Ban Siêu, tỏ ý muốn quy thuận nhà Hán. Sau đó, Ban Siêu viếng thăm khắp lượt các nước Tây vực. Nhờ nỗ lực của ông, quan hệ ngoại giao bị cắt đứt suốt hơn năm mươi năm giữa nhà Hán và các nước Tây vực được phục hồi. Các nước Tây vực như Thiện Thiện, Vu Điền, Sơ Lặc, Xa Sư tiền quốc, Xa Sư hậu quốc v.v… đã nếm đủ mùi cay đắng từ sự bạo ngược của Hung Nô đều vui vẻ quy thuận Hán. Sau đó, Hán khôi phục chức Tây vực Đô hộ, chính thức bắt tay vào quản lý Tây vực.

Nhưng đến năm thứ ba, tức năm Vĩnh Bình thứ mười tám, Hung Nô mang hai vạn đại quân tiến vào với ý đồ đoạt lại Tây vực. Cuộc chiến định mệnh trường kỳ giữa Hán và Hung Nô được mở ra, Ban Siêu vì thế mà hao tổn sức lực tâm huyết của cả đời người.

Vua Quảng của Thiện Thiện nhân lúc đại quân Hung Nô đi về phía nam quyết một trận sống mái với quân nhà Hán đã soái lĩnh hai ngàn binh sĩ tấn công cố đô Lâu Lan. Lúc bấy giờ, Ban Siêu cầm đầu ba vạn đại quân đóng tại Sơ Lặc, lấy đây làm cứ điểm để thống trị Tây vực. Biết được tin này, một ý nghĩ vụt qua trong đầu vua Thiện Thiện vốn đang đầy nhiệt huyết, đó chính là đoạt lại Lâu Lan bị chiếm giữ nhiều năm từ tay Hung Nô. Mối thù của người Thiện Thiện đối với Hung Nô mãnh liệt hơn những quốc gia Tây vực khác. Hung Nô vừa tới, họ đã đóng chặt cửa, trốn xuống hầm, mặc quân địch muốn cướp bóc thế nào cũng được. Mỗi năm Thiện Thiện đều bị cướp bóc vài lần như vậy, không chỉ vẫn phải cống nộp rất nhiều tài vật cho Hung Nô, mà còn phải nuốt hận vào lòng, không ngừng nhịn nhục.

Đối với người Thiện Thiện giờ đây, Lâu Lan đã không còn là “đất cũ để trở về”  – mảnh đất cha ông họ ngày nhớ đêm trông nữa, mà là nơi phục thù. Sớm muộn họ cũng phải quyết một trận tử chiến với Hung Nô. Hai ngàn binh sĩ Thiện Thiện được trang bị giáp trụ khí giới sẵn sàng cưỡi trên lưng ngựa và lạc đà, hướng về phía bờ hồ La Bố mà họ chưa từng đặt chân tới bao giờ, bắt đầu xuất phát.

Ba ngày đầu, đoàn quân gặp gió bão, hành quân vô cùng khó khăn gian khổ, nhưng không một ai bỏ cuộc. Khi còn cách Lâu Lan ba mươi dặm, người Thiện Thiện để lạc đà lại, tất cả lên ngựa, ngay trong đêm ập tới trước thành Lâu Lan. Họ vốn muốn vượt tường thành để bất thình lình tập kích nơi đóng quân của Hung Nô, chẳng thể ngờ trận kịch chiến diễn ra ngay ngoài thành. Hóa ra quân Hung Nô đã phát giác việc người Thiện Thiện muốn tập kích ban đêm, nên đợi họ tới gần tường thành mới nhất tề phóng tên độc. Trong phút chốc, tên bay như mưa trên dưới tường thành, binh sĩ Thiện Thiện trúng tên ngã xuống hàng loạt, thương vong vô số kể. Quân Hung Nô thấy vậy, bao vây đánh từ hai phía. Vua Thiện Thiện biết mình đã mất thời cơ, đành hạ lệnh rút quân.

Binh sĩ Thiện Thiện tan tác, nhân đêm tối chạy rút về hướng Thiện Thiện, lớp bị Hung Nô truy sát, lớp bị lạc đường trong sa mạc, cuối cùng còn không đầy ba trăm người về lại được Thiện Thiện. Chính trong lúc mọi người nghĩ rằng quốc vương đã tử trận thì thấy vua trở về, mình đầy thương tích.

Lần tập kích Lâu Lan này kết thúc thảm bại, người Thiện Thiện hiểu rằng họ chỉ có thể nương nhờ vào Hán. Minh Đế cảm thấy khó nắm bắt thái độ nay lúc này mai lúc khác của người Hồ, vì thế Ban Siêu phải lưu lại Tây vực, sống trọn đời giữa những cuộc chiến với các dân ngoại tộc. Trong tình hình Tây vực rối ren như thế, chỉ có Thiện Thiện trước sau chưa từng rời bỏ nhà Hán, hay nói khác đi là không thể rời bỏ nhà Hán.

Năm Vĩnh Nguyên thứ mười bốn (năm 102 Công nguyên), Ban Siêu sau nửa đời trên lưng ngựa chốn sa trường Tây vực đã cáo lão hồi hương, quay về Lạc Dương. Nhiệm Thượng tiếp nhận chức Tây vực Đô hộ, nhưng không có năng lực cai trị, khiến cho các nước Tây vực lại tiếp tục xa rời nhà Hán, Hung Nô ngày càng ngang ngược. Năm Vĩnh Sơ thứ nhất đời An Đế (năm 107 Công nguyên), Hán cuối cùng cũng lấy ba lý do là đường vào Tây vực xa xôi hiểm trở, các dân tộc Hồ biến hóa khôn lường, và phí tổn binh lực quá lớn để từ bỏ Tây vực, chiêu hồi quan lại và binh sĩ đồn trú tại Tây vực, một lần nữa đóng cửa Ngọc Môn quan và Dương quan. Hung Nô phương Bắc lập tức thế chân nhà Hán, trở thành kẻ thống trị Tây vực. Lâu Lan lại một lần nữa trở thành doanh trại của Hung Nô.

An Đế năm Nguyên Sơ thứ sáu (năm 119 Công nguyên), Bắc Hung Nô chinh phục các nước phía nam Tây vực, liên hợp lại hết lần này đến lần khác xâm phạm địa phận Hà Tây của nhà Hán. Thái thú Đôn Hoàng lúc đó là Tào Tông sợ Hung Nô sẽ dồn lực xâm lăng, bèn dâng tấu kiến nghị phải lôi kéo mua chuộc các nước Tây vực. An Đế bèn phái quan Trưởng sử Tác Ban làm tướng, dẫn hơn ngàn binh sĩ đên Y Ngô Lô, xoa dịu các nước Tây vực. Lúc bấy giờ, nước quy thuận Hán trước tiên chính là  nước chịu sự cướp đoạt ức hiếp của Hung Nô nhiều nhất: Xa Sư tiền quốc và Thiện Thiện.

Để trả đũa, năm tiếp theo, Hung Nô chỉ huy binh sĩ của Xa Sư hậu quốc đến tập kích, công phá Xa Sư tiền quốc, giết Trưởng sử Tác Ban. Vua Thiện Thiện từng đem quân tới chi viện cho Tác Ban, nhưng bị Hung Nô đánh bại.

Vua Thiện Thiện xin Tào Tông cứu viện. Tào Tông dâng tấu thỉnh cầu triều đình xuất năm ngàn binh thảo phạt Hung Nô, song không được chấp thuận. Sau đó, triều đình triệu kiến Ban Dũng là con của Ban Siêu, người có công lao hiển hách trong việc trị lý Tây vực, để hỏi ý kiến về vấn đề này. Ban Dũng kiến nghị khôi phục ba trăm doanh trại vốn có tại Đôn Hoàng, đồng thời cho Trưởng sử Tây vực dẫn năm trăm binh sĩ đóng tại Lâu Lan, nhưng kiến nghị này cũng không được thực hiện.

Năm 124 Công nguyên, Ban Dũng nhận lệnh của An Đế nhậm chức Trưởng sử Tây vực, soái lĩnh năm trăm binh sĩ đến đóng tại Tây vực. Lúc này, Thiện Thiện cũng là nước đầu tiên quy thuận nhà Hán.

Với sự nỗ lực của Ban Dũng, thế lực nhà Hán từng vài lần được khuếch trương đến các nước Tây vực, song mỗi lần đều không được bao lâu. Thế lực của Hán vừa lơi lỏng một chút, Hung Nô đã lập tức thừa cơ nhảy vào. Nước Thiện Thiện bị kẹp giữa Hán và Hung Nô, thường bị Hung Nô ức hiếp. Chỉ cần quân Hán vừa vào Tây vực, thì Thiện Thiện luôn là nước đầu tiên quy thuận, nhưng rất nhanh sau đó sẽ bị Hán từ bỏ. Đây dường như đã trở thành số mệnh an bài cho Thiện Thiện, chẳng thể nào thay đổi được.

Thời Hán Vũ Đế, vùng xung quanh sông Tháp Lý Mộc có hơn ba mươi quốc gia nhỏ, bị kẹp giữa Hán và Hung Nô, lúc thân Hán, lúc thân Hung Nô, lại còn tranh đấu lẫn nhau. Đến hết thời Tam Quốc năm 280 Công nguyên, các nước nhỏ này dần sáp nhập lại thành vài nước lớn.

Thiện Thiện thôn tính các nước Thả Mạt, Tiểu Uyển, Tinh Sắc,…; Vu Điền nhập lại cùng Nhung Lư, Phù Di, Cừ Lặc, Bỉ Sơn v.v… Ngoài ra, Yên Kỳ, Quy Từ, Sơ Lặc, Xa Sư hậu quốc cũng từng bước ghép lại với các nước nhỏ lân cận. So với thời Hán Vũ Đế, lãnh thổ của sáu quốc gia này đã mở rộng rất nhiều.

Tuy nhiên, dù lãnh thổ được mở mang, các quốc gia này vẫn buộc phải quy thuận Tiên Ti cùng các ngoại tộc khác là thế lực thống trị phương bắc nổi lên thay thế Hung Nô giống như lúc trước quy thuận Hung Nô, lại còn phải tỏ ra biết điều với thế lực thống trị Trung Nguyên luôn đối chọi với Tiên Ti.

Năm Thái Ninh thứ hai đời Minh Đế nhà Đông Tấn (năm 324 Công nguyên), Tiên Lương vương uy chấn một cõi Đôn Hoàng là Trương Tuấn lệnh cho thuộc tướng Dương Nghi vượt qua sa mạc đi chinh phạt Thiện Thiện và Quy Từ. Hai nước hàng phục Trương Tuấn, vua Thiện Thiện là Nguyên Mạnh tặng mỹ nữ cho Trương Tuấn.

Năm Thái Bình thứ bảy đời Hiếu Vũ Đế nhà Đông Tấn (năm 382 Công nguyên), vua Xa Sư tiền quốc và vua Thiện Thiện gặp mặt Tiên Tần vương Phù Kiên. Hai vị quốc vương Tây vực mặc triều phục vua ban, đến Tây đường bái kiến Phù Kiên, bị cung điện hoa lệ và lễ nghi trang nghiêm làm cho choáng ngợp, bèn thỉnh cầu về sau năm nào cũng triều cống. Phù Kiên lấy lý do đường xá Tây vực xa xôi để cự tuyệt, sau lại quyết định ban cho chế độ ba năm triều cống một lần, chín năm triều bái một lần. Hai nước này còn nhận lệnh của Phù Kiên, dẫn đường cho Trưởng sử Tây vực Lữ Quang soái lĩnh bảy vạn năm ngàn binh đi đánh các quốc gia Tây vực khác.

Nhưng không lâu sau, Tiền Tần bại về tay Đông Tấn, mọi thứ đều sụp đổ. Tây vực cũng chịu ảnh hưởng lớn, trở nên vô cùng hỗn loạn.

Lúc ấy, một viên tướng trẻ nước Thiện Thiện quyết tâm đánh chiếm Lâu Lan vốn đã bị kẻ thống trị Trung Nguyên chiếm cứ trong một thời gian dài. Lâu Lan là thành ấp của tổ tiên, lý ra phải thuộc về Thiện Thiện. Chàng quyết định nhân thế cuộc hỗn loạn, đoạt lại Lâu Lan từ tay tướng lĩnh đã vong quốc của Tiền Tần.

Vị tướng trẻ nhận lệnh mang năm trăm thân binh tiến về Đôn Hoàng, nhưng giữa đường lại đổi hướng sang Lâu Lan. Trừ người chỉ huy, năm trăm bộ hạ không ai biết Lâu Lan có quan hệ với mình như thế nào.

Đoàn quân đi liên tục cả ngày lẫn đêm trong sa mạc, đến cách Lâu Lan còn hơn nửa ngày đường nữa, tối đó mới dừng lại nghỉ ngơi, chỉnh đốn quân ngũ. Sáng sớm  hôm sau trước khi tiến binh vào Lâu Lan, vị tướng cho thuộc hạ biết nhiệm vụ của họ là đoạt lại Lâu Lan từ tay quân giữ thành giờ đã trở nên yếu thế, đồng thời giải thích quan hệ mật thiết giữa Lâu Lan và Thiện Thiện. Binh sĩ Thiện Thiện thường ngày rất tôn kính nhân phẩm và khâm phục uy dũng của người chỉ huy, nên không ai phản kháng. Họ cảm thấy phấn chấn vì mình có cơ hội tự tay giành lại thành ấp của tổ tiên, đồng thời tin chắc rằng nguyện vọng này sẽ trở thành hiện thực dưới sự dẫn dắt của vị tướng tài ba.

Ngày hôm đó, khi đội quân xuất phát, gió rất lớn, lúc tới gần tường thành cổ, gió càng dữ dội. Dưới hiệu lệnh của tướng quân trẻ tuổi, binh sĩ Thiện Thiện tiến từng bước một cách khó khăn giữa cát bụi ngập trời dậy đất, người ngựa cùng xuyên qua cuồng phong để tiến về phía trước, cuối cùng cũng nhìn thấy được vọng lâu và tường thành màu khói hùng vĩ ẩn hiện giữa màn cát bụi.

Vị tướng trẻ dẫn đầu đoàn quân, chém chết ba lính canh gác trước cổng thành. Toàn quân thừa thế xông thẳng vào thành, mở cuộc chém giết. Họ không biết có bao nhiêu lính giữ thành, nhưng quân địch đông hơn rất nhiều so với dự tính. Quân tiến vào chia thành mấy ngả, mỗi ngả đều giữ cho không được phân tán. Hai bên triển khai những trận đánh ác liệt trên pháo đài, đài bắn tên và các con đường trong thành ấp.

Màn đêm rơi xuống, những binh sĩ đang chiến đấu ác liệt phát hiện ra trời tối quá sớm. Gió ngừng thổi. Một phần ba binh sĩ Thiện Thiện đã ngã xuống, còn số binh sĩ thương vong trong thành gấp đôi quân binh Thiện Thiện.

Đến khi mờ sáng, cuộc chiến cuối cùng đã phân thắng bại. Tàn dư của đội quân giữ thành nhân lúc trời còn tối đã tháo chạy. Khi trời sáng hẳn, trong thành không còn bóng địch. Binh sĩ Thiện Thiện đi tuần tra trong tòa thành đầy thi thể, giống như những kẻ xâm phạm kia đã đánh chiếm nhà cửa đất đai của họ, đồng thời cũng là để rảo khắp các nhà, tìm tài sản.

Vị tướng trẻ tuổi cùng thuộc hạ bước lên vọng lâu, mảnh đất mà tổ tiên họ đã sống cách đây sáu trăm năm mở ra trước mắt, một vùng hoang vu lạnh lẽo. Ngoài thành là biển cát trải dài vô tận, vô số đồi cát nhỏ nối tiếp nhau, giống như những ngọn sóng bạc đầu nhấp nhô trên biển. Gió dịu hơn ngày hôm trước, nhưng vẫn cuốn theo cát trắng từ đồi cát bay thẳng lên không trung, tựa một tấm vải mỏng phất phơ theo gió hướng từ bắc về nam.

Vị tướng trẻ tuổi thầm nghĩ, không có sông hồ, tổ tiên mình sao có thể sống ở đây được! Khi nhìn thấy hướng đông bắc phía xa xa có một rừng cây, chàng thầm nghĩ, biết đâu phía ấy có một hồ nhỏ.

Thuộc hạ của chàng mang thi thể trong thành ném vào sa mạc, một người quay lại bẩm báo rằng trong rừng cây phát hiện một hồ nhỏ và dài như lưỡi dao, nước hồ xuất hiện dòng chảy, giống như đang đổ vào hồ lớn. Vị tướng gọi các binh sĩ cùng đi xem sao, chàng chắc mẩm quân địch sẽ không gọi thêm quân cứu viện đến tập kích, nên rất thong thả. Mặt hồ nhỏ, dài, nước trong vắt nhìn thấy đáy. Dòng nước như từ  rừng sâu chảy về, không sâu lắm, từ từ vươn ra phía trước. Mặt hồ càng lúc càng rộng, có thể thấy chim chóc tụ tập thành đàn.

Binh lính Thiện Thiện quay trở lại thành, bày những ly rượu vừa tìm được ra để uống mừng thắng lợi. Mặt trời nhanh chóng ngả về tây, người Thiện Thiện chưa từng thấy cảnh mặt trời lặn đẹp đến như thế, ráng chiều rực rỡ đầy những sắc màu.

Một binh sĩ nói thấy mặt trời lặn thế này là điềm không tốt, chủ trương lập tức thu binh. Vị tướng trẻ cũng có cảm giác không bình thường, nhưng vẫn nán lại một đêm trong thành.

Sáng sớm hôm sau, binh sĩ Thiện Thiện nghe thấy âm thanh kỳ quái chưa bao giờ nghe, cuộn trong tiếng gió gào, nhưng hiển nhiên không phải là tiếng gió.

Vị tướng trẻ lệnh cho một binh sĩ lên vọng lâu xem thử. Đúng lúc ấy, một mũi tên bay tới, cắm vào tường, rồi rơi xuống lớp đá trên mặt đất. Là một mũi tên rất dài. Tiếp đó, vô số mũi tên từ xa không rõ hướng nào phóng đến tòa thành, bị gió thổi bạt đi, rơi đầy trên mặt đất.

Binh sĩ trên vọng lâu báo cáo, cát bụi che lấp cả mặt trời, trời đất mù mịt, không thấy gì cả. Vị tướng đích thân lên xem. Bên ngoài thành quả nhiên đúng như thế.

Lúc này, trời đất như bỗng có màn đêm ập xuống, gió gào thét liên hồi, trong gió truyền đến một thứ thanh âm, đó chính là tiếng sóng giận dữ của hồ La Bố. Ban ngày nếu họ tiếp tục tiến tới thêm chút nữa thì chắc đã có thể thấy hồ La Bố.

Vị tướng bước xuống vọng lâu. Mặt đất đầy tên, tiếng kêu gào kỳ quái mỗi lúc một gần. Chàng gọi quân lính tụ tập lại với nhau, xông thẳng về phía cổng thành, vì nếu số lượng quân địch quá đông đảo, thì việc khai chiến trong thành sẽ rất bất lợi. Quân Thiện Thiện ồ ạt đổ ra cổng thành, đụng phải một đội quân trang phục kỳ lạ từ ngoài thành đánh vào. Kẻ địch tay cầm đại đao bổ tới, binh sĩ Thiện Thiện dùng giáo  dài nghênh chiến, hai bên nhảy vào tàn sát nhau.

Lúc này, cát đổ như thác từ trời xuống, chui vào khe quần áo, khiến người ta không mở mắt ra được. Hai bên không thể không tạm ngừng cuộc chiến.

Tiếng gió mỗi lúc một lớn hơn, mưa bão cát mỗi lúc một khốc liệt. Chỉ thấy trời đất tối sầm, hai bên giao tranh không phân biệt nổi đâu là quân ta, đâu là quân địch.

Vị tướng trẻ dẫn đầu mấy thuộc hạ xông ra khỏi thành, mưa cát bên ngoài còn mãnh liệt hơn bên trong, mỗi bước đều cực kỳ khó khăn. Binh sĩ Thiện Thiện từng người một ra khỏi cổng, nép vào chân tường thành, nơi đó cũng là chỗ náu mình của vô số quân địch đang tiến thoái lưỡng nan. Bấy giờ, cuồng phong kêu gào, ba đào gầm thét, mấy trăm chiến mã và lạc đà rống lên những tiếng kêu thảm thiết.

Bão cát thổi liền ba ngày ba đêm. Người, ngựa, lạc đà đều bị vùi trong cát. Tường thành cũng bị cát bụi vùi lấp mất một nửa.

Cuộc chiến bắt đầu một cách li kỳ, kết thúc một cách kỳ quái. Người Thiện Thiện và kẻ xâm phạm lạ lùng suốt ba ngày cuối vẫn tiếp tục đánh nhau trong cát.

Chiều ngày thứ tư, cuồng phong dần yếu đi, vị tướng trẻ bỏ lại mấy mươi binh sĩ bị vùi trong cát, rời khỏi thành Lâu Lan. Kẻ ngoại tộc xâm phạm kia cũng bị bão cát đoạt mất vài phần binh lực, cuối cùng rút khỏi toà thành nhỏ trên sa mạc.

Người Thiện Thiện mất ngựa, đành phải đi bộ quay về. Lúc họ rời tòa thành, giữa sa mạc vẫn đang cuộn lên mấy trăm vòi rồng bằng cát cao chót vót như những cây cổ thụ, đến xế chiều mới dần bớt đi.

Sau đó vài ngày, người Thiện Thiện lại tiếp tục gặp phải những hiện tượng quái dị trên sa mạc. Họ lúc thì nghe thấy tiếng người nói huyên náo, lúc lại nghe thấy tiếng hí vang của vô vàn con ngựa, trước mắt nhiều lần xuất hiện cánh rừng nhỏ nước chảy róc rách, nhưng đi thế nào cũng không tới được, cảnh tượng trước mắt cứ thế hiện ra rồi mất đi.

Một tháng sau, vị tướng trẻ dẫn theo một phần ba số quân ban đầu quay về Thiện Thiện. Họ không biết kẻ địch kỳ quái đến từ đâu, cho nên họ cho rằng đó là yêu ma sa mạc tác oai tác quái. Vị tướng trẻ đến chết cũng không biết rằng, những kẻ xâm phạm kia thực ra là quân đội của tộc Nhu Nhiên xưng hùng xưng bá ở phương bắc.

Hai năm sau, vị tướng trẻ này của Thiện Thiện lại cùng thuộc hạ đến Lâu Lan lần nữa. Thành Lâu Lan lúc này đã hoàn toàn bị vùi trong cát, chỉ lộ ra một chút vọng lâu. Họ lại đi vào rừng tìm cái hồ dài và hẹp như một thanh đao, nhưng không thấy đâu nữa, chỉ có một con đường cát trắng dài vươn mãi ra như một dải thắt lưng. Hồ La Bố không còn tung tích, Lâu Lan hoàn toàn chìm khuất trong sa mạc.

Khoảng sáu mươi năm sau đó, năm Nguyên Gia thứ hai mươi hai (năm 445 Công nguyên), Thiện Thiện và thế lực thống trị Trung Nguyên lúc bấy giờ là Thái Vũ Đế của nhà Ngụy đối chọi nhau. Thiện Thiện bị binh Lương Châu của Thái Vũ đế đánh bại, vua Thiện Thiện đầu hàng. Từ đó Thiện Thiện trở thành quận huyện của nhà Ngụy, không còn là một quốc gia nữa. Đến đây, hồ La Bố, Lâu Lan, Thiện Thiện đều lần lượt biến mất trong lịch sử.

 

5.

Năm Long An thứ ba (năm 399 Công nguyên), cao tăng Pháp Hiển và mấy chục tăng nhân từ Trường An xuất phát đi tới Ấn Độ để học tiếng Phạn. Trong bút ký du hành lúc bấy giờ có ghi chép rằng:

“Ra khỏi Ngọc Môn quan, vượt qua dòng sông cát, trong Sa hà có nhiều ác quỷ ác phong. Người gặp phải những thứ đó đều chết cả, không ai toàn mạng quay về. Trên không có chim bay, dưới không có thú chạy, nhìn khắp nơi hút tầm mắt để tìm một chỗ đi qua nhưng không biết nơi đâu. Chỉ có những đầu lâu người chết khô làm mốc chỉ dẫn mà thôi.”

Tuy không thể phán đoán chuẩn xác rằng nơi Pháp Hiển đi qua chính là sa mạc đã chôn vùi thành Lâu Lan, hay nơi trước kia đã từng là bờ hồ La Bố, nhưng có thể khẳng định rằng, ông đã đi qua vùng có thành Lâu Lan thuở trước.

Đến đời Đường, Huyền Trang (Tam Tạng) phụng mệnh Thái Tông vượt qua muôn vàn gian khổ đến Ấn Độ thỉnh kinh quay về được Trường An, giữa đường từng qua Lâu Lan. Trong Đại Đường Tây vực ký có ghi lại một đoạn ngắn như sau:

“Đi hơn bốn trăm dặm đến nơi trước kia từng là nước Đỗ La. Nước đã bỏ không, thành trì hoang vu. Từ đây đi về phía đông hơn sáu trăm dặm đến nơi trước kia từng là nước Chiết Ma Đà Na, tức đất Niết Mạt. Thành quách còn đây, nhưng chẳng có bóng người. Lại từ đây đi hơn ngàn dặm về phía đông bắc đến nơi trước kia là nước Nạp Phó Ba, tức đất Lâu Lan.”

Huyền Trang nhìn thấy trong sa mạc có hai tòa thành bỏ không, nhưng không có bất cứ ghi chép nào về Lâu Lan. Có lẽ thành Lâu Lan đã bị vùi sâu trong cát, bốn bề chỉ có sa mạc hoang vu trải dài vô tận. Lúc bấy giờ là năm 645 Công nguyên, cách nay đã hơn một ngàn năm lịch sử.

Mãi đến thế kỷ XX, Lâu Lan mới tỉnh lại từ trong một giấc ngủ dài, một lần nữa bước lên vũ đài lịch sử thế giới.

Trong thời kỳ ấy, màu sắc của khu vực này trên bản đồ thế giới đã nhiều lần biến đổi, chỉ có vùng đất nhỏ Lâu Lan say ngủ không ai biết tới, cũng chẳng ai dám bước vào đại mạc hoang vu rộng lớn không hề có dấu vết của sự sống.

Thế kỷ XX, nhà thám hiểm người Thụy Điển Sven Hedin khiến cho cổ thành ngàn năm Lâu Lan bị vùi lấp trong hoang mạc lại thấy được ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, các học giả đã phải trải qua rất nhiều cuộc tranh luận mới xác định được vị trí di tích Lâu Lan. Họ buộc phải đồng thời giải quyết vấn đề bí mật hồ La Bố, mặt hồ từng lăn tăn gợn những ngọn sóng xanh như ngọc bích, giờ lại không hề tìm ra tung tích.

Chính như người Lâu Lan cho rằng không có hồ La Bố thì không có thành Lâu Lan, các học giả thế kỷ XX cũng không thể tách rời hai vấn đề này để khảo chứng. Nếu di tích mà nhà thám hiểm Thụy Điển Sven Hedin phát hiện ra đích thực là Lâu Lan, thì ở gần đó phải có hồ La Bố. Hồ La Bố rốt cuộc đã đi đâu? Các học giả buộc phải tìm cho ra hồ La Bố trong số rất nhiều hồ giữa sa mạc, cho dù chỉ là một vết tích nhỏ. Ngoài ra, còn phải giải được bí mật vì sao hồ La Bố lại thay đổi vị trí của mình.

Cuối cùng, giới học thuật nhận định, nơi mà Sven Hedin phát hiện ra chính là di tích Lâu Lan, còn hồ La Bố dịch chuyển theo hướng nam bắc theo chu kỳ một ngàn năm trăm năm – dưới tác động của bùn cát tích lũy trong quá trình sông Tháp Lý Mộc chảy vào hồ La Bố cũng như dưới tác động của gió lớn khiến dòng chảy của sông thay đổi, hồ La Bố cứ một ngàn năm trăm năm một lần sẽ di chuyển từ bắc xuống nam, rồi một ngàn năm trăm năm sau lại di chuyển từ nam lên bắc.

Năm 1927 Công nguyên, Sven Hedin năm sáu mươi hai tuổi tổ chức một đội thám hiểm với sự tham gia của nhiều chuyên gia, thực hiện cuộc thám hiểm khảo sát Tây vực quy mô lớn lần thứ tư. Tên chính thức của đội thám hiểm này là Đoàn nghiên cứu khoa học Tây Bắc, thành phần chủ yếu có mười tám người Đức và người Thụy Điển, mười người Trung Quốc, còn thêm lái xe, đầu bếp thuê tại địa phương và nhân viên tùy tùng.

Sven Hedin quay lại thăm di tích Lâu Lan lần nữa trong lần thám hiểm lần thứ tư này. Một hôm, ông đi men theo một con sông trong sa mạc, đó là một trong những nhánh của dòng sông mà bốn thế kỷ trước đã từng chảy. Khi người Lâu Lan còn sống ở đây, con sông từng cung cấp lượng nước dồi dào, sau đó một thời gian dài dòng chảy trở nên cạn khô. Hiện tại, nhà thám hiểm phát hiện ra dòng sông đã lại bắt đầu có nước. Hồ La Bố dịch chuyển, Lâu Lan trở thành kinh đô bỏ hoang giữa sa mạc và bị lãng quên, cuối cùng bị chôn vùi trong cát. Ngày nay, dòng chảy của sông lại xuất hiện trên di tích Lâu Lan, mấy nhánh khô cạn từ bao đời lại bắt đầu có nước, thực vật cũng theo đó mà hồi sinh. Có thể tưởng tượng, mấy mươi dòng sông cát đã cạn khô rồi cũng sẽ chảy trở lại, và vô số sinh mệnh cũng sẽ quay trở lại cùng với nước.

Ngày hôm đó, Sven Hedin phát hiện hai cỗ quan tài trong sa mạc, một ở trên núi, một ở chân núi cách đó một quãng. Sven Hedin đã miêu tả một cách hết sức tường tận về một trong hai cỗ quan tài này trong trước tác của ông:

“Hai thuyền phu có đôi mắt như mắt chim ưng đã phát hiện ra trên đỉnh cao (vùng nền đất do vật trầm tích sau khi bị xâm thực bồi đắp vào mà hình thành) có một ngôi mộ, nằm tại góc phía đông trên phần nền đất nhỏ cạnh nền đất lớn.

Chúng tôi đi ngang qua phần mộ bị gió cát xâm thực, tới nơi hoang vắng có thể dừng lại nghỉ chân. Thấy thuyền đã không còn có thể tiến thêm được nữa, tôi bèn bảo mọi người dựng lều ở phía tây nam ngôi mộ số hai, nhưng tất cả đều muốn đi xem xét cùng tôi, nên không thể từ chối được.

Nền đất nhỏ trải dọc theo chiều từ đông bắc đến tây nam, dài bốn mươi mốt foot[4], rộng hai mươi foot, phần đỉnh cách mặt nước hai mươi chín foot, cách vùng đất xung quanh hai mươi bốn foot. Từ trên nền đất lớn nhìn ra là thấy ngay nơi đây có một phần mộ, vì những nơi khác đều trống trơn, chỉ chỗ này có một cây sanh liễu khô, càng nhìn càng thấy không giống với bất kỳ cái gì khác.

Cây sanh liễu khô này dường như đang mời gọi chúng tôi đào xuống phía dưới. Mọi người lập tức bắt tay vào việc. Tuy nhiên, phần đất kết lại thành nền cứng như đá, đang hình thành bàn thạch. Thế là có người quay về bên bờ tìm rìu, bổ được chỗ cứng rắn nhất ra. Mộ huyệt hình chữ nhật, nằm ở bờ nghiêng hướng tây bắc của nền đất, phía trên cách tầng đất bồi của bờ nghiêng một foot, đào xuống dưới khoảng hai foot. Đào đến hai foot ba inch[5] thì đụng phải nắp quan tài. Mọi người dùng rìu trước, sau đó dùng cuốc để cuốc những khối đất lên. Nắp quan tài được làm từ một phiến gỗ dài năm foot mười một inch, bảo tồn hoàn hảo. Phiến gỗ phần đầu rộng một foot tám inch, phiến gỗ chân rộng một foot năm inch rưỡi, gỗ dày một inch rưỡi. Phần đầu hướng về phía đông bắc.

Tuy phần nắp đã hoàn toàn lộ ra, nhưng quan tài và đất sét vẫn dính chặt lại với nhau không tách ra được, chúng tôi phải đào cho phần mộ huyệt rộng ra mới có thể mang quan tài lên khỏi mặt đất, thế là mọi người quyết định đào toàn bộ phần vách đất phía tây bắc. Đây là một công việc rất tốn thời gian và công sức, mọi người rồi cũng vượt qua được chướng ngại cuối cùng, cẩn thận từng chút một để nhấc quan tài lên đặt trên nền đất.

Quan tài có hình dạng đặc trưng của khu vực nhiều nước, giống như một con thuyền độc mộc thường thấy, được đóng từ một khối gỗ thẳng, bị cưa đi phần đầu thuyền và những mái chèo.

Hai tấm gỗ làm thành nắp quan tài đã bị gỡ ra ngay khi còn chưa san hết bùn đất. Chúng tôi không thể chờ thêm phút nào, muốn lập tức nhìn thấy người đã khuất trong giấc ngủ dài, nhưng thứ chúng tôi nhìn thấy đầu tiên không phải thi thể, mà là một tấm khăn trùm bọc từ đầu đến chân. Tấm khăn trùm vô cùng mỏng manh yếu ớt, tay vừa chạm vào lập tức tan ngay thành bụi. Chúng tôi mở phần khăn quấn đầu ra, và nhìn thấy người thống trị sa mạc xinh đẹp tuyệt trần: nữ vương của Lâu Lan và hồ La Bố.

Năm ấy, vị vương phi trẻ tuổi này đột nhiên tạ thế, những người yêu mến nàng đã mặc cho nàng tấm áo đặc biệt dành cho người quá cố, rồi chôn nàng trên ngọn núi yên tĩnh này. Nàng đã lặng lẽ an nghỉ được gần hai ngàn năm, mãi đến khi những kẻ hậu thế từ phương xa đến làm nàng tỉnh giấc.

Lớp da trên mặt nàng cứng lại giống như giấy da dê, ngũ quan và những đường nét trên gương mặt hoàn toàn không bị biến đổi trong chừng ấy thời gian. Nàng nhắm mắt, hốc mắt dường như không bị trũng xuống. Trên môi nàng vẫn giữ nguyên nụ cười mỉm chưa từng mất đi qua nhiều thế kỷ. Những điều thần bí này khiến cho nàng làm người ta vô cùng xúc động.

Thế nhưng, nàng không thổ lộ cho chúng tôi biết bí mật quá khứ: cuộc sống đầy màu sắc của Lâu Lan, vẻ đẹp mơn mởn ven hồ La Bố, những ký ức trên hành trình của những con thuyền nhỏ và những chiếc thuyền độc mộc.

Nàng nhất định đã từng thấy quân đội Lâu Lan ra khỏi thành nghênh chiến cùng Hung Nô và các man tộc khác, đã từng thấy những chiến xa chất đầy cung tên và vũ khí, từng thấy những toán thương buôn Lâu Lan hoặc những toán thương buôn dừng chân lại tại Lâu Lan, từng thấy vô số lạc đà chất đầy vải vóc tơ lụa quý giá của Trung nguyên đi về phía tây theo “con đường tơ lụa”. Nàng nhất định đã từng yêu, và từng được yêu, cũng có thể chính vì bi kịch tình yêu mà phải chết. Tuy nhiên, tất cả đều không thể nào biết được nữa. Phía cạnh trong quan tài dài năm foot bảy inch. Nữ vương xinh đẹp mà người đời không biết tới này là một người con gái có thân hình nhỏ nhắn, cao khoảng năm foot hai inch.

Dưới ánh mặt trời chiều, chúng tôi bắt đầu khảo sát y phục an táng của nàng. Đầu nàng đội một chiếc mũ vải, được thắt lại bằng một dải khăn đơn giản. Tấm vải đắp trên người nàng hình như là vải bố. Nàng mặc hai lớp lụa vàng, ngực đắp một mảnh lụa hình vuông thêu hoa đỏ, bên trong là một chiếc áo lót bằng sợi gai. Phần dưới thân thể nàng được bao bọc bằng tơ lụa, phía dưới là vải lụa vàng và vải gai, bên trong là váy ngắn màu trắng, trong cùng là váy mỏng và quần dài. Chân nàng đi hài lụa. Thắt lưng của nàng được thắt sát vào da thịt.

Chúng tôi lấy từ mỗi lớp trang phục của nàng một miếng nhỏ để làm vật mẫu, riêng mũ và giày thì lấy đi, còn lấy cả một bao đựng tiền có hoa văn tinh xảo. Ở góc phía ngoài quan tài phần sát với đầu, chúng tôi phát hiện một chiếc bàn nhỏ hình vuông và một chiếc bát gỗ màu đỏ, còn có một bộ hài cốt dê hoàn chỉnh. Đây chắc là những gì người ta chuẩn bị cho nàng để sang thế giới bên kia.”

Chúng ta không thể nào khảo chứng được, trong quan tài gỗ mà Sven Hedin khai quật lên kia có phải là vị hoàng phi trẻ tuổi đã tự tận vào ngày người Lâu Lan chuẩn bị bỏ thành để dời đi hay không. Cái chết của nàng vốn là một bí mật, chúng ta không cần phải quá đi sâu nghiên cứu làm gì. Suốt một ngàn năm trăm năm vùi chôn trong sa mạc, Lâu Lan và hồ La Bố cùng biến mất, không ai biết đang ở đâu. Hiện tại, sau những nỗ lực của các học giả, hai câu đố lớn này cuối cùng cũng được giải, vậy đã quá đủ rồi.

Ngày nay, hồ La Bố đang dần quay trở lại đất cũ Lâu Lan. Từ khi di tích Lâu Lan do Sven Hedin phát hiện ra tới nay đã quá nửa thế kỷ. Trong thời gian này, hồ La Bố không ngừng di chuyển về phía Lâu Lan. Ngay bây giờ, nó cũng đang dịch chuyển. Để hồ La Bố cuối cùng quay về được với Lâu Lan, chắc còn phải thêm vài mươi năm nữa, nhưng việc nó đang quay về là sự thực. Thần linh Hà Long của người Lâu Lan chắc cũng đang trên đường trở về. Mà không, có lẽ Hà Long đã về tới Lâu Lan.

 

(Phần trích dẫn Sven Hedin trong truyện này lấy từ tác phẩm The Wandering Lake )

[1]

(日)井上靖 著,赵峻 译. (2013). 楼兰.北京十月文艺出版.

(Nhật), Inoue Yasushi, Triệu Tuấn dịch. (2013). Lâu Lan. Nxb Văn nghệ tháng 10 Bắc Kinh.

[2]   Bạch Long Đôi: vùng sa mạc địa chất với những đồi cát nhỏ bị gió xâm thực, là một trong những cảnh quan nổi tiếng thuộc vùng hồ La Bố.

[3]   Hành lang Hà Tây (The Hexi Corridor) : khu vực từ Hoàng hà về phía tây, cũng là con đường từ Trung nguyên vào Tây vực, thuộc tỉnh Cam Túc của Trung Quốc ngày nay.

[4]   Đơn vị foot quốc tế được định nghĩa là bằng với 0,3048 mét (tương đương với 304,8 milimét).

[5]   Đơn vị inch quốc tế được định nghĩa chính xác bằng 25,4 milimét.

Nghiên cứu khoa học Văn học Nhật Bản Văn học phương Tây

Tiếp biến Franz Kafka trong tiểu thuyết Haruki Murakami

Th.S Nguyễn Bích Nhã Trúc

Khoa Ngữ Văn – Đại học Sư Phạm TP.HCM

Không lâu sau ngày Franz Kafka qua đời (3/6/1924), độc giả châu Âu nhanh chóng nhận ra những điều được viết trong các trước tác vốn ít được biết đến lúc sinh thời của ông, đều trở thành hiện thực. Nhân loại ngày càng đi về phía “những lời tiên tri” của thiên tài văn học có số phận ngắn ngủi và bi đát. Suốt nửa sau của thế kỷ XX, văn học, triết học Châu Âu chưa bao giờ ra khỏi “cái bóng Kafka”. “Cái bóng Kafka” đã lan sang châu Á, nhất là từ sau chiến tranh Thế giới II, ở những nước sớm có sự tiếp xúc với Phương Tây, tiêu biểu là Nhật Bản. Nhờ tiềm lực văn hóa đã tích lũy trước đó từ thời Minh Trị, văn học Nhật Bản đầu thể kỷ XX đã có cơ hội tiếp xúc với văn học phương Tây sớm hơn các nước khác trong khu vực. Trong hai thời kỳ Taisho và Showa, cùng với sự lớn mạnh của ngành dịch thuật, xuất bản ở Nhật, văn học Nhật đã chứng kiến cuộc hội nhập sâu rộng của văn học truyền thống với văn học hiện đại phương Tây. Hầu hết các tên tuổi lớn trên thế giới như Samuel Beckett, Dostoievsky, James Joyce, Marcel Proust… đều đã có mặt ở Nhật, tất nhiên không thể thiếu Franz Kafka. Cùng với đó là hàng loạt các trường phái, khuynh hướng văn học hiện đại cũng đã du nhập vào Nhật Bản: chủ nghĩa biểu hiện, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, phân tâm học, chủ nghĩa phi lý… được thế hệ các nhà văn trẻ tài năng, giàu cá tính, ham học hỏi vận dụng trong sáng tác. Ở Nhật, người chịu ảnh hưởng văn chương Kafka sớm nhất, phải kể đến Abe Kobo – “Kafka của Nhật Bản”. Những sáng tác của Abe Kobo mang dấu ấn Kafka từ đề tài, chủ đề cho đến kỹ thuật, thủ pháp sáng tác, thể hiện tinh thần sáng tạo mới mẻ, đầy cố gắng của Kobo trong việc đưa văn chương Nhật thoát khỏi những khuôn mẫu truyền thống, hướng đến hội nhập phương Tây. Không lâu sau, văn học Nhật xuất hiện gương mặt nhà văn hậu chiến khác, ít nhiều chịu ảnh hưởng Kafka là Haruki Murakami. Với tiểu thuyết Kafka bên bờ biển, Murakami đã trở thành người Nhật đầu tiên (và là nhà văn thứ 6 trên thế giới) nhận được giải thưởng Franz Kafka do Cộng hòa Czech trao tặng năm 2006. Tiểu thuyết Kafka bên bờ biển trong ý nghĩa nào đó, thể hiện sự tôn vinh của Murakami đối với Kafka – nhà văn lớn nhất thế kỷ XX. Bản thân Murakami đã phát biểu khi nhận giải thưởng: “Tác phẩm của Kafka thật tuyệt, nó chứa đựng một số giá trị phổ quát, tôi hiểu rằng ông ấy là nhân tố quan trọng nhất trong văn hoá châu Âu. Trong cùng thời điểm, chúng ta chia sẻ những tác phẩm của ông. Lần đầu tiên tôi đọc cuốn The Castle khi tôi mười lăm tuổi, tôi đã không suy nghĩ theo cách đó. Cuốn sách này thuộc về trung tâm văn hoá Châu Âu. Tôi chỉ cảm thấy, đây là cuốn sách của tôi, cuốn sách dành cho tôi.”(1)

Giữa Kafka và Murakami có một sợi dây liên kết kì lạ. Nếu như Kafka chủ yếu sống và viết trong giai đoạn đầu thế kỉ XX thì Murakami lại sáng tác vào giai đoạn cuối thế kỉ XX sang đầu thế kỷ XXI. Sự tiếp thu, gặp gỡ của Murakami đối với những vấn đề Kafka đã đặt ra cũng là những điều mà đến nay nhân loại tiến bộ vẫn luôn trăn trở, tìm kiếm câu trả lời. Trong tham luận này, chúng tôi tiến hành so sánh một số điểm tương đồng và khác biệt trong thế giới nghệ thuật của hai nhà văn Franz Kafka và Haruki Murakami, nhằm minh chứng cho sự tiếp biến Franz Kafka trong sáng tác của Murakami – nhà văn Nhật đang có ảnh hưởng lớn đến người đọc không chỉ ở Châu Á mà trên toàn thế giới hiện nay. Chúng tôi chỉ khảo sát trên bình diện tiểu thuyết (mặc dù cả hai nhà văn đều là những cây bút truyện ngắn xuất sắc thế giới), vì đúng như Max Brod đã đánh giá: “Những tác phẩm Lâu đài, Vụ án sẽ chứng tỏ rằng tầm quan trọng của Franz Kafka thực sự nằm ở tiểu thuyết trường thiên chứ không thể chỉ được coi, phần nào có lý, là một chuyên gia, một bậc thầy về truyện ngắn như cho đến nay”(2)

1. Vấn đề “con người cá nhân” – mối bận tâm của các nhà văn lớn

Kafka và Murakami, dù sống trong hai thời kỳ khác nhau nhưng đều là những nhà văn rất quan tâm đến vấn đề “con người cá nhân”. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân: “Có thể nói nỗi lo đời thường chính là một trong những yếu tố làm cho văn học Kafka và chủ nghĩa hiện sinh sau này có một ý nghĩa nhân đạo sâu sắc”(3) Trong tiểu thuyết cũng như truyện ngắn Kafka, con người với những mối lo đời thường được chú ý. Con người trong tác phẩm của Kafka hầu hết là những người yếu đuối, nhỏ bé, mong manh trong hoàn cảnh hiện hữu của mình. Một Samsa trong hình hài con bọ sau buổi sáng thức dậy, chỉ có thể nằm, bò trên giường, trên sàn trong căn phòng nhỏ, bất kỳ ai cũng có thể làm tổn thương anh, kể cả những người thân mà anh đã hi sinh vì cuộc sống của họ. Hay Josef K, một nhân viên bình thường chuẩn bị đón sinh nhật lần thứ 30, sau khi thức giấc, bị hai kẻ lạ mặt vào tận nhà bắt đi, bị kết án là kẻ có tội. Người ta thường dẫn ra câu nói cuối cùng của Josef K khi bị hành quyết: “Như một con chó” để khái quát thân phận con người trong xã hội hiện đại – một cỗ máy khổng lồ mà con người hoàn toàn lạc lối, không thể hiểu cơ chế vận hành của nó.

Trước Kafka, thân phận con người chưa bao giờ xuất hiện nhỏ bé, rẻ rúng, là nạn nhân của sự phi lí tột cùng như vậy. Chuyện Samsa hóa thân thành bọ không còn là chuyện huyền thoại hay cổ tích nữa, nó xuất hiện ngay giữa thời hiện đại, là ẩn dụ cho số phận, sự tha hóa của con người trong đời sống. Samsa hóa thành bọ nhưng anh không hề ngạc nhiên, thắc mắc về chuyện ấy. Samsa dường như coi đó là chuyện không quan trọng bằng việc bị trễ chuyến tàu đi làm,… Vấn đề ở đây là “bi đát không phải Gregor Samsa là một con vật; bi đát là Gregor Samsa không phải hoàn toàn là con vật mà cũng không phải hoàn toàn là con người; Samsa ở chính giữa nửa người nửa vật và không biết mình thuộc về đâu; loài người không nhận Gregor Samsa mà loài vật cũng không nhận hắn.”(4) Có lẽ mọi bi kịch của Samsa khởi sinh từ chuyện biến dạng này. Kafka rõ ràng không chỉ cảnh báo nguy cơ biến dạng về mặt hình hài mà ông muốn đề cập đến một sự tha hóa, biến dạng khác sâu sắc hơn: biến dạng trong bản chất tinh thần. Con người sẽ trở thành vật, thành công cụ phục vụ cho âm mưu nào đó, hay cho guồng máy xã hội, và thậm chí có thể dần trở nên xa lạ với chính mình, mất đi nguồn gốc của mình lúc nào không hay biết. Đây là một trong những đóng góp có ý nghĩa khám phá lớn nhất về mặt tư tưởng của Kafka. Sau này, các nhà văn hậu thế hầu như đều chịu ảnh hưởng từ ông. Murakami là một trong số đó.

Nhà văn người Nhật, trong một số tiểu thuyết của mình cũng đã xoáy vào vấn đề thân phận con người trong xã hội kỹ trị, nơi có nhiều thế lực vô hình với công nghệ số, đã và đang thao túng đời sống con người, biến họ thành máy móc. Đọc Xứ sở kỳ diệu bạo tàn và chốn tận cùng thế giới, hẳn ta không thể quên nhân vật tôi – toán sư 37 tuổi, làm việc cho một tổ chức bí mật giữa lòng thế giới. Anh là một trong những thành viên được lựa chọn cho thí nghiệm “xáo dữ liệu” trên não người. Chính anh cũng không biết được mình là nạn nhân trong thí nghiệm khủng khiếp ấy. May mắn (hay bất hạnh) vì não anh có một khả năng đặc biệt nên thay vì chết ngay lập tức như một số toán sư khác, anh lại có thể sống sót. Trớ trêu thay, khi được biết sự thật về thí nghiệm vô nhân tính, giả danh khoa học kia, anh chỉ còn có thể sống được trong một thời gian ngắn. Hình ảnh nhân vật toán sư trong tiểu thuyết Murakami khiến người đọc bị ám ảnh về số phận nhỏ bé, trớ trêu của con người trong xã hội hiện đại, nơi mà gần như toàn bộ thế giới được đặt dưới một hệ thống ngầm, vô cùng tinh vi có tên là Tội Ác. Ở đó, mạng sống con người bị đo đếm một cách chính xác đến từng giây từng phút: “còn hai mươi chín tiếng và ba mươi lăm phút nữa. Dung sai cho phép là cộng trừ bốn mươi lăm phút. Tôi đặt chương trình vào mười hai giờ trưa cho dễ nhớ. Vậy là mười hai giờ trưa mai.”(5) Nhưng con người không dễ biết về tấn bi kịch mà mình đang rơi vào. Bi kịch về sự tồn tại nhỏ bé, đáng thương, là nạn nhân của sự phi lí trong đời sống từ những tác phẩm của Kafka, đến Murakami, một lần nữa lại được tô đậm, phát triển thành một chủ đề lớn trong các tác phẩm.

Cả hai nhà văn đều hướng đến việc khắc họa bi kịch về sự xa lạ của con người trong xã hội, với những người có quan hệ huyết thống, xa lạ với chính mình. Cả Murakami và Kafka đều lựa chọn chủ đề mối quan hệ cha – con trong sáng tác để làm nổi bật chủ đề “sự xa lạ của con người”. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy những chủ đề, motif chính mà Kafka đã khơi nguồn cho văn học thế giới như: đứa trẻ bị kết tội, chấn thương tâm lí, mối quan hệ cha – con, con người xa lạ… đều xuất hiện trong tiểu thuyết Kafka bên bờ biển của Murakami. Từ cách đặt tên tác phẩm và tên nhân vật đầy ẩn ý (Kafka trong tiếng Czech là “con quạ”), đến việc xây dựng cốt truyện sử dụng motif mối quan hệ cha – con và lời nguyền số phận trong bi kịch Oedipus đã minh chứng cho sự ảnh hưởng của Kafka đối với tác phẩm hư cấu xuất sắc này của Murakami. Hầu hết những nhà Kafka học đều công nhận nỗi ám ảnh lớn, chi phối tư tưởng Kafka là hình ảnh người cha độc đoán, thích áp đặt quyền lực lên người khác. Trong Thư gửi bố – cuốn nhật kí được coi là chứa đựng nhiều yếu tố văn học, như một tác phẩm tự thuật, Kafka đã nói lên suy nghĩ của mình về người cha mà ông suốt đời phải chịu đựng: “Tựa lưng vào chiếc ghế bành, bố cai trị cả thế giới. Quan điểm của bố là đúng, còn lại tất cả đều là hâm hấp, chập cheng, rác rưởi, không bình thường. Vậy là với con, bố trở thành một bí ẩn của tất cả những tên bạo chúa, những kẻ xây dựng lí lẽ dựa trên con người họ chứ không phải dựa trên lí trí.”(6) Cụ thể, Kafka đã bày tỏ một cách chân thực và đau đớn suy nghĩ của đứa con chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc khi sống trong một mái nhà với người cha ấy. Cả một quãng thời gian dài từ nhỏ đến khi trưởng thành, nỗi sợ hãi đối với bố luôn đeo bám Kafka, khiến ông không bao giờ có thể sống thanh thản hay tự do làm những việc mình yêu thích. Từ việc học hành, giao tiếp bạn bè, đến việc chọn người yêu, kết hôn… tất cả đều nằm dưới sự kiểm soát của bố. Điều ấy khiến Kafka từ một cậu bé sợ hãi, chỉ biết phục tùng, luôn mang mặc cảm tội lỗi, đã cố gắng quẫy đạp để thoát ra khỏi vòng kìm kẹp vô hình. Nó trở thành một khát vọng sống, một ẩn ức đớn đau mà suốt đời không bao giờ Kafka thực hiện được.

Còn cậu bé Kafka – nhân vật chính trong Kafka bên bờ biển của Murakami vừa mang bóng dáng bi kịch trong mối quan hệ cha – con của Franz Kafka vừa mang bi kịch bị kết tội của hoàng tử Oedipus, khi vào sinh nhật thứ 15, cậu nhận được lời nguyền khủng khiếp từ Koichi Tamura – người bố ruột của mình: “Mày sẽ giết cha, ngủ với mẹ và chị gái của mày”. Trong hành trình khám phá số phận, tìm cách hóa giải lời nguyền độc địa ấy, dường như mọi thứ đều xảy đến: giết cha; ngủ với mẹ và chị gái. Cái bóng quyền lực của người cha ruột Koichi (được xây dựng như một biểu tượng của Quyền lực) luôn đè nặng, chi phối số phận của con trai. Nhưng mặt khác, dường như những khó khăn, bi kịch của Kafka Tamura đều được “hóa giải” bằng các yếu tố khác trong tác phẩm. Một trong những yếu tố đó chính là vai trò của nhân vật Saeki – người được coi là mẹ ruột của Kafka. Bằng bút pháp nghệ thuật huyền ảo, Murakami đã khiến cho tình tiết Kafka gặp lại và chung đụng thể xác với mẹ ruột (Saeki trong hình hài thiếu nữ 15 tuổi), trở thành một tình tiết có tính bước ngoặt và chìa khóa giải mã thông điệp trong tác phẩm.

Hành trình của Kafka có rất nhiều nỗ lực của chính cậu thiếu niên kiên cường này nhưng không thể thiếu vai trò của người mẹ lưu lạc Saeki. Ở một góc độ khác, có thể hiểu rằng Kafka sẽ khó có thể mạnh mẽ và đạt đến sự trưởng thành thực sự nếu không có việc “hợp nhất” với người đã sinh ra mình. Có một sự khác biệt lớn giữa vai trò người mẹ trong cuộc đời của nhà văn Franz Kafka ngoài đời thực và người mẹ của nhân vật Kafka Tamura. Cũng trong Thư gửi bố, Franz Kafka đã nói lên suy nghĩ về mẹ: “Con luôn có thể được mẹ chở che, nhưng chỉ che chở trong mối quan hệ với bố. Mẹ quá yêu bố và quá trung thành với bố. Vì vậy về lâu dài mẹ không đóng vai trò bảo trợ về tinh thần trong cuộc đấu tranh của chúng con (…) mẹ cũng chỉ độc lập trong những việc liên quan đến mẹ mà thôi. Còn trong quan hệ với chúng con, theo thời gian, mẹ càng ngày càng ngả theo quan điểm và định kiến của bố, ngả theo toàn diện, mù quáng, theo cảm giác hơn là lí trí.”(7) Không chỉ là trong đời thực mà cả trong các tiểu thuyết, Kafka cũng ít xây dựng hình ảnh người phụ nữ nào thực sự nổi bật với vai trò cứu rỗi, mang đến sự bình yên, sức mạnh tinh thần cho các nhân vật. Ngược lại, trong Kafka bên bờ biển, từ khi xuất hiện đến khi xa lìa cuộc sống, Miss Saeki được Murakami xây dựng với vai trò là “người bảo trợ tinh thần” giúp Kafka vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Bà như hình ảnh ánh trăng sáng trong, đẹp đẽ của tính nữ Nhật Bản dịu dàng, luân chảy trong nền văn học, văn hóa Phù Tang. Điều đó đã cứu rỗi Kafka, mang đến niềm tin và sức mạnh giúp cậu bước tiếp hành trình phía trước, dẫu không còn mẹ.

Vấn đề đặt ra là vì sao lại có sự khác biệt này? Phải chăng xuất phát từ sự khác biệt trong nguồn cội văn hóa tinh thần Đông – Tây mà một bên đại diện là Murakami còn bên kia là Franz Kafka? Văn hóa phương Tây, từ xa xưa, luôn xây dựng hình ảnh người cha – người đàn ông như một biểu tượng của tính dương, của quyền năng và sức mạnh không thể khuất phục. Ngược lại, văn hóa phương Đông đề cao hình ảnh của người phụ nữ với tình yêu thương bao la, chở che, hi sinh tận hiến. Nữ thần Mặt trời Amaterasu là thủy tổ của dân tộc Nhật, tất cả các Thiên Hoàng sau này đều là hậu duệ của bà. Dấu vết của sự ảnh hưởng, vai trò của nữ thần Amaterasu cho đến nay, vẫn còn lưu lại rất nhiều trong văn hóa Nhật Bản. Mặt khác, theo thiền sư D.T Suzuki: “Ở cơ sở của những lối tư duy và cảm nhận của người phương Tây có người cha, thì người mẹ nằm ở đáy sâu bản chất phương Đông. (…) Người mẹ ôm lấy mọi thứ trong tình yêu vô điều kiện. Không có vấn đề đúng, sai. Mọi thứ đều được chấp nhận không có gì khó khăn hay cần căn vặn. Tình yêu ở phương Tây luôn chứa đựng một cái bã của quyền lực. Tình yêu phương Đông thì ôm lấy tất cả. Nó mở rộng về mọi phía. Ta có thể đi vào từ mọi hướng.”(8) Từ phương diện ngôn ngữ và tâm lí học, trong các công trình nghiên cứu Nhật Bản, nhà tâm lí học Takeo Doi đã chỉ ra rằng: ngôn ngữ Nhật tồn tại khái niệm “amae” (甘え) (xuất phát từ động từ甘やかすnũng nịu, muốn được chiều chuộng, âu yếm ), vì vậy trong não trạng của người Nhật cũng luôn ngự trị tâm lí “amae”: “Nguyên mẫu của tâm lý amae nằm trong tâm lý đứa bé trong quan hệ của nó với mẹ. (…) Amae được dùng để chỉ việc bám theo mẹ xảy ra khi trí não của đứa bé đã phát triển đến độ nào đó và nhận ra rằng mẹ nó tồn tại độc lập với nó.”(9) Takeo Doi cho rằng chính tâm lý amae này sẽ vận hành, chi phối cảm giác hợp nhất giữa mẹ và con. Còn não trạng amae là “cố gắng chối bỏ việc tách rời vốn là một phần không thể tách rời của sự sống con người, xóa mờ nỗi đau chia lìa”(10) Bằng những lập luận thuyết phục, Doi đi đến kết luận khá quan trọng: “Không có amae thì không thể thiết lập mối quan hệ mẹ con và không có mối quan hệ mẹ con thì sự trưởng thành thực sự của đứa trẻ không thể có.”(11)

Dựa trên những điều vừa được tổng hợp, phân tích, có thể thấy vai trò của người mẹ đối với quá trình trưởng thành của đứa con trong văn hóa phương Đông nói chung, văn hóa Nhật Bản nói riêng đón vai trò nền tảng. Đó cũng là lí do vì sao người đọc sẽ nhận thấy motif mối quan hệ cha con mượn từ Franz Kafka và bi kịch Oedipus của Hy Lạp, thực chất chỉ là những lớp vỏ hình thức để Murakami triển khai chiều kích sâu xa, bí ẩn trong tâm lý con người hiện đại. Ở điểm này, ngòi bút của Murakami đã thực sự chinh phục những độc giả bình dân lẫn độc giả có tầm hiểu biết sâu rộng tri thức Đông – Tây. Và theo chúng tôi, có thể đi đến nhận xét rằng Kafka bên bờ biển chính là một phản đề, một tác phẩm mang tính chất “phản Kafka” rất tinh vi và xuất sắc của Murakami. Tính “phản Kafka” này đã cho thấy tư duy phản biện, trình độ bậc thầy của một nhà văn châu Á trong việc đọc, tiếp nhận Franz Kafka. Kết quả là tác phẩm đã mang đến cho người đọc một cái nhìn rộng mở mang tính đối thoại trong việc so sánh Đông – Tây, để chạm đến vô thức tập thể trong chiều sâu tâm thức nhân loại. Murakami thực sự xứng đáng được nhận giải thưởng Franz Kafka với tác phẩm này. Trên thực tế, hiện tượng tương tự không phải chưa từng xảy ra ở Nhật Bản. Đó là trường hợp tiếp nhận Shakespeare ở Nhật. Shakespeare vào Nhật khá sớm và đã có rất nhiều bản dịch khác nhau các kiệt tác của ông. Đến nay, sau hơn 100 năm tiếp nhận Shakespeare, người Nhật đã chuyển thể các kiệt tác quan trọng của Shakespeare sang nhiều hình thức: sân khấu kịch, điện ảnh… Trong đó, nổi bật nhất là Ran (Loạn) – bộ phim của đạo diễn Akira Kurosawa, dựa trên vở kịch King Lear. Về mặt hình thức, các nhân vật, bối cảnh phim, cũng như tư tưởng qua lời thoại của nhân vật hầu như “đi ngược lại” với tinh thần chung nguyên tác vở kịch của Shakespeare. Nhưng lạ thay, Ran lại là bộ phim được người phương Tây, những nhà Shakespeare học đánh giá là tác phẩm chuyển thể hay nhất, Kurosawa là đạo diễn “đọc Shakespeare” độc đáo nhất. Sở dĩ có điều này bởi Kurosawa đã thổi vào Ran cốt lõi văn hóa Nhật Bản là Phật giáo Thiền tông và đặt tư tưởng ấy trong thế đối thoại với một King Lear đặc trưng cho tinh thần văn hóa Tây phương.

Qua tiểu thuyết Kafka bên bờ biển, Murakami đã thể hiện những ảnh hưởng nhất định từ Kafka trong sáng tác, đồng thời sáng tạo lại trên cơ sở sự hiểu biết sâu về văn hóa, văn học và tâm lý dân tộc để tạo ra một kiệt tác văn học, nhằm chuyển tải những tư tưởng mới mẻ về vấn đề tồn tại và hành trình vượt lên bi kịch cá nhân của con người trong thế giới hiện đại đầy bất an, phi lý.

2. “Cái phi lí” hay hành trình khám phá bản chất xã hội và con người

Kafka là nhà văn có công đầu trong việc đặt nền móng cho sự xuất hiện chủ đề cái phi lí trong văn học hiện đại. Chủ nghĩa hiện sinh và văn học phi lí sau này phát triển nhiều vấn đề từ thế giới Kafka. Cái phi lí là vấn đề cốt yếu của tồn tại xã hội và tồn tại con người. Tuy nhiên, nhân loại phải cần cả một tiến trình mới nhận thức được đầy đủ về nó. Có lẽ phải đến Kafka, cái phi lí mới trở thành “một đối tượng nhận thức” thực sự, như nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân đã nhận định. Chừng nào còn chưa nhìn nhận cái phi lí như một đối-tượng-nhận-thức, chừng ấy con người còn chưa thể hiểu nguyên nhân sâu xa của hầu hết bi kịch, đau khổ trong đời sống.

Nhân vật của Kafka (trong các tiểu thuyết Lâu đài, Vụ Án) là nạn nhân trực tiếp của những bất công, phi lí tột cùng và đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất an, đau khổ. Đối với K (Lâu Đài) hay Josef .K (Vụ án), cái phi lí như một thế lực vô hình, chi phối và quyết định vận mệnh của họ. Các nhân vật của Kafka thường sống trong bầu không khí sợ hãi, lo âu và luôn cảm nhận rất rõ mối hiểm họa – chỉ là họ thực sự không biết phải làm cách nào để nhìn thấy nó, để đi đến tận cùng gốc rễ, “hang ổ” của nó. Franz Kafka rất xuất sắc khi khắc họa “sự hiện diện vắng mặt” của cái phi lí trong những trang viết của mình. Điều này đã trở thành một bút pháp mẫu mực, khẳng định phong cách “không lặp lại” của Kafka. “Cái làm cho Kafka trở thành một hiện tượng văn học đặc biệt là ông đã sáng tạo ra một nghệ thuật mô tả cái vắng mặt, nghệ thuật thông báo cái không thể thông báo, diễn đạt cái không thể diễn đạt”(12) Để diễn tả chân thực cái phi lí và những nỗi ám ảnh vô hình, Kafka luôn xây dựng hình ảnh mê cung trong tác phẩm. Đó là hệ thống những mê cung vừa tinh vi, nhiều tầng lớp, vừa khổng lồ, đầy nguy hiểm chực chờ nuốt chửng những con người nhỏ bé, lẻ loi. Tất nhiên, mọi nỗ lực tìm kiếm, khám phá bí ẩn về thế giới ấy của các nhân vật đều thất bại. Họ bị những mê lộ ấy nuốt chửng vào, đến lúc chết cũng không thực sự biết rõ vì sao, ai là người có thể cứu mình. Tâm thế vừa hoang mang vừa hoài nghi trước cuộc đời của Josef K trong Vụ án, đã nói lên điều đó: “Ánh mắt anh dừng lại nơi tầng trên cùng của ngôi nhà sát bên mỏ đá. Ở đấy, như một tia sáng chợt lóe lên, một cửa sổ vụt mở bung hai cánh, một bóng người – mờ nhạt, mảnh dẻ ở khoảng cách và độ cao ấy – đột ngột nhoài tới trước và hai cánh tay vươn ra còn xa hơn nữa. Ai thế nhỉ? Một người bạn chăng? Một con người nhân hậu chăng? Một con người duy nhất ư? Hay toàn nhân loại? Anh sắp có sự trợ giúp chăng? Phải chăng có những lý lẽ ủng hộ anh mà người ta đã không chú ý tới? Chắc chắn có. Dĩ nhiên không lay chuyển được logic, nhưng nó vẫn không cưỡng nổi một con người muốn sống.”(13)

Thủ pháp sử dụng mê cung làm phương tiện biểu đạt cái phi lí và cái bất khả tri về đời sống của Kafka được tái hiện trong những tác phẩm hư cấu có quy mô lớn của Murakami: Cuộc săn cừu hoang, Xứ sở kì diệu tàn bạo và chốn tận cùng thế giới, Biên niên kí chim vặn dây cót, 1Q84… Dưới hình thức những cuộc phiêu lưu vừa xảy ra trong không – thời gian thực tế, vừa là phiêu lưu tinh thần, Murakami đã để cho các nhân vật đi qua những mê cung vô cùng phức tạp, rối rắm: không chỉ trên mặt đất mà còn dưới lòng đất; không chỉ dạng không gian mê cung về mặt địa lí mà còn có cả loại mê cung trong tâm thức, trong não bộ của con người… Đây cũng là điểm khác biệt giữa Murakami và Kafka. Nếu như nhân vật của Kafka dường n chỉ vận động, di chuyển trong không gian chiều ngang, không gian thực, trong thời gian của hiện tại và hướng ngoại nhiều hơn thì các nhân vật của Murakami hoạt động trong cả không gian chiều dọc (đi xuống lòng đất), thời gian quá khứ (đi về giữa quá khứ và hiện tại, đi về trong hai không gian thực – ảo) và đặc biệt là không chỉ hướng ngoại mà còn hướng nội. Trong tiểu thuyết Xứ sở kì diệu kỳ tàn bạochốn tận cùng thế giới, khi kết thúc tác phẩm, người đọc ngỡ ngàng nhận ra cái mê cung bao trùm suốt cả câu chuyện chính là mê cung trong ý thức hệ bị tách làm hai phần của nhân vật toán sư. Như vậy có thể thấy về phương diện xây dựng dạng thức mê cung, cũng là việc tiếp thu bút pháp Kafka nhưng Murakami đã đi sâu, sáng tạo thêm những kiểu, dạng mê cung mới, nhằm diễn tả những tư tưởng, nội dung mới về mối quan hệ giữa tồn tại con người và thế giới. Với Murakami, không gian đa tầng không chỉ là không gian địa lý, nó còn là không gian tâm lí. Tâm thức con người cũng là một thế giới đa tầng ẩn chứa nhiều vùng tối chưa thể khám phá. Chiều sâu của không gian ở đây còn là chiều sâu những vùng vô thức chưa thể chạm tới của con người. Cuộc hành trình của toán sư xuống lòng đất khám phá thế giới ngầm của những tổ chức tội ác, vì vậy, còn mang ý nghĩa ẩn dụ. Ý nghĩa ấy được thể hiện trong tuyến truyện ở “chốn tận cùng thế giới”. Chốn tận cùng thế giới thực chất là ý thức hệ cuối cùng nằm trong não trạng của nhân vật toán sư, nó là thế giới do chính anh tạo ra, là vùng “nghĩa địa voi” trong não trạng của anh. Chuyến hành trình tìm lại “bóng” ở nơi tận cùng thế giới cũng là hành trình khám phá bản ngã con người trong chiều sâu vô thức. Miền vô thức (vùng tối) trong mỗi người là những địa tầng sâu thẳm, chỉ có đi đến giới hạn tận cùng của thế giới nội tâm, tận cùng bản ngã, con người mới có thể thấu thị những góc khuất sâu kín của tâm hồn.

Điểm giống nhau giữa Kafka và Murakami là đều sử dụng cái phi lí – như một thủ pháp nghệ thuậtđể nhận thức về bản chất của đời sống và tồn tại con người. Trong tác phẩm của họ, người đọc luôn cảm nhận về mối đe dọa của các thế lực vắng mặt, đe dọa tự do, sự tồn tại của con người thông qua những chi tiết, tình huống phi lí. Ở hai nhà văn cũng có sự thống nhất về việc truy nguyên nguồn gốc của cái phi lí: xuất phát từ chính lòng tham, sự mù quáng, độc ác của con người – những kẻ muốn dùng quyền lực chi phối, điều khiển người khác và thế giới (hình ảnh người cha độc tài, hay những nhân vật có tính chất biểu tượng: Ông chủ, hệ thống Tòa án, Nhà máy, Ma đen, lũ người Tí hon, Giáo chủ …) Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt trong cách nhìn nhận về cái phi lí giữa Kafka và Murakami. Đọc các tác phẩm của Kafka, ta thấy nhà văn nhìn nhận nguyên nhân của những cái phi lí trong đời sống hầu như đến từ phía “bên ngoài”, do tha nhân tạo ra dưới hình thức là vỏ bọc của các tổ chức tội ác, các thế lực chính trị thao túng đời sống con người. Nhưng với Murakami, ông không phủ nhận yếu tố “định mệnh”, những cái thuộc về “điều bất khả tri” trong tồn tại con người. Với ông, bi kịch, cái phi lí gây ra đau khổ, bất hạnh cho con người có nhiều dạng, nhiều kiểu. Nó có thể đến bất kỳ khi nào, bất kỳ ai trong chúng ta cũng có thể gặp phải trong đời sống. Trường hợp của Naoko trong tiểu thuyết Rừng Nauy hay Oshima trong Kafka bên bờ biển là những ví dụ như vậy. Naoko không thể hiểu tại sao cô lại rơi vào tình trạng bất toàn về mặt cơ thể (cảm xúc tình dục của cô trong hai lần tiếp xúc với Kizuki và Watanabe). Suốt cuộc đời ngắn ngủi cho đến khi tự sát, cô không thể hiểu vì sao mình lại rơi vào “sự phi lí” ấy. Không ai gây cho cô điều đó. Bi kịch Naoko đến từ điều gì đó gần như định mệnh. Hay Oshima – nhân vật thủ thư trong thư viện mà Kafka đã gặp. Từ khi sinh ra, Oshima không thể xác định được giới tính của mình. Murakami từng mượn câu nói của Dostoievsky để nói về điều này: “Hạnh phúc là ngụ ngôn, còn bất hạnh là chuyện đời”. Ông cảnh báo có thể những điều tương tự sẽ xảy ra với bất kỳ ai trong chúng ta. Dạng phi lí chỉ có thể lí giải bằng “định mệnh” ấy thường gây cho nhân vật của Murakami chấn thương tâm lý khó chữa lành. Chúng đẩy họ đến chỗ luôn bị ám ảnh, phải đối diện với một câu hỏi khó tìm lời giải: “Tôi là ai?”

Ở Kafka, vấn đề “Tôi là ai” chưa được đặt ra một cách thường trực và khắc khoải như Murakami. Dường như Kafka chỉ mới dừng lại ở vấn đề nhận diện: “Bản chất của thế giới mà con người đang ở bên trong ấy là gì?” mà chưa thực sự đi tìm câu trả lời cho vấn đề con người có thể làm gì với cuộc đời vốn phi lí ấy? Có lẽ vì vậy mà “vấn đề giải thoát” trong tác phẩm của hai nhà văn cũng là một sự khác biệt thú vị.

3. Vấn đề “giải thoát” trong tác phẩm F.Kafka và H.Murakami

Giải thoát” là vấn đề triết học được đặt ra trong hầu hết các tôn giáo lớn. Đời sống càng hiện đại, càng bất an phi lý, con người càng khao khát đạt đến sự giải thoát về mặt tâm linh. Nhìn từ phương diện triết học, “giải thoát” là vấn đề rất nhân bản, nhân văn. Con người có thể không được tự do lựa chọn việc mình được sinh ra nhưng họ hoàn toàn có thể tự chọn cho mình cách thế sống và cách chết. Phạm trù “giải thoát” trong đời sống hiện đại không còn được hiểu theo nghĩa đơn giản là giải thoát về mặt thể xác, mà là giải thoát về mặt tinh thần – nhằm đạt đến Tự – do – tuyệt – đối, điều có ý nghĩa tối hậu và đẹp đẽ nhất trong tồn tại con người.

Trong triết lí Phật giáo, hành trình giải thoát của con người căn bản trải qua ba bước:

(1)Đau khổ – (2)Thức tỉnh/ Giác ngộ – (3)Giải thoát

để đạt đến giải thoát, con người phải có điều kiện cần là “đau khổ”, và điều kiện đủ là sự “thức tỉnh” về đời sống.

Theo giáo sư Đặng Anh Đào, “hiện tượng vật hóa chính là cái mốc khởi đầu sự phát hiện, “bừng ngộ” của Gregor: anh bắt đầu ý thức về thân phận của mình trước đây, một cuộc sống mà tới nay, khi hóa thành bọ, anh mới bắt đầu đặt câu hỏi về nó. Trạng thái ấy rất gần với điều mà các nhà hiện sinh gọi là “sự thức tỉnh triết học”.(14) Chúng tôi đồng tình với nhận định này. Kafka là người tiên phong trong việc đánh thức sự “bừng ngộ” ấy trong văn học, các nhân vật của ông, chỉ khi rơi vào hoàn cảnh trớ trêu mới tỉnh thức và nhận ra nguyên nhân của sự phi lí. Tuy nhiên, vấn đề “giải thoát” ra sao, bằng cách nào sau khi đã “thức tỉnh” dường như chưa được đặt ra một cách cấp thiết và trở thành chủ đề chính trong tiểu thuyết của Kafka. Hầu hết các tác phẩm của Kafka dừng lại ở ranh giới của sự tỉnh thức và giải thoát. Trong khi đó, “giải thoát” lại là vấn đề được Murakami quan tâm sâu sắc. Các nhân vật của Murakami luôn “kháng cự lại tình trạng tha hóa” trong nỗ lực bảo toàn bản ngã. Một khi nhận ra những nguy cơ đẩy con người vào sự tha hóa, xa dần bản lai diện mục, bằng cách này hay cách khác, họ sẽ vừa dấn thân khám phá bản chất của đời sống, vừa cố gắng vượt qua những giới hạn của mình, khai mở sức mạnh tự thân. Điều này lí giải vì sao hành trình của họ thường mang ý nghĩa là hành trình nội tại, đi vào bên trong, đánh thức sức mạnh tiềm ẩn và những khả năng còn chưa khám phá hết. Nói cách khác, đó chính là Thiền. “Bẩm tính của con người phương Đông chính là nắm bắt cuộc đời từ bên trong, chứ không phải từ bên ngoài. Và tác dụng của Thiền cũng chính là khai phát cái bẩm tính đó.”(15) Murakami thực sự là nhà văn rất Nhật Bản trong ý nghĩa của từ này. Ông không xa rời hay chối bỏ cái cốt lõi của truyền thống trong văn hóa Phù Tang, nơi đã sản sinh ra mình – như một số ý kiến phê bình về ông.

Các nhân vật của Murakami thường chìm vào trạng thái Thiền tĩnh lặng, dẫu trong những hoàn cảnh “dầu sôi lửa bỏng”. Đó là hình ảnh Kafka đứng im lặng giữa trời, để cho những giọt nước mưa thấm vào cơ thể trần truồng trong khu rừng, khi cậu sống ở căn nhà gỗ, giữa chuyến hành trình đầy bão tố. Đó là Okada Toru (Biên niên kí chim vặn dây cót) hàng ngày tìm đến một ngã tư đông đúc, anh chọn cách “không làm gì”, chỉ ngồi đấy im lặng quan sát mọi người qua lại, và cuối cùng anh tìm được giải pháp tháo gỡ khúc mắc cá nhân sau khi trở về… Còn rất nhiều nhân vật khác… họ đều có những hành động, lời nói có vẻ “khác người” nhưng thực chất đều chứa đựng Thiền vị sâu xa. Ở phương diện này, một lần nữa người đọc thấy được sự khác biệt giữa hai nhà văn. Nếu như phương Tây là logic, lí trí, là pháp luật quy định chặt chẽ, là hình bóng người cha… thì phương Đông lại là người mẹ, là “trực giác tâm linh” phi lý tính và nét siêu việt của Thiền. Việc khước từ sự can thiệp của lý trí thông thường là chìa khóa giúp Thiền có thể khai mở cái tồn tại uyên nguyên trong mỗi con người. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống văn học, mặc dù từ trẻ sớm bị hấp dẫn bởi sự mới mẻ của phương Tây, nhưng Murakami chắc chắn không xa lạ với những tư tưởng ấy.

Hành trình của các nhân vật của Kafka, chủ yếu là “hướng ngoại”. Ngược lại, nhân vật trong thế giới Murakami có hướng ngoại (để tìm kiếm hơi ấm nhân quần, nuôi dưỡng niềm tin vào tình yêu, công lý…) nhưng trọng tâm vẫn được đặt chủ yếu vào sức mạnh bên trong. Có lẽ vì vậy mà nhân vật của Kafka dường như vẫn còn trong trạng thái hoang mang, hoài nghi những vấn đề đang dang dở… Đã có những ý kiến cho rằng thế giới của Kafka là thế giới mang âm hưởng của sự bi quan, bế tắc. Điều này cũng ít nhiều có lí lẽ riêng. Quan sát đời sống thực tế bất hạnh và bầu không khí u uất, ngột ngạt thời điểm đầu thế kỷ XX khi Kafka sống, thật khó để nhà văn hướng đến một giải pháp hợp lí, xán lạn hơn cho nhân vật của mình. Theo chúng tôi, nếu như Kafka chịu ảnh hưởng tư tưởng của Kierkegaard thì Murakami lại gần gũi tư tưởng của một nhà hiện sinh khác là Jean Paul Sartre – đặc biệt là trong cách nhà văn diễn giải những chủ đề: lựa chọn, dấn thân chịu trách nhiệm của con người.

Tạm kết

Nghệ thuật tiểu thuyết Murakami mang một số dấu vết về mặt nội dung tư tưởng và kỹ thuật hư cấu chịu ảnh hưởng của Kafka: vấn đề con người cá nhân trong xã hội hiện đại, cái phi lí và hành trình tìm đường của con người trong việc khám phá, nhận thức xã hội và tồn tại cá nhân… Có lẽ do sống ở hai thời kỳ khác nhau (trước và sau chiến tranh Thế giới II), do hoàn cảnh sống cũng như sự khác nhau đặc trưng các nền văn hóa Tiệp – Do Thái và Nhật Bản… nên hai nhà văn vẫn có những nét khác nhau khá rõ về mặt tư tưởng và phong cách, tạo nên sự khác biệt thú vị trong nghệ thuật tiểu thuyết. Tuy nhiên, các tác phẩm của Kafka và Murakami đều mang những giá trị toàn nhân loại, họ là những cây bút không chỉ đại diện cho nền văn học của một quốc gia, họ còn là những gương mặt toàn cầu. Chúng tôi muốn nói đến vấn đề toàn cầu hóa, tính chất “vượt qua biên giới” trong các tác phẩm của Murakami và Kafka. Các nhân vật của Kafka và Murakami thật quen thuộc, gần gũi với bất kỳ ai, bất kỳ nơi đâu trên thế giới, họ là những-con-người với những chuyện-đời-thường mà ai trong chúng ta cũng có thể gặp hằng ngày, xung quanh. Họ chẳng cần có một cái tên hay căn cước riêng. Thật hợp lí khi cho rằng: “đối với Kafka, hơn bất cứ một nhà văn nào khác, thật khó xác định một bối cảnh lịch sử xã hội truyền thống văn chương. Sở dĩ như vậy, chẳng những vì tính chất toàn thế giới, đa dạng và phong phú trong vốn văn học của ông mà còn vì rất khó xác định rằng ông chỉ là kết tinh của một nền văn hóa Tiệp, gốc Do Thái viết bằng tiếng Đức”(16) Murakami trong bối cảnh văn học Nhật Bản đương đại, cũng được công nhận như một nhà văn có xu hướng cách tân mạnh mẽ, khác biệt với văn học truyền thống Nhật Bản, hướng đến vấn đề toàn cầu hóa trong sáng tác. Các nhà nghiên cứu ở phương Đông lẫn phương Tây đều công nhận rất khó xếp Murakami vào một trường phái, một dòng văn học nào cụ thể. Bản thân nhà văn cũng cho rằng văn chương của ông không thuộc về một trường phái nào, vấn đề ông quan tâm là hướng đến những giá trị chung của nhân loại. Việc so sánh Murakami và Kafka, soi xét những khía cạnh độc đáo trong nghệ thuật tiểu thuyết, lí giải sự ảnh hưởng của họ lẫn nhau và đối với văn học thế giới… thực sự là mảnh đất còn nhiều hứa hẹn./

(*)Tham khảo và chú thích:

(1) http://www.radio.cz/en/section/curraffrs/franz-kafka-society-lauds-japanese-writer-murakami) Ngày truy cập 12/03/2018

(2)(13)F.Kafka (2015), Vụ án (Lê Chu Cầu dịch), NXB Văn học và công ty Nhã Nam, tr308, tr266.

(3)(12) (14) (16) Nhiều tác giả (2003), Tuyển tập tác phẩm Franz Kafka, NXB Hội nhà văn và Trung tâm văn hóa – ngôn ngữ Đông – Tây. Tr3, tr11, tr911, tr904.

(4) Haruki Murakami (2010), Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới (Lê Quang dịch), Nhã Nam và Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr430.

(5) Phạm Công Thiện (1970), Ý thức mới trong văn nghệ và triết học,NXB An Tiêm, tr497.

(6)(7) Frank Kafka (2016) Thư gửi bố, NXB Hội nhà văn, tr24, tr46.

(8)(9)(10)(11)Takeo Doi (2008), Giải phẩu sự phụ thuộc (Hoàng Hưng dịch), NXB Tri thức, Hà Nội, tr100, tr95,tr97,tr97.

(15) D.T.Suzuki (2013) Thiền và văn hóa Nhật Bản, Công ty sách Thời đại và NXB Hồng Đức, tr24.

Văn học Nhật Bản

Truyện ngắn SHIZUKA  IJUIN (Hoàng Long dịch)

 

pastedGraphic.png

Tác gia Shizuka Ijuin (静伊集院) tên thật là Nishiyama Tadaki, sinh năm 1950 tại tỉnh Yamaguchi. Ông từng kinh qua nhiều nghề nghiệp như nhân viên quảng cáo trước khi trở thành nhà văn. Năm 1992, tác phẩm “Vầng trăng nhận chịu” (受け月) đạt giải thưởng văn học Naoki lần thứ 107. Ngoài ra ông còn là người sáng tác ca từ nổi tiếng với bút danh Date Ayumi (伊達 歩). Các tác phẩm chính của ông gồm có “Thu trắng” (白秋), “Ngày xưa xa ngái” (遠い昨日), “Người đàn bà ở Asakusa” (浅草のおんな), “Bãi cỏ bên nhà” (となりの芝生) …Năm truyện ngắn “Chiếc bình tuổi bốn mươi” (四十歳のうつわ), “Thanh âm của đá”(石の声), “Con dốc nhìn về phía biển”(海の見える坂道), “Bờ nước”(水のほとり), “Bên kia cửa kính”(ガラスの向こう側) sau đây được chúng tôi dịch từ tuyển tập “Bình nước” (水の器) do Nxb Gentosha (幻冬舎) xuất bản năm 1997. Đây là lần đầu tiên tác gia Shizuka Ijuin được dịch ra Việt ngữ. Trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả.

CHIẾC BÌNH TUỔI BỐN MƯƠI

Tôi ghé tiệm sushi sau khi đi du lịch về.

Ngồi nơi một góc quầy, tôi gọi bia. Vì là tiệm quen nên tôi cảm thấy rất thoải mái.

Trên chiếc khay sơn đen, thay cho chỗ kê đũa là một bông hoa thủy tiên. Nhụy hoa vàng hé nhìn ra từ trong những cánh trắng hoa trắng tinh nhỏ xíu trông dễ thương vô cùng.

“Chuyến du lịch thế nào ạ?”

“À, cũng được chút thư thả”

Chủ quán biết cung cách sống của tôi nên mỉm cười gật đầu rồi mang ra thức nhắm cho loại rượu sake ưa thích của tôi.

“Còn ông dạo này có tình hình gì mới không?”

“Mấy ngày trước tôi có đi xem kịch và có nghe được một lời thoại rất hay”

“Câu gì vậy?”

“Nhân sinh chỉ là một dòng chảy của thời gian thôi. Nhân vật chính lúc tuổi già xế bóng đã nói một câu cuối cùng như vậy. Có chiến tranh rồi hòa bình, có căm ghét rồi vui vẻ…Những khi đó chúng ta cảm thấy như cơn sóng lớn ập đến, như đứng giữa một trận cuồng phong nhưng đến khi tuổi già ngồi mà ngẫm lại đời người chẳng phải chỉ là một dòng thời gian trôi chảy mà thôi. Sao, có chút gì cảm động đúng không?”

Chủ quán sushi vừa nói vừa tự mình gật gù.

Quả thực là câu nói chí lý. Một lời thoại dễ dàng nói ra. Nhưng có lẽ khi còn trẻ người ta không thể nghĩ được như thế.

Thời gian quả thật là kỳ lạ. Rõ ràng từng khoảnh khắc trôi lướt qua chúng ta nhưng chúng ta lại không thể nào nắm bắt được đó, không thể làm cho nó dừng lại hay trôi đi sớm hơn. Tuy thời gian luôn tồn tại quanh con người nhưng không có thứ nào khó cảm nhận và nắm bắt bản chất thực sự của nó như thế cả.

Khi còn nhỏ chúng ta thấy một ngày dài lê thê có khi đến mức chán chường. Thế nhưng khi chạm ngưỡng bốn mươi ta lại thấy mười năm lại trôi qua như chớp mắt. Khi thử suy nghĩ xem nguyên nhân tại sao, tôi mới thấy rằng có lẽ đó là do chúng ta luôn bị một điều gì đó đuổi theo đằng sau và thôi thúc chăng? Điều thôi thúc đó có người tìm quên trong công việc nhưng tôi cảm giác không phải chỉ có thế mà thôi. Nếu là người có gia đình thì sẽ bận đầu tắt mắt tối giải quyết những chuyện trong nhà, người khác thì mưu cầu tiền bạc, danh vọng hay quyền lực nữa. Rồi cứ thế mà già đi sao? Nếu chỉ như vậy thì cuộc đời còn gì thú vị chứ?

Vừa uống rượu nơi góc quầy, tôi vừa suy nghĩ như thế.

Cánh cửa tiệm mở ra, một cô gái trẻ mặc kimono bước vào.

“Xin chào quý khách”

“Xin chào ông”

“Cô có hẹn à?”

Cô gái mỉm cười gật đầu. Nàng khoảng trên hai mươi tuổi, dung mạo xinh đẹp. Chờ khoảng ba mươi phút thì người đàn ông xuất hiện. Không nên nhìn nữa thì hơn.

“Em đợi lâu không?”

“Chút thôi, em cũng vừa mới tới”

Đối với người con gái trẻ, ba mươi phút đêm nay chỉ là “một chút”. Nếu là tôi mà đợi chừng đó thời gian nơi quán cà phê để bàn công việc thì chắc tôi đã mệt mỏi hay là nổi giận mất rồi.

Yêu đương có lẽ là hành vi đặc biệt của con người. Nhân vật chính trong vở kịch mà ông chủ quán sushi đã xem chắc cũng không thể nào nói dứt khoát rằng yêu đương cũng chỉ là dòng thời gian trôi chảy mà thôi nhỉ? Bởi vì chẳng phải bao nhiêu tác gia cổ kim đã tiêu phí một đời để viết tiểu thuyết ái tình đó sao? Trong hội họa cũng vậy. Từ Leonardo da Vinci, Picasso đến Cézanne… tất cả đều để lại nhiều kiệt tác vẽ người phụ nữ.

Rời quán sushi, tôi ghé quán bar.

Mặc dù biết nên về thẳng nhà để làm việc thì hơn nhưng tôi lúc nào cũng la cà dọc đường suốt.

“Xin chào anh, lâu ngày quá nhỉ”

“Đúng là khá lâu thật”

“Anh mới đi Kyushu về đúng không?”

“Sao biết hay vậy?”

“Chị tôi nhìn thấy anh nơi nhà ga Hakata đấy”

“…..”

Đáng sợ thật nhỉ. Người ta biết rõ mình mà mình chẳng biết gì về người ta cả.

“Chị nói thấy ngồi ngồi một mình nơi chiếc ghế chỗ chờ tàu và uống bia”

Có lẽ đó là lúc mình đổi tàu chăng? Cứ dặn lòng phải cẩn thận hành vi chứ không sẽ bị người khác nhìn thấy. Vậy mà đúng thế thật.

“Lần tới, tôi muốn gặp chị của anh”

“Đã gặp nhau một lần ở đây rồi mà”

“…..”

Nếu vậy thì mình tệ thật. Tôi nhanh chóng rời quán bar về nhà. Mấy quyển sách của tác gia Kaikou Takeshi mà tôi đặt ở hiệu sách đã được gửi đến nơi. Mấy tờ giấy gửi máy fax đến rơi rớt xuống sàn nơi phòng làm việc. Thư từ và bưu thiếp thì đặt trên bàn.

Tôi xuống nhà bếp, lấy chai whisky và bắt đầu uống.

Chuyến đi của mình như thế nào nhỉ?

Tôi tự hỏi mình như thế.

Chắc cũng không tệ, ngắm được nhiều phong cảnh đẹp, rượu cũng khá ngon. Được thư thả thật là thích.

Viên đá trong ly kêu lách cách. Cái thứ nước ma thuật màu hổ phách này làm cho tâm tư tôi trở nên lắng dịu. Tôi nhìn tờ lịch. Có dấu khuyên tròn nơi ngày của tuần trước. Gì vậy nhỉ? À, sinh nhật mình. Vậy sao? Happy  birthday to me vậy.

“Đã quá bốn mươi rồi đấy. Đúng ra là bốn mươi hai. Hãy sống đàng hoàng vào con nhé”

Tôi nghe ra giọng nói của mẹ. Mẹ mình giờ đã bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?

“Nhân sinh chỉ có thể thuận theo hoàn cảnh. Lúc nào cũng phải tranh đấu hết sức mình thôi. Bởi vì nước chỉ có thể chảy từ cao xuống thấp mà…”

Đó là câu nói cửa miệng của mẹ. Trong cái bình thân thể tôi đây, thứ nước nào đã bắt đầu đọng lại nhỉ?

THANH ÂM CỦA ĐÁ

Tôi có bảy năm sống cùng những tiếng sóng vỗ bờ. Có lẽ sẽ có người cảm thấy ghen tỵ nhưng nhưng lắng nghe tiếng sóng biển vỗ vào ghềnh đá không phải lúc nào cũng khiến tâm hồn mình thấy dễ chịu đâu.

Suốt ba ngày ba đêm, tiếng mưa gió thét gào ngoài khung cửa kính cùng với tiếng sóng vỗ như cuồng loạn, gió rít từng hồi suốt đêm như có một gã khổng lồ đang huýt sáo.

Ngược với những lúc đó, có mùa biển lặng đến bất an, không hề nghe ra tiếng sóng vỗ.

Những khi đó, vào đêm xuống tôi vùi mình trong chăn, tưởng tượng ra những con sóng nhỏ ngoài biển đen và nghĩ về những thanh âm sóng vỗ.

Tôi luôn cảm thấy hứng thú sâu sắc trong những lúc yên lặng hay những nơi chốn vắng im.

Khi đi du lịch vào sâu trong núi, hay vòng quanh vịnh biển, lúc chợt nhận thấy mình chỉ ở một mình, hay khi xung quanh không một tiếng động, sự yên lặng trở lại hoàn toàn, thấy mình chỉ là một chấm tồn tại nhỏ bé trong thiên nhiên bát ngát là tâm tư tôi lại trở nên an định. Chỉ những khi đó tôi mới có thể được trở về với con người thực của chính mình, không phấn son tô vẽ.

Rồi tôi cảm nhận được tiếng cỏ lá, tiếng những viên đá nhỏ dưới chân mình hay tiếng những cành cây đang thì thầm khe khẽ.

Có thứ lắm lời, lại có thứ thì thầm lặp đi lặp lại những điều vô nghĩa mà tôi không hiểu rõ. Người ta thường nói đến thanh âm của tự nhiên nhưng tôi chưa từng cảm nhận theo cách như thế. Tôi chỉ nghĩ chúng đang nói chuyện một cách đương nhiên thôi.

Trên bàn làm việc của tôi có để một viên đá nhỏ. Nó được người vợ đã mất của tôi nhặt từ Tsugaru về để lên bàn của tôi như một món quà lưu niệm phương xa. Nàng hay nhặt về những viên đá nhỏ, những đoạn cây gãy và vui vẻ đặt lên chỗ bàn làm việc của tôi.

Nàng đã đi đâu đó mất hút rồi, chỉ còn lại chỗ làm việc đêm khuya là những viên đá nhỏ và đoạn cây gãy mà thôi.

Đôi khi, giữa khoảng thời gian làm việc, tôi nhìn những vật nhỏ bé đó và cảm thấy như thể chúng đã khẽ dịch chuyển vị trí vậy.

Có lẽ chúng đã di chuyển từng chút từng chút một, không muốn làm gián đoạn công việc của tôi chăng? Những đồ vật đã cùng tôi trong căn phòng ảm đạm của người sống một mình, trong chuyến tàu xa hay cùng lên máy bay, đối với những chỗ xa lạ chúng nhìn dáo dác là chuyện đương nhiên thôi. Tôi cảm thấy buồn cười.

Tuy nhiên những điều như thế dần mất đi mỗi khi tôi chuyển nhà.

Trong căn nhà nghỉ nơi chuyến du lịch phương xa, có khi âm sắc viên của đá nhỏ chợt vọng lên trong đầu tôi giữa đêm khuya thanh vắng một mình.

CON DỐC NHÌN VỀ PHÍA BIỂN

Một buổi chiều xuân, tôi ghé thăm một người bạn cũ nơi thành phố quê nhà. Hai bên con đường dốc là hàng cây anh đào. Gió thổi mạnh. Những đóa hoa anh đào nở muộn đôi lúc bay xuống. Tôi dừng bước nơi tảng đá lớn. Phong cảnh quen thuộc này khiến tôi nhớ mình đã từng thấy ở đâu. Quay đầu nhìn lại, tôi thấy quê nhà và biển Seto lấp lánh trong nắng mùa xuân.

Đã là chuyện của hai mươi năm trước.

“Không cần phải vội vàng như vậy. Chúng ta dừng đây nghỉ chút đi”

Thầy M nói. Đội bóng chày chúng tôi mới rời sân đấu, đi bộ lên con dốc này đến bến xe buýt. Mười mấy thành viên đội chúng tôi vẫn còn mặc trang phục thi đấu nhìn thầy M. Thầy ngồi xuống nơi tảng đá lớn, ngắm phố phường dưới kia và mặt biển mùa thu trải dài xa ngút tầm mắt.

Vào ngày đó đội bóng chày trường cấp ba chúng tôi nếm mùi thảm bại. Vì thua trận đấu đó mà giấc mộng tham dự ở Koshien mùa xuân năm sau tan thành mây khói. Tuy không phải là đội mạnh nhưng từ khi được chọn vào mùa hè năm đó chúng tôi đã tập luyện miệt mài không ngơi nghỉ một ngày nào. Tôi học lớp mười. Sau khi trận đấu kết thúc, tiền bối O là đội trưởng ngay lúc vừa rời sân đã bắt chúng tôi sắp hàng rồi nói với khuôn mặt rưng rưng nước mắt.

“Các cậu đánh tớ đi. Tớ cũng đánh các cậu nữa”

Tiếng đấm vào gò má từ đầu hàng vọng đến tai tôi. Thầy huấn luyện viên và thầy chủ nhiệm nhảy bổ vào can ngăn lại. Rồi các anh lớp cao ở lại, bọn lớp dưới chúng tôi theo thầy phó chủ nhiệm M ra bến xe buýt trước. Thầy M là giáo viên trẻ dạy môn triết học, nổi tiếng vì uống rượu bia đến tàn mạt. Thầy chỉ mới biết đến bóng chày mà thôi.

“Nhìn kìa, kia là sân bóng nơi các trò luyện tập. Mùa hè năm nay thật nóng nực làm sao”

Sau khi lẩm bẩm như vậy rồi thầy M im lặng. Ngọn gió cuối thu thổi qua khuôn mặt đỏ gay của chúng tôi buốt lạnh.

“Nhưng mà nếu nhìn từ đây thì chúng ta có thể thấy rõ là thành phố này không chỉ có một mình sân đấu kia thôi đâu nhỉ”

Nói rồi thầy nhìn ra phía biển xa mà cười. Cái sân đấu của chúng tôi nhìn nhỏ xíu như một khu vườn trong cái hộp, phía xa kia là mặt biển lấp lánh ánh sáng hoàng kim. Chúng tôi đứng một lúc lâu sau thì mấy anh lớp trên cũng đi đến phía dưới con dốc. Chúng tôi làm ra vẻ đứng chờ rồi mọi người cùng nhau đi về.

Tảng đá này giờ trông thấy nhỏ hơn ngày xưa. Mùi hương cây dìu dịu. Tôi lại rời bước khỏi con đường dốc.

BỜ NƯỚC

Tôi đã từng đến trọ trong một căn nhà truyền thống ở Nagasaki, Niigata.

Căn nhà đó vốn là nơi nấu rượu nên xung quanh có nhiều giếng nước. Nghe nói một dải vùng này gần con sông Shinanogawa đều nổi tiếng là có mạch nước ngon tinh khiết.

Buổi sáng hôm sau, khi đi dạo bộ trong vườn nhà tôi thấy một cái ao nước nhỏ dưới gốc cây sam đã hơn trăm năm tuổi.

Gió mùa thu bắt đầu thổi hiu hiu. Tôi ngồi nơi góc bờ ao hút thuốc. Bất chợt tôi thấy có bóng dáng côn trùng đang bơi thanh thoát trên mặt ao phía xa. Con gì vậy nhỉ? Tôi nghĩ thầm. Thì ra là con nhện nước. Mấy con nhện nước cứ tụ lại rồi tản ra, mỗi con đi về một hướng. Đúng là một quang cảnh gây buồn cười như khi ta chơi pháo bông que vậy. Trong khi chăm chú nhìn những con côn trùng nhỏ bé đó, chợt tôi nhớ lại ngày nhỏ mình cũng đã từng ngồi bên bờ ao ngắm nhện nước bơi lượn trên mặt ao.

Có lẽ lúc đó tôi mới vào học tiểu học, chừng bảy hay tám tuổi gì đó thì phải. Như vậy là đã hơn ba mươi năm trước rồi. Tuy vậy tôi vẫn nhớ như in cả mùi cỏ dại rậm rạp bên bờ ao nữa. Cái ao đó nằm trong khuôn viên đền thờ thần đạo ngay sát trường tiểu học của tôi.

Tôi nhận ra mình đã quên mất những khoảng thời gian suy nghĩ vẩn vơ những thứ kỳ diệu xung quanh mình, chưa bận tâm nghĩ đến chuyện trở thành người lớn nữa. Những khi ngắm mây thay hình đổi dạng trên bầu trời hay nhìn mưa rả rích nhỏ giọt xuống trước hiên nhà. Ngay cả cơn gió, vũng nước và những viên đá nhỏ cũng làm tôi say mê.

Tôi nhớ rất rõ hình dáng những con nhện lượn lờ trên mặt nước. Hình bóng của chúng phản chiếu vào nước trông thật thú vị. Tôi nhớ mình đã hình dung hai con nhện nước như đang khiêu vũ trên sân khấu mặt ao. Hai con màu nâu và đen vừa bơi vừa tạo những vòng sóng nhỏ trên mặt ao màu vàng lục. Thỉnh thoảng có con cá diếc hay cá chạch nổi lên thế là bài khiêu vũ của nhện nước loạn nhịp. Vì tôi nhớ mùi hương cỏ mùa hạ nồng nàn như thế có nghĩa lúc đó là đầu thu chăng? Mặt ao đã chuyển sang màu xanh sẫm, gió lạnh thổi vào má và cổ tôi. Cuối cùng tôi ngẩng mặt lên nhìn bầu trời cao rộng. Xuyên qua tán cây thông cao, bầu trời hoàng hôn nhuộm màu đỏ sẫm rực rỡ. Mình phải về nhà thôi. Tôi nghĩ như thế rồi đứng dậy. Đột nhiên tôi cảm thấy cơn gió chiều thật lạnh người.

Tuy vậy mặt ao và những con côn trùng nhỏ bé đó khiến tôi cảm thấy thật khó mà rời đi. Cái cảm giác đó nó nhỏ như lực hấp dẫn nhưng lại có sức kéo rất nặng.

Đó là gì vậy nhỉ? Buổi sáng hôm đó tôi vừa nhớ lại được vừa cảm thấy rõ ràng tươi mới một quang cảnh mà giờ đây tôi không còn cảm giác được gì nữa.

BÊN KIA CỬA KÍNH

Tôi đi dạo trên khu phố Kahara, Saijoshi, Kyoto trong cơn gió lạnh đầu đông. Tháp chạp đã gần kề nên các cửa hàng trên phố bắt đầu bán khuyến mãi dịp cuối năm.

Một bé gái đang nhón chân nhìn vào tủ kính trưng bày như dán vào tấm kính vậy. Trong tủ kính bày các món đồ trang điểm cho tóc như trâm kẹp, lược cài…Tôi nhìn vào gương mặt bé. Như thể bé đang mỉm cười…

Tôi cùng đứa em trai cùng nhau nhìn qua các tủ kính, thấy một chiếc kính viễn vọng nhìn các thiên thể. Dưới ánh đèn huỳnh quang đang nhấp nháy, chiếc kính viễn vọng được bao phủ bởi những đường viền trắng xung quanh nhìn như thể đang ngời sáng trong tuyết. Trên đó có đính giá tiền mà anh em chúng tôi chắc chắn không thể nào mua nổi.

“Nếu mình nhìn bằng cái kính này không biết mặt trăng sẽ lớn như thế nào nhỉ”

Em tôi nhìn chiếc kính không rời mắt mà nói. Tôi vừa nhớ đến tấm hình chụp bề mặt mặt trăng trong sách minh họa vừa gật đầu.

“Có ai đến mua thì phải kìa?”

Em trai tôi chợt hạ giọng. Tôi nghĩ thầm lại có đứa bé nào có thể mua được một vật xa xỉ đắt giá đến thế kia ư? Chúng tôi cứ đứng như chôn chân mãi ở chỗ đó. Phía sau lưng chúng tôi, những người lớn đứng lại nói vài câu gì đó rồi lại bỏ đi.

“Này, chiếc đồng hồ đeo tay kia tuyệt thật”

“Đúng nhỉ”

“Cái máy chụp hình kia được đấy. Nhưng đắt quá…”

Cuối cùng chiếc đồng hồ trong tủ kính bắt đầu gõ chuông boong boong, chúng tôi mới nhận ra mình đã đứng suốt hai tiếng đồng hồ nên vội vàng rời đi. Hai anh em chúng tôi ngước nhìn lên bầu trời đầy sao.

“Gom hết tiền mừng tuổi cũng không thể mua được đâu”

Em tôi thì thầm.

Trên đường trở về chúng tôi đi ngang cửa tiệm bán đồ trang điểm tóc lúc nãy nhưng bóng dáng của cô bé không thấy đâu. Nhưng chỗ bé đứng khi nãy không hiểu sao nhìn thật ấm áp.

Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ

 

(Bài viết do dịch giả cung cấp độc quyền cho breadandrose.com )

Văn học Nhật Bản

Thơ Haiku tự do Nhật Bản

 

Thơ haiku tự do Nhật Bản khởi đầu với Kawahigashi Hekigoto (  河東碧梧桐) (1873-1937) và sau đó Ogiwara Seisensui (荻原 井泉水) (1884-1976), Ozaki Hosai (尾崎 放哉) (1885-1926), Taneda Santoka (種田 山頭火) (1882-1940) tiếp nối. Đặc trưng của phái thơ này là không cần đến quý ngữ và không phải câu nệ vào hình thức 5/7/5 như haiku truyền thống. Ozaki Hosai có thể được xem là nhà thơ thành công nhất của trường phái này với nhiều bài haiku được đánh giá là đặc sắc khó quên. Trong bài này, chúng tôi xin được giới thiệu chùm haiku tự do của Ogiwara Seisensui, Murakami Kijo và Ozaki Hosai. Bàng bạc trong mỗi bài thơ là niềm cô đơn của thân phận con người mà chúng ta có thể cảm nhận được mặc dù bị giới hạn bởi ngôn ngữ. Nhiều bài thơ vô cùng đơn giản nhưng tinh tế sâu sắc mà nếu như biết tiếng Nhật, đọc qua một lần chúng ta có thể nhớ được ngay. Trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc.

  1. Ogiwara Seisensui

たんぽぽたんぽぽ砂浜に春が目を開く

Trên bờ biển cát

Bồ công anh, bồ công anh

Mùa xuân mở mắt

空をあゆむ朗朗と月ひとり

Đi qua trời thẳm

Vầng trăng kia

Lúc nào cũng sáng một mình

うちの蝶としてとんでいるしばらく

Quanh quẩn bên ta

Lâu rồi

Bướm thành bướm nhà

月光ほろほろ風鈴に戯れ

Ánh trăng tràn ngập,

đùa giỡn phong linh

こだま
「おーい」と淋しい人
「おーい」と淋しい山

Tiếng vọng

“Này”, người cô đơn nói

“Này”, núi cô độc đáp lời

石と石 月夜 寄りそう

Trong đêm trăng sáng

Những hòn đá

Ghì chặt lấy nhau

佛を信ず麦の穂の青きしんじつ

Tin vào Phật

Sự thật màu xanh

Nơi ngọn lúa mạch

すべてを失うた手と手が生きて握られる

Đánh mất tất cả

Chỉ bàn tay còn sống

Nắm chặt lấy nhau

月ばかりの月である空

Một vùng trời

Tràn ngập trăng và trăng

2.Murakami Kijo村上鬼城

 (1865-1938)

1.

冬蜂の死にどころなく歩きけり

Con ong mùa đông

Mải miết bước đi

Vì không còn nơi nào để chết

2.

春雨や確かに見たる石の精

Tôi đã chắc thấy

Tinh thần của đá

Trong cơn mưa xuân

3.

浅間山の 煙出て見よ 今朝の月

Định ngước mắt nhìn

Núi Asama mờ khói

Gặp vầng trăng sớm mai

4.

pastedGraphic.png

Buổi sáng mùa thu

Tôi nhìn gương soi

Thấy mặt cha mình

5.

春の夜や泣きながら寝る子供達

Buổi tối mùa xuân

Những đứa con tôi

Vừa khóc vừa  ngủ

6.

水の上火竜の走る花火かな

Con rồng lửa

Chạy trên mặt nước

Pháo hoa

  1. Ozaki Hosai

1.

山に登れば淋しい村がみんな見える

Lên núi cao sẽ thấy

Tất cả mọi người

Trong ngôi làng cô đơn

2.

働きに行く人ばかりの電車

Trên chuyến tàu điện

Chỉ toàn thấy

Những người đi làm mà thôi

3.

壁の新聞の女はいつも泣いて居る

Người con gái

Trên tờ báo dán tường

Lúc nào cũng khóc

4.

入れものが無い両手で受ける

Không có túi đựng

Xin nhận

Bằng cả hai tay

5.

心をまとめる鉛筆とがらす

Tôi dồn tâm lực

Mài sắc chiếc bút chì

月夜の葦が折れとる

Đám lau sậy

Gãy

Trong đêm trăng

6.

春の山のうしろから煙が出だした

Khói dâng cao

Phía sau ngọn núi mùa xuân

7.

沈黙の池に亀一つ浮き上る

Một chú rùa

Nổi lên

Trên cái ao trầm mặc

8.

淋しい寝る本がない

Không có sách đọc

Tôi đi ngủ

Trong nỗi quạnh hiu

9.

爪切つたゆびが十本ある

Tôi cắt móng tay

Bàn tay mười ngón

10.

一人の道が暮れて来た

Con đường một mình

Ngả bóng

Hoàng hôn

11

大風の空の中にて鳴る鐘

Tiếng chuông rung

Trong bầu trời

Đầy gió

12.

マツチつかぬ夕風の涼しさに話す

Cơn gió lạnh ban đêm

Que diêm không thắp sáng

Cuộc trò chuyện âm thầm

13.

何もかも死に尽したる野面にて我が足音

Chỉ còn tiếng chân tôi

Trên đồng hoang

Tất cả đều đã chết

14

長雨あまる小窓で杏落つるばかり

Mưa dằng dặc

Ngoài song cửa nhỏ

Chỉ có trái hạnh rơi

15.

犬が覗いて行く垣根にて何事もない昼

Nơi hàng rào

Con chó nhìn vào rồi bỏ đi

Một buổi trưa vô sự

16.

牛の眼なつかしく堤の夕の行きずり

Đi qua bờ đê buổi chạng vạng

Ánh mắt chú bò

Nhìn tôi sao thân thiết

17.

船は皆出てしまひ雪の山山なり

Tất cả con tàu ra khơi

Còn lại

Những ngọn núi phủ đầy tuyết

18.

静かなるかげを動かし客に茶をつぐ

Lê cái bóng im lìm

Tôi rót trà

Mời khách

19.

雨の日は御灯ともし一人居る

Ngày mưa

Tôi thắp nến

Lặng lẽ ngồi một mình

20.

井戸の暗さにわが顔を見出す

Tôi tìm mặt mình

Nơi đáy tối

Giếng nước sâu

21.

何も忘れた気で夏帽かぶつて

Đội chiếc nón mùa hạ

Tôi giả vờ như

Đã quên đi tất cả

22.

父子で住んで言葉少なく朝顔が咲いて

Cha con sống cùng nhau

Kiệm lời

Hoa triêu nhan nở tươi

23.

たばこが消えて居る淋しさをなげすてる

Điếu thuốc đã tàn

Tôi quăng ném đi

Sự hiu quạnh của mình

24.

やせたからだを窓に置き船の汽笛

Lê tấm thân gầy

Đến bên cửa sổ

Nghe tiếng còi tàu ra khơi

Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ

 

(Bài viết do tác giả cung cấp độc quyền cho breadandrose.com )

Văn học Nhật Bản

Quý ngữ mùa xuân trong thơ Haiku

 

Thi ca từ xưa vốn là sự giao cảm giữa đất trời và con người. Đặc biệt với mùa xuân, thi nhân luôn dành một sự ưu ái đặc biệt. Có lẽ vì mùa xuân gợi nên nhiều cảm xúc tương phản, trái ngang nhiều nỗi nơi con người mà những tâm hồn nhạy cảm đã rung ngân lên những tiếng thơ nhiều cảm xúc. Khi đất trời chuyển mùa, cây cối xanh lộc mới, trong khí vị của một điều mới mẻ sắp đến người ta bất giác nhớ lại những năm tháng đã qua và cảm thấy sự hữu hạn của cuộc đời. Như Thiền sư Mãn Giác đã cảm tác “chớ bảo xuân tàn hao rụng hết, đêm qua sân trước một nhành mai”. Có nghĩa là mùa xuân mang đến cho chúng ta cảm giác về sự vô thường và lẽ tuần hoàn bất diệt.

Có một thể thơ cô đúc, ngắn gọn nhất thế giới của người Nhật Bản mang tên haiku thể hiện niềm giao cảm của con người với đất trời rõ rệt nhất. Masaoka Shiki, một nhà thơ haiku nổi tiếng đã định nghĩa “ Haiku là thể thơ ngâm vịnh bốn mùa” (俳句は季題を詠む詩である) hay theo cách dịch của bản tiếng Anh “haiku là thể thơ hiển bày chính mình qua quý ngữ” (haiku is poetry that expresses itself through season words).

Chỉ có mười bảy âm tiết, nên không như thơ Đường Trung Quốc hay thơ lục bát Việt Nam, thơ haiku nén chặt những nỗi niềm vào trong vài chữ gợi tả và dành phần còn lại để người đọc tự cảm thụ. Sự nén chặt đó là để gợi mở đến vô cùng.

Quý ngữ (季語từ chỉ mùa) vốn là yếu tố then chốt của thơ haiku truyền thống và vẫn còn đóng vai trò quan trọng trong thơ haiku cách tân và hiện đại ngày nay. Chẳng hạn nhắc đến mùa hè là phải có tiếng ve sầu, pháo hoa, hoa sen, chim cuốc… Mùa thu phải có bão, sấm, dải Ngân hà, táo, lê, lá đỏ… Mùa đông là tuyết rơi, cành khô trơ trụi…

Quý ngữ gồm rất nhiều yếu tố cả về thời tiết, đất trời, sự hoạt động của con người, động thực vật… Chẳng hạn quý nhữ mùa xuân gồm có:

Thời tiết (jiko時候) ấm áp, sáng sủa, ngày dài, ngày chậm chạp, trưa mùa xuân…

Thiên văn (tenmon天文) trăng mờ, sương mù, gió sáng…

Địa lý (Chiri地理) nước mùa xuân, núi cười, băng nổi…

Sự kiện (Gyouji行事) viếng đền Ise, lấy nước đầu năm, lễ hội búp bê…

Đời sống (seikatsu生活) hái trà, xới ruộng, nhặt sò…

Động vật (doubutsu動物) mèo (động dục), nhạn, chim sẻ, tổ chuột…

Thực vật (shokubutsu植物) hoa mơ, liễu, sơn trà, hoa lê, hoa cải, hoa anh đào, hoa rơi, đi ngắm hoa…

Chúng ta thử tìm hiểu một bài bài thơ nổi tiếng sử dụng quý ngữ mùa xuân nhé.

Trước hết phải nói mùa xuân là mùa hoa, mùa cây cối đâm chồi nẩy lộc. Cho nên Nguyễn Bính mới cảm tác “mùa xuân là cả một mùa xanh”.

Ở Nhật Bản mùa xuân bắt đầu từ giữa tháng ba với hoa mơ nở “Hơi ấm mùa xuân, lan tỏa dần dần, trên từng cánh hoa mơ” (梅一輪一輪ほどの暖かさ) (Ransetsu) rồi sau đó đến hoa sơn trà “Hoa sơn trà, ngấn nước, đón gió xuân” (春風にむかぶ梅のしめり哉) (Shida Yaba) và đặc biệt là hoa anh đào. Loài hoa biểu tượng của xứ Phù Tang rụng xuống vào thời kỳ đẹp nhất đã gợi bao nhiêu nỗi niềm cho thi sĩ:

Hoa đào rơi

Hay còn trên cành

Cuối cùng cũng rụng rơi

散る桜残る桜も散る桜

Bài thơ trên là của thi tăng Ryokan, một nhà thơ lỗi lạc. Người Nhật say mê hoa anh đào không biết chán. Từ “ngắm hoa mùa xuân” (花見hanami) chỉ đi ngắm hoa anh đào. Đôi lúc từ “hoa anh đào” (桜sakura) được đồng nhất với loài hoa (花hana) nói chung. Như bài thơ sau đây của Rotsu (露通):

Ngọn đồi đầy hoa đào

Tôi sẽ tìm một hòn đá mát

Đánh một giấc ngủ sâu

肌のよき石に眠らん花の山

Ngắm ngày chưa đủ, người Nhật còn ngắm hoa anh đào đêm (yozakura夜桜) và để lại nhiều bài haiku tuyệt tác như bài sau đây của Shiki:

Ánh trăng soi

Những cánh hoa đào rơi

Một vùng lênh láng

夕月や一塊に散る桜

Ngoài ra còn hoa lê, hoa cải đã đi vào rất nhiều bài haiku kiệt tác như bức tranh thơ sau đây của nhà thơ và họa sĩ Yosa Buson (蕪村):

Mặt trăng phía đông

Mặt trời phía tây

Và đồng cải hoa vàng

菜の花や月は東日は西に

Cùng nhìn hoa lê nở nhưng Masaoka Shiki(正岡子規)và Yosa Buson (与謝蕪村) nhìn thấy hai cảnh khác nhau:

Cây lê nở hoa

Nơi căn nhà nát

Vết tích trận tương tàn

Shiki

梨さくや戦のあとの崩れ家

Có người con gái

Đọc thư dưới trăng

Trong hoa lê trắng

Buson

梨の花月にふみ読む女あり

Còn Issa (一茶) lại nhìn ra bước đi của mùa xuân qua mèo và chim sẻ:

Hết ngủ rồi thức dậy

Chú mèo lại ngáp dài

Đi ra ngoài mồi chài

寝て起きて大あくびして猫の恋

Giữa đám hoa trà

Có bầy chim rẻ

Rủ nhau trốn tìm

茶の花にかくれんぼする雀かな

Đất trời đã vậy, còn con người thì sao?

Với cảm quan tinh tế của mình, người Nhật có từ “nỗi buồn mùa xuân” (春愁Xuân sầu – Shunshu). Từ này chỉ nỗi buồn day dứt không yên vào mùa xuân. Tâm trạng đó không hẳn là nỗi buồn nhưng cũng khác với niềm vui. Nhà thơ Getto (月斗) đã diễn tả nỗi niềm đó như sau:

Màu xanh của cỏ

Khi tôi bước qua

Nỗi buồn mùa xuân

春愁や草をあるけば草青く

Từ ngàn năm nay, con người dù thời đại nào, dân tộc nào cũng đều có những nỗi niềm muôn thuở. Chỉ có cách diễn đạt là khác nhau.

Mùa xuân vốn là mùa sum họp, đoàn tụ. Chữ “xuân” (春) chiết tự ra sẽ là “tam nhân nhật” (三人日ngày ba người), ám chỉ mùa vui quây quần. Sau một năm vất vả, đi làm ăn xa, mùa xuân ai cũng muốn trở về quê nhà với gia đình.

Có người trở về quê nhà, nhìn thấy cây cối xanh tươi mà vui mừng “cố hương ơi, nơi nào ta cũng thấy, những ngọn núi mỉm cười” (故郷やどちらを見ても山笑う) (Shiki). “Núi mỉm cười” (山笑う) là quý ngữ mùa xuân còn “núi ngủ” (山眠る) là quý ngữ mùa đông thể hiện cách cảm thụ tự nhiên độc đáo của haiku. Nhưng trong hình ảnh “núi cười” phải chăng còn có niềm vui nhưng của người được về thăm quê cũ?

Còn bao nhiêu kẻ không về được đã phải cất tiếng thở than:

“Gió xuân

Con đường đê dài

Quê nhà thăm thẳm”

(Buson)

春風や堤長うして家遠し

Hay:

“Nhìn về quê hương

Xa xăm qua đỗi

Chỉ cánh hoa đào rơi”

(Shiki)

故郷の目に見えてただ桜散る

Ta nghe trong lời u uẩn có âm vang “Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay” (Nguyễn Bính). Cho nên, thi ca từ xưa đến nay vốn là sự gặp gỡ của những tâm hồn đồng điệu.

Vì là mùa của đoàn tụ nên nhiều khi ta muốn đi thăm một người bạn cũ “Chợt muốn đi thăm/ Một người bạn/ Trong ngày mưa xuân hôm nay” (春雨や友を訪ぬる想ひあり) (Ryokan)

Hay chờ bạn tri âm nào tới:

Ngay cả hương hoa mơ

Hay người khách nào đến

Cũng còn chung trà nứt bể này thôi

Issa

梅が香やどなたが来ても欠け茶碗

Tri âm không nhất thiết phải là một ai đó mà có thể là hương hoa mơ, quả bầu nứt nẻ, con mèo…

Lặng lẽ vuốt ve

Quả bầu nứt nẻ

Trong cơn mưa xuân

Ryokan

春雨や 静かになづる 破れふくべ

Mùa xuân còn gợi nỗi niềm nào còn phong kín:

Đêm xuân

Những con sóng yên lặng

Vỗ tràn nơi gối chăn

Buson

春の夜や音なき浪を枕もと

Những bài thơ nhỏ bé, cô đúc như “ngón tay chỉ mặt trăng”, đưa chúng ta vượt qua giới hạn của ngôn ngữ đễ tiếp cận với thực tại. Mỗi người chúng ta, tùy theo kinh nghiệm đã sống trải của riêng mình, có thể kinh ngạc hay đồng cảm với nỗi niềm của tác giả. Nhà thơ chỉ ra sự vật, còn dành phần chiêm nghiệm và cảm nhận cho chúng ta. Như một chung trà nhỏ đượm hương trong buổi sáng ban mai tinh khiết, ta lặng lẽ thưởng thức cho riêng mình rồi suy ngẫm về cuộc đời và nhân thế. Tất cả rồi sẽ tàn phai, sương tan khi nắng lên. Nhưng trong sự hữu hạn luôn ẩn chứa vô hạn, trong sự ra đi luôn có hẹn ngày về như sự tuần hoàn bất diệt của mùa xuân, như sự luân hồi vĩnh cửu của đời người.

Mùa xuân nhắc nhở cho ta điều đó. Để ta biết trân trọng hơn từng phút giây hiện tại, để ta biết yêu mình và yêu người.

Sài Gòn, tháng 10/2016

Hoàng Long

 

(Bài viết do tác giả cung cấp cho breadandrose.com )

Văn học Nhật Bản Văn học phương Đông

Truyện ngắn DAZAI OSAMU – “Trúc thanh” ( Hoàng Long dịch)

TRÚC THANH

Tuyệt phẩm “Trúc Thanh” (竹青Chikusei) của Dazai tuy lấy cảm hứng từ truyện cùng tên trong “Liêu Trai chí dị” của Bồ Tùng Linh nhưng hoàn toàn là sáng tác như chính tác giả tự nhận. Cốt truyện cũ được lồng ghép khéo léo với nhưng triết lý mới mà Dazai muốn gửi gắm cho đời. Tư tưởng mạnh mẽ đến mức ngạc nhiên. Tác giả đã gián tiếp phê phán sự bạc nhược yếu hèn của kiểu thư sinh cũ, mơ màng thoát tục bỏ quên đi cuộc sống hàng ngày. Chính “ta bà là tịnh độ”, phải trải đủ trọn vẹn yêu thương và thống khổ mới trọn kiếp đời. Dù xưa nay thân phận con người đều tiến thoái lưỡng nan, lúc ở nhà thì mơ màng phố thị phồn hoa, khi ra chốn đô hội lại dặt dìu nhớ về quê cũ. Nhưng phải biết Trúc Thanh ngay trong nhà ta đó, hà tất phải đi tìm Đào nguyên với Hán Dương? Sống được cuộc sống bình thường như những người bình thường nhất chính là cảnh giới tối cao, cần trải qua bao thử thách và dày công tu dưỡng mới đạt được. Hồng trần vốn đau khổ đày ải nhân gian nhưng đến cuối cùng ta cũng phải nhận mặt đất này làm quê nhà miên viễn.

Nguyên tác trên trang mạng kho sách ngoài trời Aozora: http://www.aozora.gr.jp/cards/000035/files/1047_20130.html

Trân trọng giới thiệu với quý độc giả.

TRÚC THANH

(Tân khúc Liêu Trai Chí Dị)

Dazai Osamu

Ngày xưa ở một quận kia của tỉnh Hồ Nam có một chàng thư sinh nghèo tên là Ngư Dung. Không hiểu sao từ ngày xưa cứ thư sinh thì nhất định phải nghèo chứ. Chàng Ngư Dung đây, gia cảnh không đến nỗi tệ, mắt mũi thanh tú, tư dung điềm đạm thanh nhã, thu hút lòng người. Tuy không thể nói chàng thích sách vở như thích gái đẹp nhưng từ thuở thiếu thời chàng đã chăm chú học hành, cách hành xử chưa từng lệch khỏi con đường chuẩn mực vậy mà sao hạnh phúc vẫn chưa mỉm cười.

Cha mẹ qua đời từ khi chàng còn nhỏ nên chàng phải đến tá túc nhà ông chú. Chẳng bao lâu sau, tài sản thừa kế hết sạch, cả nhà ông chú xem chàng như một sự phiền toái. Ông chú suốt ngày say sưa trong lúc cao hứng vì rượu ép Ngư Dung với cô gái giúp việc nhà vô học gầy gò đen nhẻm mà nói “thôi kết hôn đi, mối duyên lành đấy”, tự mình quyết định tự tung tự tác không xem ai ra gì như vậy. Ngư Dung vô cùng phiền muộn nhưng vì chú đã thay cha mẹ nuôi mình, thật là đại ân nhân, công lao như trời biển nên không thể nổi giận trước cái ý nghĩ vô lễ của tên tửu đồ đó được phải đành gạt đi nước mắt, thẫn thờ hồn vía, chấp nhận lấy người đàn bà xấu xí gầy đét, bần hàn lớn hơn mình hai tuổi đó. Nghe đồn cô ta còn là người tình của chú mình nữa, mặt mũi thì xấu xí mà tâm hồn thì cũng khiếm khuyết. Cô ta hoàn toàn khinh miệt học vấn của Ngư Dung, nghe chàng ngâm nga “đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện1” thì phá ra cười, bảo với vẻ không ưa rằng “vươn đến chí thiện mà làm gì, thay vào đó ráng vươn đến chỗ tiền nhiều, thức ăn ngon thì hơn chứ”. “Mà thôi, cảm phiền mình giặt đống quần áo này nhé. Phải giúp tôi chút việc nhà đi chứ”. Cô ta nói rồi ném đống quần áo bẩn của mình vào mặt Ngư Dung. Chàng ôm đống quần áo đó lủi thủi ra con sông phía sau nhà , khẽ ngâm “mã tê bạch nhật mộ, kiếm minh thu khí lai, ngã tâm hạo vô tế, hà thượng không bồi hồi2”. Ý rằng đời chẳng có gì thú vị, ta ở quê nhà mà như cô khách chốn thiên nhai, tâm tư bâng khuâng mà nhìn sông chảy bồi hồi vậy.

Cứ tiếp tục kéo dài cuộc sống bi thảm này mãi thì thật có lỗi với liệt tổ liệt tông. Bây giờ mình đã sắp sửa bước vào tuổi tam thập nhi lập rồi. Phải ráng lập công danh vẻ vang mới được”. Chàng quyết ý như thế rồi đầu tiên về nhà đấm mụ vợ một phát, tống cổ ra khỏi nhà, tự tin đường hoàng ứng thí kỳ thi hương nhưng có lẽ vì sống cuộc đời bần hàn quá lâu, tâm tư không có chút khí lực nào, viết loạn đáp án lên thế là rớt thẳng cẳng. Chàng đành quay gót về căn nhà rách nát nơi quê hương, nỗi buồn này trên đời chẳng có gì so sánh được. Thêm phần đói bụng, chàng bước đi không nổi đành lê chân vào miếu thờ Ngô Vương bên hồ Động Đình, nằm ngửa ra nơi hành lang mà than “A, cuộc đời chỉ toàn nỗi khổ đau vô nghĩa mà thôi chăng? Như mình đây từ thuở thiếu thời chăm chú đi theo con đường của thánh hiền, suốt ngày chi hồ dã giả vậy mà bước chân hạnh phúc từ nơi xa vẫn chưa ghé thăm, mỗi ngày chỉ toàn nỗi khổ nhục gần như không sao chịu đựng nổi. Đã phát nguyện đại hùng tráng chí đi thi hương vậy mà ai ngờ lại rớt thảm. Có phải thế gian này toàn dung túng những kẻ ác nhân vô sĩ, còn kẻ thư sinh yếu đuối bạc nhược như mình thì đành cam chịu thất bại mà bị thiên hạ cười chê thôi sao? Đến mức đã đấm cho mụ vợ một phát rồi tống cổ ra khỏi nhà rồi nhưng bây giờ thi rớt trở về không biết bị mụ ta rủa sả đến mức như thế nào đây? Trời ơi, mình muốn chết, thật sự muốn chết”. Rồi vì đau khổ cực độ quá mà đầu óc mơ màng, không còn giống người theo đạo quân tử nữa, Ngư Dung bắt đầu liên tục nguyền rủa thế gian và than trách cho số phận của mình. Khẽ nhướng mắt nhìn đàn quạ đang bay trên trời cao, chàng khẽ lẩm bẩm “như bầy quạ kia, không biết đến giàu nghèo mới thật là hạnh phúc” rồi nhắm mắt lại.

Ngôi miếu Ngô Vương nơi hồ Động Đình này vốn thờ vị tướng quân nhà Ngô thời Tam Quốc là Cam Ninh, tôn làm thần bảo hộ sông nước. Do rất đỗi linh thiêng nên thuyền bè mỗi lần qua lại, phu thuyền phải ghé vào lễ bái. Trong khu rừng bên miếu Ngô Vương có hàng trăm con quạ sinh sống. Mỗi lần thấy bóng thuyền đến, chúng lại bay vút lên nhất loạt kêu “quạ quạ” rồi bay đến đùa giỡn trên các cột buồm. Các phu thuyền xem đó là chim sứ giả của Ngô Vương nên rất kính trọng, thường ném thịt dê lên cho chúng ăn, không lần nào chúng đớp hụt cả. Thí sinh lạc đệ3 Ngư Dung cảm thấy ghen tỵ với bầy quạ bay trên trời cao vui vẻ nên lại lẩm bẩm thì thầm “đàn quạ hạnh phúc quá” rồi tuy không định ngủ nhưng nhắm mắt mơ màng một lúc thì thấy một người đàn ông mặc áo đen đến lay tỉnh dậy. “Này, này”

Ngư Dung vẫn còn đang ngái ngủ đáp.

A, xin lỗi. Đừng la rầy tôi. Tôi không phải là người đáng ngờ gì đâu. Cho tôi nằm ngủ thêm chút nữa nhé. Xin đừng mắng mỏ tôi làm gì”

Vốn từ nhỏ đã lớn lên trong cảnh bị người la mắng khinh khi nên đã thành thói tật cứ thấy bóng dáng người ta lại run sợ tưởng đến đánh mắng mình nên chàng vừa liên tục nói mớ “xin lỗi, xin lỗi nghe” vừa trở mình nhắm mắt ngủ tiếp.

Không phải ta đến la mắng gì đâu”, người đàn ông áo đen nói với giọng khàn khàn rất kỳ lạ. “Ta đến theo lệnh của Ngô Vương đó. Thấy ngươi căm ghét cuộc sống con người ao ước cuộc sống loài quạ thật hay. Vừa hay đội hắc y thiếu một tên nên đưa ngươi bổ sung cho đủ số. Ngươi mau chóng mặc bộ áo đen này vào đi”.

Rồi gã lấy chiếc áo đen mềm mại mỏng manh khoác lên người Ngư Dung đang ngủ.

Lập tức Ngư Dung biến thành con quạ đực. Chàng đảo mắt nhìn quanh, ngồi dậy thấy mình đang đậu trên cái lan can nơi hành lang. Chàng dùng mỏ chỉnh sửa lông cánh, rồi giang cánh bay vút lên cao đậu trên đỉnh cột buồm chan đầy ánh nắng hoàng hôn của chiếc thuyền đang đi ngang hồ, rồi nhập vào bầy quạ cả trăm con, cùng bay qua lượn đáp đớp những miếng thịt phu thuyền ném lên một cách điệu nghệ và ngay lập tức chàng biết đến cảm giác no nê lần đầu tiên trong đời. Ngư Dung bay đến rừng cây ven hồ, đậu trên một cành cây cao, chùi mỏ vào cây rồi nhìn ánh nắng chiều phản chiếu trên hồ Động Đình lấp lánh một dải vàng lấp lánh mà ngâm “gió thu vàng sóng hoa ngàn đóa4” với vẻ rất hiền nhân quân tử thì nghe một giọng nói mềm mại quyến rũ của người con gái cất lên.

Này, trông anh có vẻ vui quá nhỉ”

Quay lại nhìn thì chàng thấy một con quạ mái đang đậu cùng cành cây với mình.

Thật là xin lỗi”. Chàng hơi cúi đầu đáp lễ. “Bởi vì thân thể đã nhẹ nhàng và lại mới vừa thoát được chốn bùn nhơ mà. Xin đừng la mắng tôi nhé”. Vì câu cửa miệng vẫn còn nên chàng lỡ lời nói ra.

Em hiểu chứ”, con quạ mái điềm đạm đáp lời. “Có vẻ như cho đến giờ anh đã vất vả nhiều quá rồi. Em hiểu anh cảm thấy thế nào. Nhưng giờ trở đi thì không sao rồi. Em sẽ đi cùng với anh”

Xin lỗi nhưng nàng là ai?”

À, em là bạn đồng hành với anh. Có gì anh cứ nói. Em sẽ cố gắng đáp ứng. Anh cứ nghĩ vậy đi. Anh không thích sao?”

Không phải vậy đâu”, Ngư Dung vội vàng thanh minh. “Chẳng qua là vì ta đã có vợ rồi. Ngoại tình là điều người quân tử nên tránh. Nàng tính quyến rũ ta đi vào con đường tà đạo ư?”

Chàng nói với vẻ mặt nghiêm túc đến vô lý.

Chàng thật tệ quá. Chàng nghĩ em nông nổi hiếu sắc buông lời tán tỉnh chàng ư? Tệ quá. Tất cả mọi người ở đây đều được Ngô Vương chăm lo chu đáo lắm. Ngô Vương lệnh cho em đến chăm sóc chàng đấy. Vì chàng không còn mang thân phận người nữa nên chàng hãy quên hết những chuyện vợ con chốn dương gian đi thì hơn. Có thể vợ chàng cũng nhu mì hiền thục lắm nhưng em đây cũng quyết không chịu thua đâu. Em cũng sẽ chăm lo cho chàng chu đáo. Rồi em sẽ cho chàng thấy tiết tháo của loài quạ chúng em còn đúng đắn chính đáng hơn loài người nhiều. Có thể chàng cảm thấy khó chịu nhưng từ giờ trở đi hãy cho em làm bạn đường nhé. Tên của em là Trúc Thanh”

Ngư Dung rất lấy làm cảm động.

Xin cảm ơn nàng. Vì cõi nhân gian tôi gặp quá nhiều đau khổ nên lòng nghi ngờ rất đậm sâu, không nhận ngay được tấm lòng tử tế của nàng. Thật vô cùng xin lỗi”

Thiệt tình, chàng lại nói kiểu cách thế rồi. Kỳ khôi lắm. Từ hôm nay trở đi, em sẽ là hầu cận của chàng. Sao nào phu quân? Chúng ta cùng đi dạo sau bữa ăn nhé”

Được chứ”, Ngư Dung hiên ngang gật đầu. “Xin nhờ nàng dẫn đường cho”

Vậy chàng theo em nhé”, và nàng bắt đầu tung cánh lên trời cao.

Gió thu thổi mơn man đôi cánh, dưới tầm mắt khói sóng hồ Động Đình, nhìn ra xa dãy Nhạc Dương nhấp nhô, mặt trời hoàng hôn đỏ rực, khẽ đảo mắt nhìn quanh, Quân sơn, Ngọc kính vẽ một đường cong mềm mại, gợi nhớ bóng dáng của Tương Quân, cặp vợ chồng mới hắc y cùng kêu “quạ quạ”, lúc trước lúc sau cùng nhau bay lượn tùy thích, ung dung tự tại không hề e ngại . Khi mệt thì cùng nhau xếp cánh trên đỉnh cột buồm của thuyền bè qua lại mà nghỉ ngơi, nhìn nhau mỉm cười, rồi khi mặt trời lặn xuống lại cùng nhau thưởng thức trăng thu Động Đình, thong dong cho đến giờ ngủ thì lại quay về cùng nhau xếp cánh tựa nhau mà ngủ đến sáng lại cùng nhau vươn cánh rửa mỏ tắm táp bằng nước hồ rồi lại nhắm thẳng chiếc thuyền gần bờ mà bay đến đớp thịt của những phu thuyền ném lên mà ăn sáng. Người vợ mới Trúc Thanh cứ ngại ngùng e ấp lúc nào cũng bên cạnh như hình với bóng chăm sóc chu đáo tận tình khiến chàng thư sinh lạc đệ Ngư Dung cảm thấy phơi phới như nửa đời đau khổ đã bị quét sạch làu làu.

Một buổi chiều kia, khi Ngư Dung đã hoàn toàn trở thành một con quạ thần của miếu Ngô Vương, đã thoải mái đùa giỡn trên cột buồm của thuyền bè qua lại, thì có một con thuyền lớn chở đầy lính tráng đi ngang qua. Đám quạ thấy nguy hiểm liền né tránh, Trúc Thanh cũng mấy lần khuyên can nhưng Ngư Dung thì cứ vui mừng vì nỗi được bay lượn tự do tự tại nên cứ lượn vòng quanh thuyền với vẻ đắc ý. Có một tên lính nghịch ngợm bất thần giương cung bắn xuyên ngực Ngư Dung. Khoảnh khắc chàng rơi xuống như một hòn đá, Trúc Thanh lập tức bay ra, đỡ cánh vực chàng vào lan can miếu Ngô Vương cho nằm xuống. Rồi vừa ôm lấy Ngư Dung đang hấp hối nàng vừa khóc lóc thảm thiết. Tuy nhiên thấy vết thương quá nặng không sao qua khỏi được, Trúc Thanh với giọng bi thương liền gọi mấy trăm bạn quạ đến, tiếng vỗ cánh bay rợp trời rồi dùng cánh đập nước tạo thành sóng lớn lật úp thuyền để trả thù cho Ngư Dung xong ca khúc khải hoàn vang động cả khắp hồ Động Đình. Trúc Thanh vội vàng trở về bên Ngư Dung, dùng mỏ áp sát vào ám Ngư Dung mà nói với giọng rất đỗi bi thương.

Chàng nghe thấy không? Khúc ca khải hoàn của bạn bè mình đấy”

Ngư Dung sắp sửa tắt hơi vì vết thương quá nặng, hé đôi mắt nhắm nghiền mà nói khe khẽ.

Trúc Thanh ơi”

Rồi bất thình lình chàng tỉnh dậy, nhận thấy mình đang ngủ bên hành lang miếu Ngô Vương với thân phận một chàng thư sinh nghèo như cũ. Ánh tà dương rọi xuống khu rừng cây phía trước mặt, hàng trăm con quạ vẫn đùa giỡn và kêu quạ quạ một cách vô tâm.

Đã tỉnh dậy rồi đấy à?”

Một người nông dân đang đứng kế bên chàng mỉm cười hỏi thăm.

Ông là ai vậy chứ?”

Tôi là nông dân vùng này thôi. Chiều hôm qua đi ngang qua đây thấy cậu nằm ngủ say như chết. Vừa ngủ vừa khe khẽ mỉm cười nữa chứ. Tôi có gọi lớn thế nào cậu cũng không tỉnh dậy. Tôi nắm vai lay cậu dậy mà cũng hoài công. Sau khi trở về nhà tôi cảm thấy áy náy quá nên thỉnh thoảng ghé qua đây xem tình nhình và chờ cậu tỉnh dậy. Sắc mặt cậu xanh xao lắm. Cậu bệnh à?”

Không, chẳng có bệnh tật gì đâu ạ”. Lạ lùng là chàng lại không cảm thấy đói bụng một chút nào cả. “Xin lỗi ông rất nhiều ạ”. Cái câu nói cửa miệng lại bật ra, chàng ngồi ngay ngắn lại cúi đầu cảm tạ bác nông phu. “Thật là xấu hổ quá…”, chàng mào đầu trước khi kể lại chi tiết câu chuyện tại sao chàng nằm ngủ bên miếu Ngô Vương và kết lại bằng câu “Thật là vô cùng xin lỗi bác…”

Người nông dân với vẻ thông cảm, lấy chiếc ví từ trong túi ra đưa ít tiền cho Ngư Dung.

Vạn sự trên đời này đều là Tái ông mất ngựa5 cả. Cậu hãy giữ gìn sức khỏe để làm lại từ đầu đi. Con người ta sống bảy mươi năm cuộc đời phải trải qua nhiều chuyện lắm. Lòng người thì cũng hay thay đổi như nước hồ Động Đình thôi”

Nói xong những lời hoa mỹ đó, ông lão bỏ đi.

Ngư Dung vẫn còn tâm trạng như trong mơ, bàng hoàng đứng dậy nhìn lão nông phu đi xa khuất rồi lại ngước nhìn đàn quạ đậu trên những ngọn cây mà gọi lớn.

Trúc Thanh ơi”

Đàn quạ kinh ngạc bay vút lên cao, nháo nhác hồi lâu bay lượn vòng trên đầu chàng, rồi bay thẳng về phía hồ Đồng Đình, chẳng có gì khác lạ cả.

Quả thật chỉ là một giấc mơ mà thôi, Ngư Dung với vẻ mặt buồn rầu lắc đầu rồi thở dài ảo não và lại lê bước chân về quê nhà.

Thấy Ngư Dung quay trở về, những người ở quê hương chẳng tỏ vẻ gì vui mừng cả, bà vợ lạnh lùng sai Ngư Dung đến nhà ông chú mình vác đá xây đình viên. Ngư Dung mồ hôi mồ kê nhễ nhại khuân từng tảng đá từ bờ sông về đến nhà chú vợ vừa lầm bẩm “bần nhi vô oán nan”6 (nghèo không oán than mới khó) rồi ngâm nga “sáng nghe được giọng của Trúc Thanh chiều chết cũng cam lòng”7 mà cảm thấy hoài vọng cuộc sống một ngày hạnh phúc nơi hồ Động Đình như thiêu như đốt.

Như Khổng Tử nói “Bá Di Thúc Tề không nhớ oán giận cũ nên hiếm người giận họ”8. Ngư Dung nhà ta cũng là một thư sinh quyết chí đi theo con đường quân tử cao xa nên cũng gắng sức không oán trách gì những người thân thích vô tình bạc nghĩa, cũng không phản kháng lại mụ vợ già vô học, chỉ chuyên tâm gần gũi với sách vở Thánh hiền, nuôi dưỡng sở thích nhàn nhã cao sang, nhưng cuối cùng cũng không chịu nổi sự khinh miệt của những người xung quanh nên vào mùa xuân ba năm sau một lần nữa lại đấm cho mụ vợ một phát rồi đi ứng thí, quyết chí gặp hội rồng mây nhưng quả nhiên lần nữa lại hoàn toàn lạc đệ. Hình như mình là một con người vô dụng thì phải. Trên đường về quê, chàng lại ghé miếu Ngô Vương bên hồ Động Đình chất chứa đầy kỷ niệm cũ, nhìn cảnh nhớ người xưa, nỗi rầu buồn dâng cao ngút ngàn, chàng sùi sụt khóc lóc trước miếu rồi còn bao nhiêu đồng bạc lẻ mang hết ra mua thịt dê đem rải trước miếu cho lũ quạ từ trên cây bay xuống ăn và tự hỏi trong đó có Trúc Thanh không nhỉ nhưng con nào con ấy đều đen thui, đến mức không thể phân biệt được cả đực cái nữa.

Trúc Thanh có đó không em?” nhưng chẳng thấy con quạ nào quay đầu nhìn lại. Tất cả đầu thản nhiên mổ thịt ăn. Ngư Dung không nản lòng bỏ cuộc.

Nếu trong đây có Trúc Thanh xin hãy ở lại đến cuối cùng”, chàng thử hỏi thăm với tấm chân tình bùi ngùi ngàn nỗi niềm thương nhớ. Sau khi ăn gần hết thịt, đàn qua cứ năm ba con lại bay đi, cuối cùng chỉ ba con còn lại cố gắng tìm những miếng thịt cuối cùng. Ngư Dung thấy thế tim đập thình thịch, phấp phỏm phập phồng. Nhưng sau khi thấy không còn miếng thịt nào nữa, ba con lạnh lùng bay đi, không có chút gì lưu luyến cả. Ngư Dung quá đỗi bàng hoàng tối tăm mặt mũi, hoa mắt không thể nào đi nổi đành ngồi bệt xuống trước lan can ngôi miếu, nhìn mặt hồ sương mùa xuân bảng lảng mà thở dài não nuột.

Trời, hai lần liên tiếp lạc đệ đau thương. Ta còn mặt mũi nào mà quay về cố hương nữa chứ. Mình sống chẳng có ý nghĩa nữa rồi. Mình cũng từng nghe đến chuyện Khuất Nguyên thời Xuân Thu Chiến quốc đã cảm thán “thiên hạ đều say cả, chỉ mình ta tỉnh thôi” rồi trầm mình xuống sông mà chết. Còn mình nếu trầm mình chết nơi hồ Động Đình chan chứa kỷ niệm này thì có lẽ Trúc Thanh đang ở nơi nào đó nhìn thấy sẽ nhỏ lệ khóc thương chăng? Người thực sự yêu thương ta chỉ có một mình Trúc Thanh mà thôi còn tất thảy đều là thứ ma quỷ ích kỷ đáng sợ cả. Ba năm trước người nông phu đã khích lệ mình là cuộc đời vạn sự như Tái ông thất mã nhưng đó chỉ là những lời dối trá thôi. Cái người vốn bẩm sinh đã bất hạnh thì cho dù bao nhiêu thời gian trôi qua cũng chỉ loay hoay nơi đáy cùng của bất hạnh mà thôi. Như vậy là biết tri thiên mệnh đấy. A ha ha, thì chết thôi. Nếu có Trúc Thanh khóc thương ta thì cũng đủ rồi. Ngoài ra ta chẳng mong chờ gì nữa cả”.

Một người quyết chí đi theo con đường của thánh hiền xưa như Ngư Dung mà cũng u uất, không chịu nổi cơn thất ý, quyết tâm trầm mình tại hồ Động Đình vào đêm nay. Đêm xuống, vầng trăng mờ ảo nhô lên không trung, hồ Động Đình tuyền một màu trắng sáng trải dài mênh mông không biết đâu là ranh giới giữa nước và trời mây. Bãi cát ven bờ sáng như ban ngày, những cành liễu ngậm sương hồ trĩu nặng, những cánh hoa đào phía xa trông như những hạt mưa đá. Đôi lúc có cơn gió nhẹ lướt qua như tiếng thở dài của trời đất. Thật là một đêm xuân yên tĩnh tuyệt vời. Nghĩ đến đây là những phút cuối cùng cuộc đời, nước mắt lã chã tay áo, tiếng khỉ kêu buồn không biết từ đâu vẳng đến. Đúng khi sầu tư đạt đến đỉnh điểm, Ngư Dung chợt nghe phía sau có tiếng vỗ cánh.

Từ ngày biệt ly, chàng vẫn bình an chứ?”

Quay lại nhìn, Ngư Dung thấy một mỹ nhân ngoài hai mươi tuổi, mũi cao mắt sáng đang đứng trong ánh trăng ngà.

Ai vậy chứ? Cho tôi xin lỗi nhé”. Đầu tiên cứ phải mở miệng xin lỗi đã.

Thiệt tình”, người đẹp đập nhẹ lên vai Ngư Dung. “Chàng quên Trúc Thanh rồi sao?”

Trúc Thanh ư”

Ngư Dung đứng sững như trời trồng, rồi hơi do dự một lát nhưng cuối cùng cũng liều mà ôm lấy bờ vai bé nhỏ của người con gái.

Buông em ra đi. Em không thở được mất”, Trúc Thanh mỉm cười nói và khéo léo thoát khỏi vòng tay của Ngư Dung. “Giờ em không đi đâu nữa đâu. Em sẽ bên chàng trọn đời này”

Van nàng mà. Hãy làm thế với ta. Vì không có nàng mà đêm nay ta quyết chí tự trầm ở hồ này đấy. Cuối cùng thì nàng đã ở đâu?”

Em ở nơi Hán Dương xa lắm. Từ sau khi ly biệt với chàng, em không còn nơi đây nữa mà trở thành quạ thần của sông Hán Thủy. Vì lúc nãy những bạn bè ngày xưa nơi miếu Ngô Vương này báo cho em biết nhìn thấy bóng dáng của chàng nên em vội vàng từ Hán Dương bay đến đây. Trúc Thanh mà chàng yêu mến đã đến đây rồi nên chàng đừng nghĩ đến những chuyện đáng sợ như chết chóc nữa nhé. Mà có vẻ như chàng hơi gầy đi thì phải nhỉ”

Gầy là đương nhiên. Liên tiếp hai lần lạc đệ. Bây giờ vác mặt về quê, không biết ta sẽ phải gặp cảnh khổ sở như thế nào nữa đây? Ta chán ghét cái thế gian này lắm rồi”

Tại chàng cứ nghĩ mình chỉ có thể sống được nơi quê nhà thôi nên chàng mới khổ sở đấy. Chằng phải những thư sinh như chàng cứ ngâm nga câu “quê hương đâu phải mồ chôn, thân trai còn có thanh sơn vẫy vùng”9 đó sao? Chàng hãy cùng đến ngôi nhà của em nơi Hán Dương đi nhé. Em sẽ cho chàng thấy một cuộc sống tuyệt vời”

Hán Dương sao xa xăm quá”, rồi không cần phải gọi mời hai người cùng sánh vai nhau thành thơi tiêu dao từ hành lang miếu Ngô Vương đến bờ sông trăng sáng. “Nhưng Khổng Tử nói “phụ mẫu tại bất viễn du, du tất hữu phương10”. Ngư Dung làm vẻ mặt nghiêm trang, tỏ vẻ rất có học thức.

Chàng nói gì vậy chứ? Chàng đâu còn cha mẹ đâu mà”

Trời, nàng biết luôn à? Thế nhưng ở quê nhà ta còn nhiều người thân thích như cha mẹ vậy. Ta muốn một lần cho thấy ta vinh quy bái tổ vẻ vang như thế nào. Những người đó từ xưa đã luôn nghĩ ta chỉ là một thằng ngốc thôi. Đúng rồi bây giờ thay vì đi Hán Dương, nàng cùng ta trở về quê nhà đi. Thấy được dung nhan xinh đẹp của nàng mọi người chắc hẳn sẽ kinh ngạc lắm. Thế nào? Làm vậy đi nhé. Ta muốn một lần được vẻ vang ra uy với bà con dòng họ nơi quê nhà. Được mọi người nơi quê nhà kính trọng chính là hạnh phúc tối cao, là thắng lợi chung cuộc vậy”

Tại sao chàng cứ phải bận tâm đến những suy nghĩ của những con người chốn quê nhà như thế chứ? Chẳng phải người ta nói những người cố gắng tìm đủ mọi cách lấy lòng những người trong làng xóm là lũ hương nguyện sao? Chẳng phải trong Luận ngữ cũng có câu “hương nguyện đức chi tặc dã”11 (hương nguyện là kẻ làm hại đức) còn gì”

Ngư Dung nghe cứng họng liền tuyệt vọng bất chấp.

Vậy thì đi. Chúng ta cùng đi Hán Dương nào. Nàng dẫn ta đi nhé. Thệ giả như tư phù bất xả trú dạ12”, bất chợt chàng ngâm lớn một câu trong Luận ngữ để che giấu niềm xấu hổ rồi cất tiếng “A haha” tự cười mình.

Chàng chịu đi sao?”, Trúc Thanh vui mừng hớn hở. “Chà, em vui quá. Để em sửa soạn ngôi nhà nơi Hán Dương để đón tiếp chàng thật chu đáo. Nào, chàng nhắm mắt lại chút nào”

Ngư Dung khẽ nhắm mắt lại theo lời nàng, chỉ nghe tiếng vỗ cánh vun vút, rồi khi nhận thấy có gì như tấm áo mỏng khoác nhẹ lên vai mình khiến thân mình nhẹ bẫng liền mở mắt ra thì thấy hai người đã trở thành quạ với đôi cánh đen tuyền lấp lánh trong ánh trăng, đang bước đi trên bờ cát. Hai con quạ cùng cất tiếng kêu quạ quạ rồi vỗ cánh bay vút lên cao.

Sông dài ba ngàn dặm dưới ánh trăng, chảy xuôi về hướng đông bắc. Ngư Dung như say như mê chỉ mải miết bay theo dòng. Cuối cùng đến khi trời sáng, chàng nhìn thấy phía xa kia những mái nhà nơi Hán Dương, thủy thượng đô thành, đang lặng lẽ nằm ngủ dưới đáy làn sương sớm mai. Khi đến gần hơn thì thấy đúng là Hán Dương sông tạnh cây bày, bãi xa Anh vũ xanh đầy cỏ non13. Bờ bên kia là Hoàng hạc lâu cao vút, ngăn cách sông Trường giang, cùng với Tình xuyên các đang thì thầm kể chuyện cũ xưa, những cánh buồm điểm xuyến trên sông đang đi với vẻ vội vã. Xa thêm chút nữa có nguyệt hồ nước đầy ăm ắp nằm dưới chân ngọn Đại biệt sơn. Phía bắc dòng nước Hán Thủy uốn lượn chảy vào Thiên nhai. Đúng là cả một thành Vience phương Đông thu gọn vào tầm mắt. Trong lúc Ngư Dung đang cảm khái ngâm nga “quê ta ở chốn nơi nào, mà sông khói sóng để sầu cho ai?14” thì Trúc Thanh quay sang nói.

Chà, đã đến nhà em rồi đó”, nàng nói rồi ung dung lượn bay vòng quanh một hòn đảo nhỏ trên dòng Hán Thủy. Ngư Dung thấy thế cũng lượn bay theo một vòng khá lớn rồi nhìn thử hòn tiểu châu phía dưới thì thấy nơi một góc đảo cỏ xanh xa mờ như chìm trong nước có dãy nhà nhỏ xinh như nhà búp bê vậy. Năm sáu người hầu chạy ra ngước nhìn lên trời vẫy tay chào đón Ngư Dung trông nhỏ như mấy búp bê tí xíu. Trúc Thanh dùng mắt ra hiệu cho Ngư Dung rồi thu cánh đáp thẳng xuống. Ngư Dung cũng vội vàng làm theo. Ngay khoảnh khắc hai con quạ đáp xuống bãi cỏ xanh lập tức hóa thành vị công tử hào hoa và mỹ nhân diễm tuyệt tươi cười sánh bước bên nhau, được đám người hầu kẻ hạ vây quanh dẫn vào trong nhà.

Trúc Thanh cầm tay Ngư Dung dẫn vào sâu phía trong đến một căn phòng tối, trên bàn có ngọn nến bạc tỏa khói xanh, rèm che thêu chỉ vàng chỉ bạc lấp lánh. Trên giường lại đặt một chiếc bàn nhỏ màu đỏ, có bày sẵn mỹ tửu thức nhắm ngon như đã sẵn sàng chờ khách quý.

Đêm vẫn chưa tàn sao?”, Ngư Dung hỏi một câu ngu ngốc.

Thiệt tình, ghét chàng quá”, “vậy mà em cứ nghĩ để tối một chút chàng mới không cảm thấy ngại ngùng chứ”

Đạo của người quân tử thì lờ mờ15 mà nhỉ?”, Ngư Dung cười khổ, bông đùa một câu chẳng ra gì.

Tuy nhiên cổ thư cũng có câu “tố ẩn hành quái16” nữa. Ta nên mở cửa sổ để cùng hân thưởng cảnh sắc mùa xuân của Hán Dương nào”

Ngư Dung vén rèm rồi mở cửa sổ ra. Ánh sáng ban mai tràn vào, hoa đào trong vườn đua nhau khoe sắc, chim chích đua nhau hót nhức cả tai, phía xa kia những con sóng nhỏ của sông Hán Thủy lấp lánh dưới ánh mặt trời.

Chao ơi, cảnh đẹp quá. Ước gì người vợ nơi quê nhà ta được thấy một lần nhỉ”

Ngư Dung bất giác thốt lên và cảm thấy vô cùng ngạc nhiên. Chàng tự hỏi lòng mình thực sự yêu mụ vợ xấu xí đó à? Đột nhiên chàng cảm thấy vô cùng muốn khóc mà không biết tại sao.

Quả thật chàng không thể nào quên được người vợ nơi quê nhà nhỉ?”, Trúc Thanh đứng bên cạnh điềm đạm nói rồi khe khẽ thở dài.

Không có chuyện đó đâu. Mụ vợ suốt ngày khinh miệt việc học hành của ta, bắt ta giặt quần áo bẩn, rồi khuân đá nữa. Hơn thế nghe đồn mụ ấy còn là nhân tình của ông chú ta nữa chứ. Hoàn toàn không có một điểm nào hay ho cả”

Nếu như không có điểm nào tốt cả thì sao chàng lại nhớ nhung như thế chứ? Chắc chắn trong thâm tâm chàng có điều đó. Chẳng phải ai cũng có lòng trắc ẩn sao? Có thể không oán hận, nguyền rủa hay căm ghét người vợ mình, cùng nhau chia sẻ ngọt bùi sống qua kiếp đời này mới chính là lý tưởng của tâm tư chàng đấy chăng? Chàng hãy về nhà ngay đi”

Trúc Thanh chợt trở nên nghiêm túc và nói thẳng thừng.

Ngư Dung vô cùng hoảng hốt.

Như vậy thì tệ quá. Nàng đã mời gọi ta đến đây giờ bắt ta trở về thì tệ lắm. Chẳng phải nàng đã nói “hương nguyện” gì gì đó để công kích ta lìa bỏ quê hương đến đây sao? Nàng lấy ta ra làm trò đùa à?”

Ngư Dung phản bác.

Ta là thần nữ”, Trúc Thanh nhìn thẳng về dòng sông Hán Thủy lấp lánh phía xa và trang nghiêm đáp lời. “Chàng tuy rớt kỳ thi hương của nhân gian nhưng lại vượt qua được vòng khảo thí của thần linh. Ta được thần linh của miếu Ngô Vương dặn dò phải điều tra kỹ lưỡng xem chàng có thật lòng cảm thấy ganh tỵ với đời sống của chim quạ hay không? Những kẻ hóa thân thành chim thú mà cảm thấy hạnh phúc thực sự sẽ bị thần linh chán ghét nhất. Một lần để cảnh tỉnh chàng nên đã để cho chàng bị tên bắn trúng gửi trả về trần gian nhưng chàng vẫn khao khát trở lại thế giới loài quạ. Lần này thần linh quyết định đưa chàng đi xa, cho hưởng thụ niềm vui thú để xem chàng có bị đắm chìm trong khoái lạc mà quên đi hoàn toàn thế giới con người hay không? Nếu quên thật sự thì hình phạt cho chàng sẽ khủng khiếp đến độ ta không thể nào nói ra được. Hãy trở về đi. Chàng đã hoàn toàn vượt qua cuộc thử thách của thần linh rồi đó. Đã là con người thì phải chìm đắm trong đau khổ của niềm thương ghét con người một đời mới được17. Không có cách nào thoát được cả đâu. Chỉ có cách nhẫn nhục và luôn cố gắng mà thôi. Học vấn thì cũng được đó nhưng cứ làm ra vẻ thoát tục thì thật hèn yếu. Chàng cần phải mạnh mẽ hơn, ra sức yêu thương thế gian trần tục, hãy thử đau thương khổ lụy đến tận cùng cuộc đời xem sao. Thần linh yêu thương những con người như thế nhất. Em vừa cho mấy người hầu sửa soạn thuyền bè cho chàng rồi. Chàng hãy lên thuyền và nhanh chóng trở về quê cũ ngay đi. Tạm biệt chàng”

Vừa nói xong, hình dáng Trúc Thanh và cả dãy nhà đình tạ đều biến mất, còn lại Ngư Dung lẻ loi đứng một mình nơi cô đảo giữa sông.

Một con thuyền độc mộc không có cả cột buồm hay mái chèo ghé lại gần bờ, Ngư Dung bước lên như bị hút hồn. Chiếc thuyền tự chạy xuôi dòng Hán Thủy, ngược dòng sông Trường giang, băng ngang hồ Động Đình rồi dừng nơi bến ngôi làng đánh cá gần quê nhà của Ngư Dung. Sau khi Ngư Dung lên bờ, chiếc thuyền không tự rẽ sóng quay đi lướt đi và biến mất vào khói sóng hồ Động Đình.

Ngư Dung xiết bao kinh ngạc khi nhìn vào khoảng tối phía sau căn nhà mình thấy một mỹ nhân tươi cười chào đón “Mừng chàng trở về nhà”. Trời, chẳng phải là Trúc Thanh hay sao?

Trúc Thanh”

Chàng nói gì vậy? Chàng đã đi đâu thế? Trong thời gian chàng đi vắng, em nằm bệnh liệt giường chẳng có ai chăm lo săn sóc cả, nhớ nhung chàng khôn nguôi. Em hối hận vì đã đùa cợt chàng cho đến tận bây giờ . Sốt mãi mà không chịu hạ xuống, toàn thân em sưng phù tím ngắt. Em chấp nhận như là quả báo đương nhiên cho tội lỗi đối xử tệ bạc với người tốt như chàng. Trong khi em lặng lẽ nằm chờ chết thì lớp da sưng lên nứt ra rỉ nước xanh, người em trở nên nhẹ bẫng. Sáng nay em soi gương thử xem thì thấy mặt mình thay đổi trở nên xinh đẹp như thế này đây. Thật vui không sao kể xiết. Thế là em quên luôn bệnh tật, nhảy ngay ra khỏi giường bắt đầu quét dọn nhà cửa thì thấy chàng trở về. Em vui quá. Tha thứ cho em nhé. Không chỉ mặt mũi em thay đổi mà toàn thân cũng thay đổi luôn. Rồi cả tâm thức cũng thay đổi nữa. Em đã thật tệ hại. Những việc ác của em trong quá khứ đã trôi đi cùng với thứ nước xanh kia rồi nên chàng cũng quên hết chuyện ngày xưa đi, tha thứ cho em. Em sẽ bên chàng mãi mãi”.

Một năm sau, một bé trai đẹp đẽ như ngọc chào đời. Ngư Dung đặt tên con là “Hán Sản”. Chàng không kể cho người vợ mặn nồng của mình lý do đặt tên như vậy. Những bí mật chôn giấu trong lòng Ngư Dung cùng với kỷ niệm quạ thần chàng giữ kín, không nói cho ai nghe, cũng tuyệt đối không nói ra những lời tự mãn kiểu “quân tử chi đạo” làm gì nữa. Chàng cứ tiếp tục lặng lẽ sống qua những tháng ngày nghèo khó. Tuy không được những người thân thích tôn kính nhưng cũng không bị phân biệt đối xử gì nữa, chàng trở thành một người nông phu bình thường nhất giữa chốn bụi trần nhân gian.

Chú thích của tác giả:

Đây là truyện sáng tác. Tôi viết và muốn cho người Trung quốc đọc. Chắc chắc truyện sẽ được dịch sang Hán văn.

Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ

1 Nguyên văn “大学の道は至善に止まるに在り” lấy từ sách “Đại học”, một trong quyển “Tứ thư” của Nho Giáo. “大學之道,在明明德,在親民,在止於至善” (Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện) nghĩa là “Đạo của Đại Học là làm sáng thêm cái đức sáng, đổi mới dân chúng, và vươn đến chỗ chí thiện”

2 Nguyên văn “馬嘶て白日暮れ、剣鳴て秋気来る”lấy từ hai câu thơ đầu trong bài thơ “Củng Lộ cảm hoài” () của Lã Ôn đời Đường “Mã tê bạch nhật mộ, Kiếm minh thu khí lai. Ngã tâm hạo vô tế, Hà thượng không bồi hồi” , ,  , mà chúng tôi tạm dịch “ngựa hý chiều sáng nắng, kiếm khua khí thu về, bên bờ sông thơ thẩn, cõi lòng sao tái tê”

3 Lạc đệ (らくだい落第)nghĩa là thi hỏng. Trong bài “Cảm thông” của thi sĩ Vũ Hoàng Chương có đoạn “dăm gã thư sinh vừa lạc đệ, mười nàng xuân nữ sớm chìm châu, cảm thông một phút bừng ân ái, miếu nguyệt vườn sương gặp gỡ nhau”.

4 Nguyên văn “秋風翻す黄金浪花千片”lấy ý từ câu thơ của Bạch Cư Dị “phong phiên bạch lãng hoa thiên phiến” (風翻白浪花千片 ) nghĩa là “gió xao sóng bạc hoa ngàn đóa”. Ngư Dung sửa lại thành “sóng vàng” cho hợp cảnh.

5 Nguyên văn “nhân gian vạn sự đều là Tái ông thất mã” (人間万事塞翁の馬), nghĩa là họa phúc thường đi liền với nhau, trong cái rủi có cái may.

6Câu trong Luận ngữ của Khổng Tử 貧 而 無 怨 難 富 而 無 驕 易(bần nhi vô oán nan, phú nhi vô kiêu dị ) (nghèo mà không oán than thì khó, giàu mà không kiêu căng thì dễ).

7 Nguyên văn “に竹青の声を聞かば夕に死するも可なり矣” lấy ý từ câu nói trong Luận ngữ “triêu văn đạo, tịch tử khả hĩ” (朝聞道, 夕死可sáng nghe được đạo, chiều chết cũng cam lòng)

8 Nguyên văn “は旧悪を念わず、怨是を用いて稀なり” lấy ý từ câu trong Luận ngữ “Bá DiThúc Tềbất niệm cựu ác, oán thị dụng hi” (伯夷, 叔齊, 不念舊惡, 怨是用)

9 Nguyên văn “人間至るところに青山がある” trích từ thơ của thi tăng Gesshou (Nguyệt Tính- 月性) (1817-1858), cuối đời Mạc Phủ. Câu thơ này còn nghe vọng âm hưởng của một ý thơ của Tô Thức đời Bắc Tống “thị xứ thanh sơn khả mai cốt” () “xương trắng xin vùi nơi núi biếc”.

10 Nguyên văn “父母在せば遠く遊ばず、遊ぶに必ず方有り” lấy trong sách Luận ngữ “Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương”  (Cha mẹ còn thì con không nên đi xa, nếu đi thì phải có nơi nhất định)

11 Nguyên văn “郷原は徳の賊なり”trong sách Luận ngữ “, 德之賊也”. “Hương nguyện (kyougen) được từ điển Quảng Từ Uyển (広辞苑) giải thích là “phường tiểu nhân làm ra vẻ thiện lương đạo mạo, cố gắng để được người làng đánh giá tốt đẹp” (善良を装い、郷中の好評を得ようとつとめる小人)

12 Nguyên văn “逝者は斯の如き夫、昼夜を捨てず” lấy từ sách Luận ngữ “thệ giả như tư phù bất xả trú dạ” (逝者如斯夫, 不舍晝夜 – người đi như nước chảy, ngày đêm không ngừng)

13 Nguyên văn “晴川歴々たり漢陽の樹、芳草  たり鸚鵡の洲” (Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương thảo thê thê anh vũ châu) là hai câu thơ trong bài “Hoàng Hạc Lâu” nổi tiếng của Thôi Hiệu.

14 Nguyên văn “わが郷関何れの処ぞ是なる、煙波江上、人をして愁えしむ” lấy ý từ hai câu cuối bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu “nhật mộ hương quan hà xứ thị, yên ba giang thượng sử nhân sầu” ( , 使 )

15 Nguyên văn “君子の道は闇然たり” lấy ý trong sách “Trung Dung”: “Quân tử chi đạo, ám nhiên nhi nhật chương , tiểu nhân chi đạo trước nhiên nhi nhật vong” (,  小 人 之 道 的 然 而 日 亡 Đạo người quân tử lờ mờ mà càng ngày càng rõ rệt, đạo của tiểu nhân tuy bộc lộ mà ngày cảng mất đi).

16 Nguyên văn “隠に素いて怪を行う” có lẽ lấy ý từ câu của Khổng Tử “tố ẩn hành quái, ngô bất vi chi” (những việc bí ẩn quái dị ta không làm).

17 Câu này rất hay. Xin trích nguyên văn “人間は一生、人間の愛憎の中で苦しまなければならぬものです”

(Bài viết do dịch giả cung cấp độc quyền cho breadandrose.com )

Văn học Nhật Bản Văn học phương Đông

Truyện ngắn SHIGA NAOYA – “Lưỡi dao cạo” (Hoàng Long dịch)

Shiga Naoya (1883 -1971 ) (志賀直哉) là nhà văn lỗi lạc của Nhật Bản, được văn hào Akutagawa vô cùng ngưỡng mộ. Ngoài tiểu thuyết kiệt tác “Đi trong bóng tối” (暗夜行路), ông còn để lại rất nhiều “truyện ngắn tâm trạng” (心境小説) chứng tỏ tài năng quan sát tâm lý bậc thầy với giọng văn quý phái và điềm đạm. “Lưỡi dao cạo” được xem là truyện ngắn nổi tiếng nhất của Shiga Naoya. Tuy được xếp vào loại “truyện ngắn tội phạm” ( 犯罪小説) nhưng chúng ta có thể xem đây như một truyện ngắn về tâm trạng cá nhân. Khả năng phân tích diễn biến tâm lý của một con người theo chủ nghĩa hoàn hảo với niềm tự hào cao tột về nghề nghiệp của mình dẫn đến kết cuộc bất ngờ nhưng hợp lý. Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “Kamisori” (剃刀) từ trang 74 đến trang 87 trong tuyển tập truyện ngắn “Seibei và quả bầu – Đến Abashiri” 清兵衛と瓢箪―網走までdo Nxb Shinchobunko tái bản lần thứ bảy mươi hai năm Bình Thành 25 (2013)

LƯỠI DAO CẠO

Yoshisaburo của tiệm cắt tóc Tatsudoko ở khu phố Azabu Roppongi, hầu như chưa bao giờ bệnh tật, lại đang nằm lì trên giường vì một cơn cảm cúm. Đó lại đúng lúc trước khi lễ hội mùa thu bắt đầu, công việc nơi tiệm cắt tóc cho đám lính tráng của anh bận rộn hơn bao giờ hết. Nằm bệnh trên giường Yoshisaburo nghĩ mà hối tiếc nếu như mình đừng đuổi cổ hai tên thợ học việc là Genko và Jidako vào tháng trước thì hay biết bao nhiêu.

Khoảng trước đây một đến hai năm, Yoshisaburo cùng hai đứa nhóc làm việc nơi đây. Người chủ trước đã ra sức truyền nghề thợ cạo cho anh, lại gả người con gái duy nhất cho rồi thoái ẩn, nhường tiệm cắt tóc này lại cho Yoshisaburo.

Genko vốn âm thầm để ý đến người con gái kia chẳng bao lâu sau thì nghỉ việc. Jidako tâm tính hiền lành vẫn làm việc chăm chỉ như xưa, chỉ khác là chuyển tên gọi từ “Anh Yoshi” thành “ông chủ”. Nhạc phụ sau khi ẩn cư chừng sáu tháng thì qua đời và sau đó chừng khoảng nửa năm thì nhạc mẫu cũng đi theo phiêu diêu miền cực lạc.

Về tay nghề thợ cạo phải nói Yoshisaburo thực sự là bậc tài danh. Hơn thế là một người có trực giác bén nhạy, chỉ cần dùng tay xoa mà thấy nhám nhám là Yoshisaburo phải cạo cho thật nhẵn nhụi như thể nhổ từng sợi tóc mới thôi. Vì thế mà không bao giờ có chuyện để cho da bị nham nhám cả. Khách hàng thường nói chỉ một ngày sau khi gặp Yoshisaburo là đã khác đi rồi. Và anh cũng luôn tự hào là chưa từng làm trầy xước mặt một người khách nào trong suốt mười năm qua.

Sau khi nghỉ việc khoảng hai năm, Genko quay trở lại xin làm công việc cũ. Yoshisaburo đành phải cho làm sau khi nhận lời xin lỗi từ Genko vốn từng là đồng nghiệp thân thiết. Tuy nhiên, sau hai năm, tay nghề của Genko xuống dốc trầm trọng. Đã thế lại còn không chuyên tâm vào công việc nữa. Genko còn rủ rê Jidako đam mê một cô gái đáng ngờ vốn quen biết cả đám lính khu phố Kasumicho. Do bị rủ rê như thế mà Jidako vốn là người hiền lành đã dám lấy trộm cả tiền của cửa tiệm nữa. Yoshisaburo nghĩ tình thấy tội nghiệp đã mấy lần lên tiếng nhắc nhở. Nhưng đến mức lấy trộm tiền của cửa tiệm thì không cón gì để nói nữa. Cuối cùng khoảng một tháng trước đây, Yoshisaburo đã cho hai tên này nghỉ việc.

Bây giờ cửa tiệm chỉ có hai người phụ việc là Kanejiro năm nay hai mươi tuổi có gương mặt xanh xao và vô cùng yếu ớt với thằng bé Kinko chừng mười hai mười ba tuổi có cái đầu dài về phía sau rất khác thường. Trong những lúc bận rộn trước ngày lễ như thế này hai đứa chẳng giúp ích được gì cả. Nằm bẹp trên giường vì sốt, Yoshisaburo vừa khổ sở bứt rứt không yên.

Đến gần trưa, khách đến rất đông đúc. Tiếng đóng mở cánh cửa kính, tiếng kêu khô khốc của đôi guốc gỗ cao đã mòn đế của Kinko mỗi khi kéo lê chọc vào thần kinh nhạy bén của Yoshisaburo.

Nhà Yamada thuộc phố Ryudo đây ạ. Chủ nhân chúng tôi từ tối mai sẽ đi du lịch nên hãy mài lưỡi dao này giùm. Tôi sẽ đến lấy sau”. Đó là giọng nói của một người phụ nữ.

Hôm nay hơi đông khách nên để đến sáng ngày mai có được không ạ?”, Kanejiro cất giọng hỏi.

Người phụ nữ có vẻ hơi do dự một chút.

Vậy thì chắc chắn ngày mai nhé”, nàng ta nói rồi đóng cửa nhưng ngay lập tức lại kéo cảnh cửa mở ra.

Xin lỗi đã làm phiền nhưng hai vị có thể hỏi ông chủ thử xem sao…”

Dạ, nhưng ông chủ…”

Kane, để tôi làm cho”

Từ trong giường bệnh, Yoshisaburo nói lớn, ngắt lời Kanejiro. Giọng nói sắc bén nhưng hơi khàn khàn. Không trả lời câu nói đó, Kanejiro nói với người phụ nữ “Được rồi ạ”. Có vẻ như người phụ nữ đó đóng cửa lại và rời đi.

Khốn kiếp thật”, Yoshisaburo lầm bầm rồi giơ cánh tay xanh xao nhuốm bẩn màu xanh của tấm chăn và chăm chú nhìn một lúc. Tuy thế thân hình đang mệt mỏi vì cơn sốt đó vẫn nặng nề như một vật thể được đặt xuống chắc chắn. Yoshisaburo giương đôi mắt đờ dẫn nhìn con chó đồ chơi cũ kỹ treo trên trần nhà. Ruồi bám đầy trên thân hình con chó đó.

Không để làm gì cả, anh lắng tai nghe câu chuyện ngoài cửa tiệm. Hai ba người lính đang bình phẩm về chất lượng của tiệm ăn nhỏ gần đó và thức ăn trong quân ngũ dở tệ như thế nào tuy nhiên khi trời trở lạnh như vậy thì cũng có thể nuốt được chút đỉnh. Nghe được câu chuyện đó, Yoshisaburo cảm thấy khá hơn. Sau một lúc anh uể oải trở mình.

Trong ánh sáng buổi chiều trắng nhạt âm u chiếu qua khung cửa nhà bếp của căn phòng ba chiếu, vợ anh Oume đang địu đứa con trên lưng, chuẩn bị sẵn sàng cho bữa tối. Vừa thưởng thức cái cảm giác nhẹ nhõm của cơ thể, anh vừa nhìn ngắm quang cảnh đó.

Bây giờ mình sẽ làm”, anh nói rồi nhấc thân hình nặng nề của mình khỏi tấm chăn, nhưng cảm thấy chóng mặt nên phải nằm úp mặt xuống gối một lúc lâu.

Anh đi vệ sinh à?”, Ume cất tiếng dịu dàng hỏi thăm, nàng cứ thế bước vào phòng với hai bàn tay ướt sũng nước.

Yoshisaburo định nói không phải nhưng quả thật không thể thốt nên lời.

Oume kéo tấm chăn ra rồi đặt lọ thuốc và bình khạc đờm bên cạnh gối. Yoshisaburo lại nói “không phải vậy đâu”. Nhưng giọng anh khàn đến mức Oume không thể nghe ra. Tâm trạng vừa mới đỡ hơn của anh giờ lại trở nên căng thẳng trở lại.

Em đỡ anh từ phía sau nhé”, Ume đi vòng ra phía sau chồng mình như muốn chăm sóc an ủi cho anh.

Lấy miếng da mài và lưỡi dao cạo của ông Yamada lại đây”, Yoshisaburo nói như hất vào mặt Oume.

Oume im lặng một chút rồi cất tiếng.

Anh làm được không?”

Được mà, cứ mang lại đây”

“….Nếu anh ngồi dậy cần phải khoác thêm áo bông mới được”

Đã bảo là không sao mà, anh bảo là em cứ mang lại đây”, anh nói thấp giọng nhưng đầy cáu kỉnh bực bội. Oume làm vẻ mặt như không nghe thấy gì, lấy ra cái áo bông và đi vòng ra sau khoác lên người anh đang ngồi trên giường. Yoshisaburo nắm lấy cổ của chiếc áo bông rồi giật mạnh xuống.

Oume yên lặng kéo cánh cửa giấy giữa phỏng bước ra ngoài nền đất lấy lưỡi dao cạo và miếng da mài. Vì không có chỗ để treo tấm da mài nên Oume đã đóng đinh vào cây cột trụ bên gối nằm.

Ngay cả lúc khỏe mạnh bình thường mà chỉ cần tâm trí không thoải mái Yosashiburo cũng không thể mài tốt được huống chi giờ đây tay run lên vì sốt nên anh càng không thể mài dao được như ý muốn. Oume không chịu nổi khi nhìn thấy vẻ sự giận dữ của chồng mình đã mấy lần lên tiếng nhắc nhở:

Anh để cho Kane làm cũng được mà” nhưng đều không có câu trả lời. Nhưng cuối cùng thì Yosashiburo không thể nào tiếp tục được nữa. Sau mười lăm phút gắng gượng sức mạnh và ý chí cuối cùng anh quay lại giường và thiếp ngủ đi ngay.

Vào khoảng chập tối, khi nhà cửa lên đèn, người hầu nhà Yamada tiện đường đi làm công chuyện, đã ghé lấy mang lưỡi dao đi.

Oume nấu cháo. Nàng muốn chồng mình dùng khi còn nóng nhưng sợ đánh thức anh dậy khi đang ngủ mê mệt khiến anh lại trở nên cáu kỉnh nên thôi. Đó là vào khoảng chừng tám giờ tối. Nếu để anh ngủ thêm thì có thể sẽ nhỡ giờ uống thuốc. Vì vậy Oume đành ép mình đánh thức anh dậy. Yoshisaburo thức dậy dùng bữa với dáng vẻ cũng không khó chịu gì lắm. Rồi thì anh lại nằm xuống giường và thiếp ngủ đi ngay.

Khoảng gần mười giờ, Yoshisaburo lại bị đánh thức dậy để uống thuốc. Lần này thì anh lơ mơ nghĩ chuyện này chuyện khác nhưng không có chuyện nào đặc biệt cả. Hơi thở nóng bỏng của anh lan tỏa trong cái mền anh trùm gần kín mắt rồi phả lại vào mặt anh khó chịu. Cửa tiệm đã yên tĩnh trở lại. Anh nhìn xung quanh với đôi mắt đờ đẫn. Trên chiếc cột, tấm da mài đen bóng hững hờ rũ xuống. Trong ánh đèn hiu hắt, trông nó trở nên đùng đục một màu đỏ vàng rất khó ưa. Ánh đèn cũng chiếu sáng tấm lưng của Oume đang nằm nghiêng cho con bú trong góc phòng. Anh cảm thấy như cả căn phòng cũng đang khổ sở vì lên cơn sốt.

Ông chủ, ông chủ à….”, giọng nói rụt rè của Kinko vang lên từ cánh cửa nơi phía nền đất.

Gì vậy?”, Yoshisaburo đang trùm chăn lên mặt, cứ thế mà ậm ừ trả lời. Có vẻ như Kinko không nghe ra giọng nói khàn khàn dường như bị che giấu đó nên lại cất tiếng.

Ông chủ…”

Gì thế?”, lần này giọng đáp sắc bén rõ ràng.

Người nhà Yamada lại mang dao đến”

Cái khác à?”

Cái cũ ạ. Ông ta về dùng thử ngay nhưng thấy không bén lắm nên lại đến hỏi xem thử đến trưa mai mình có thể mài xong lần nữa không? Sau khi ông chủ đã sử dụng thử”

Người nhà họ còn đó không?”

Đi lúc nãy rồi ạ”

Thế nào nhỉ?”, Yoshisaburo vươn tay khỏi tấm chăn và cầm lấy lưỡi dao còn nguyên trong vỏ mà Kinko kính cẩn đưa cho.

Tay anh run lên vì sốt kìa. Sao không để cho anh Yoshikawa phố Kasumicho làm thay?”

Oume nói rồi lấy kéo chiếc áo kimono che lại bộ ngực trần và ngồi dậy. Yosashiburo vẫn yên lặng vươn tay đưa lưỡi dao về phía ánh đèn, rút khỏi vỏ và lật qua lật lại xem xét. Oume đến ngồi bên gối khẽ đặt tay lên trán anh. Yoshisaburo lấy tay kia gạt đi như cảm thấy phiền phức.

Kinko này”

Vâng”, đứng nơi chỗ mép giường, Kinko cất tiếng trả lời ngay.

Mang hòn đá mài lại đây”

Vâng”

Khi đá mài đã sẵn sàng, Yoshisaburo ngồi dậy khuỵu một chân xuống và bắt đầu mài. Tiếng chuông thong thả điểm báo hiệu mười giờ.

Oume nghĩ rằng bây giờ mình nói gì cũng vô dụng thôi nên ngồi lặng lẽ quan sát.

Sau khi mài trên đá một lúc, giờ là mài trên miếng da. Anh cảm thấy không khí tù đọng trong phòng bắt đầu chuyển động với những thanh âm rin rít liên tục. Cố ghìm cánh tay run, Yoshisaburo bắt đầu mài dao với những nhịp đều đặn nhưng có vẻ không như ý chút nào. Trong khi đó thì cây đinh mà Oume đóng tạm vào để giữ miếng da lại bị tuột ra. Miếng da mài bay bay cuốn theo cả lưỡi dao cạo.

Nguy hiểm quá”, Oume kêu lên và sợ hãi nhìn vào khuôn mặt của Yosashiburo. Cặp lông mày của anh giật giật.

Yoshisaburo tháo tấm da ra và ném xuống sàn, rồi anh cầm lưỡi dao trên tay và đứng dậy, đi ra phía nền đất chỉ với chiếc áo ngủ trên người.

Không được đâu anh ơi…”

Oume bật khóc ngăn cản nhưng vô hiệu. Yoshisaburo cứ im lặng bước ra phía nền đất. Oume cũng theo sau.

Tiệm không còn một người khách nào nữa. Kinko đang ngồi mơ màng nơi chiếc ghế đặt phía trước gương.

Cậu Kane đâu?”, Kinko cất tiếng hỏi.

Đi đeo bám Tokiko rồi”, Kinko trả lời với vẻ mặt vô cùng nghiêm túc.

Cậu ta nói vậy khi rời đi à?”, Oume bật cười. Tuy nhiên Yoshisaburo vẫn làm vẻ mặt khó đăm đăm.

Tokiko là cô gái trẻ của căn nhà trưng bảng hiệu “hàng tạp hóa và quân dụng” ở cách đây năm sáu căn. Nghe nói nàng đã tốt nghiệp trường cao đẳng nữ. Nơi tiệm của nàng ta lúc nào cũng có một hai người ngồi không phải là lính tráng thì cũng là sinh viên hay những người hàng xóm trẻ tuổi.

Tiệm đóng cửa rồi nên cậu hãy về đi”, Oume bảo Kinko.

Vẫn còn sớm”, bất chợt Yoshisaburo lên tiếng phản đối. Oume im lặng.

Yoshisaburo bắt đầu mài dao. Khi anh có thể ngồi đàng hoàng thì công việc có vẻ ổn thỏa hơn.

Oume mang ra chiếc áo bông, dỗ dành như đứa trẻ để anh chịu xỏ tay vào vào rồi an tâm ngồi ngay ngưỡng cửa nhìn Yoshisaburo chăm chú làm việc. Kinko ngồi ôm gối ngay chiếc ghế dành cho khách trước gương, cạo lên cạo xuống cẳng chân đã nhẵn nhụi.

Lúc đó thì cánh cửa bị kéo mạnh ra, một thanh niên lùn thấp chừng hai hai, hai ba tuổi bước vào. Hắn mặc cái áo kimono mới kết bằng chỉ đôi và mang guốc với dây quai siết chặt.

Tôi muốn sửa sang lại chút. Gấp lắm. Anh làm được không?”

Hắn ta nói vậy rồi đứng trước gương, cắn môi dưới, giơ cằm ra và lấy đầu ngón tay xoa xoa mạnh mẽ. Mặc dù hắn ta nói vẻ như dân thành phố nhưng điệu bộ lại cho thấy một kẻ quê mùa. Xem ngón tay với các khớp sưng lên và gương mặt nhiều lồi lõm có thể biết được hắn đã lao động nặng nhọc vào ban ngày.

Đi gọi cậu Kane. Nhanh đi”, Oume nhướng mắt ra lệnh.

Tôi làm cho…”

Nhưng hôm nay tay anh run như thế kia mà…”

Tôi sẽ làm”, Yoshisaburo lạnh lùng ngắt lời.

Hôm nay anh kỳ quặc thật”, Oume nói nhỏ.

Cái áo mặc khi làm việc đâu?”

Nếu chỉ cạo thôi thì đâu có dính tóc, sao anh không mặc vậy mà làm?”, Oume không muốn anh cởi chiếc áo bông.

Người thanh niên nhìn đôi vợ chồng với vẻ mặt ngạc nhiên rồi hỏi.

Ông chủ đang bệnh à?”

Hắn chớp đôi mắt nhỏ sâu như thể xoa dịu lấy lòng.

Vâng, có chút sốt nhẹ…”

Người ta nói dịch cúm đang hoành hành đấy. Ông phải cẩn thận mới được”

Cảm ơn”, Yoshisaburo đáp lời xã giao.

Khi Yoshisaburo choàng chiếc khăn trắng vào cổ, người thanh niên lại nói “chỉ cần làm qua loa thôi”. Rồi thêm “tôi đang vội đấy” và khẽ mỉm cười. Yoshisaburo yên lặng dùng cánh tay to lớn cạo mặt vị khách bằng lưỡi dao cạo mới mài xong.

Từ khoảng mười rưỡi đến mười một giờ rưỡi là tôi phải đi đấy”, hắn lại nói. Dường như muốn Yoshisaburo đáp lời.

Lập tức trong mắt Yoshisaburo hiện lên hình ảnh người con gái dơ bẩn chốn lầu xanh có giọng nói nghe qua không biết rõ là con trai hay gái. Rồi khi nghĩ đến kẻ thanh niên hạ đẳng này chuẩn bị đi tới đó thì cái quang cảnh gần như làm anh buồn nôn ấy cứ hiện lên trong tâm trí bạc nhược của anh. Nhúng xà bông vào chậu nước nóng mà giờ đã trở thành âm ấm, anh thoa đều từ gò má đến cằm. Trong khi đó, gã thanh niên liếc nhìn mặt mình trong gương với vẻ làm duyên làm dáng. Thiệt tình Yoshisaburo muốn chửi rủa cho tên này một trận ra trò.

Yoshisaburo dùng dao cạo lại một lần nữa từ nơi cổ họng trở lên nhưng lưỡi dao không như ý. Thêm phần nữa là tay anh run. Hơn nữa khi anh ngủ thì không sao nhưng khi thức dậy, cứ cúi người xuống là ngay lập tức nước mũi lại chảy ra. Thỉnh thoảng anh dùng tay cầm dao cạo lau qua đi nhưng nước mũi lại chảy ra đọng lại nơi đầu mũi làm anh ngứa ngáy.

Trong nhà vang lên tiếng trẻ con khóc nên Oume đã quay trở vào trong.

Ngay khi bị cạo bằng lưỡi dao cùn, vẻ mặt gã thanh niên kia vẫn bình thản. Có vẻ như gã không cảm thấy đau hay ngứa ngáy gì. Cái vẻ trâng tráo đần độn kia làm Yoshisaburo nổi giận. Mặc dù anh vẫn có lưỡi dao bén khác để sử dụng nhưng anh quyết định không đổi. Anh cảm thấy chẳng có gì quan trọng nữa. Nhưng rồi từ lúc nào anh nghiêm chỉnh trở lại. Cho dù chỉ có một chút nào nham nhám là thế nào anh cũng phải tỉ mẩn săm soi. Càng săm soi chăm chút anh càng cảm thấy giận dữ. Thân thể anh mệt mỏi rã rời. Khí lực anh cũng suy yếu. và dường như cơn sốt trở nên tệ hại hơn.

Người thanh niên lúc đầu còn tính bắt chuyện gì đó nhưng thấy sự khó chịu của Yoshisaburo nên sợ hãi im bặt. Và đến khi được cạo phần trán thì do cơn mệt mỏi của công việc nặng nhọc ban ngày, hắn bắt đầu chập chờn gà gật. Kinko cũng dựa vào cửa sổ và ngủ thiếp đi. Phía trong nhà giọng ru con cũng đã ngừng bặt. Đêm trở lại yên tĩnh. Chỉ còn nghe ra tiếng dao cạo.

Tâm trạng giận dữ và bất an giờ chuyển thành cảm giác muốn khóc. Cả thân thể và tâm trí anh đều mệt mỏi rã rời. Anh cảm thấy mắt mình tan chảy đi vì cơn sốt.

Sau khi cạo xong phần cổ họng đến gò má, cằm và trán, anh thấy chỗ nhược nơi cuống họng vẫn không được nhẵn như ý muốn. Là một người làm việc tỉ mỉ đến nơi đến chốn, anh cảm thấy mình muốn tước đi lớp da chỗ đó vậy. Khi nhìn thấy khuôn mặt của gã đó với những lỗ chân lông thô thiển tích đầy dầu nhờn thật tình trong thâm tâm anh đã cảm thấy như thế. Gã thanh niên từ lúc nào đã ngủ say sưa. Hắn ngẹo đầu về phía sau, há miệng mở lớn chẳng ra thể thống gì. Anh có thể nhìn thấy hàm răng chệch choạc dơ bẩn của hắn ta.

Yoshisaburo mệt đến nỗi không thể đứng hay ngồi được nữa. Anh cảm thấy các khớp xương mình như nhiễm độc. Anh muốn ném bỏ tất cả rồi cứ thế mà lăn mình đến chỗ kia. Thôi, đủ rồi đấy. Không biết anh đã dặn mình bao nhiêu lần. Thế nhưng anh vẫn cặm cụi làm theo thói quen.

.Lưỡi dao chợt vướng phải thứ gì đó. Cổ họng của gã kia giật lên một cái. Yosashiburo cảm thấy có thứ gì chạy dọc thân mình từ đầu đến tận ngón chân. Cái thứ đó đã lấy đi hết những mệt mỏi rã rời trong anh.

Vết cắt rất nhỏ. Anh chỉ đứng đó nhìn trân trối. Cái vết xước đó đầu tiên nhìn có màu trắng sữa rồi loang màu đỏ nhạt và máu lập tức ứa ra. Anh vẫn nhìn trân trối. Máu sẫm đen lại rồi tụ thành giọt nhỏ. Khi giọt đó tụ đến đỉnh điểm thì vỡ ra và chảy xuống thành vệt. Lúc đó trong anh trào lên một cảm giác vô cùng kích động.

Cho đến giờ Yoshisaburo chưa từng làm xước khuôn mặt của một vị khách nào. Cái cảm giác đó áp đảo anh với sự mạnh mẽ phi thường. Anh thở gấp. Như thể toàn thân thể và tâm trí anh bị hút vào vết thương kia. Bây giờ thì không làm gì được nữa rồi. Anh cầm lại lưỡi dao rồi ấn sâu vào cuống họng. Đến khi lưỡi dao gần như biến mất hoàn toàn. Gã thanh kia còn không hề cử động.

Một khoảnh khắc sau, máu phun ra thành vòi. Ngay lập tức, khuôn mặt gã thanh niên kia chuyển sang màu đất.

Yoshisaburo thả mình xuống chiếc ghế bên cạnh như thể thất thần ngất xỉu. Tất cả sự căng thẳng giãn ra, đồng thời cơn mệt mỏi cực độ quay trở lại. Đôi mắt khép mệt mỏi và cơn mệt rã rời khiến anh nhìn như một xác chết. Đêm cũng yên tĩnh như xác chết vậy. Tất cả mọi sự vận động đều dừng lại. Tất cả vạn vật chìm vào giấc ngủ sâu. Chỉ có tấm gương từ ba phía lạnh lùng chứng kiến quang cảnh đó.

Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ

(Bài viết do dịch giả cung cấp độc quyền cho breadandrose.com )