LÂU LAN
Inoue Yasushi
(Phan Thu Vân dịch từ bản tiếng Trung)[1]
1.
Thời xa xưa, có một nước nhỏ ở Tây vực gọi là Lâu Lan. Cái tên Lâu Lan xuất hiện trên sách sử phương Đông cổ đại vào khoảng những năm một trăm ba mươi đến một trăm hai mươi trước công nguyên, nhưng cái tên của nó biến mất khỏi sách sử khoảng năm thứ bảy mươi bảy trước công nguyên. Nghĩa là, trong lịch sử, sự tồn tại của quốc gia Lâu Lan này tính ra chỉ năm mươi năm, mà khoảng cách đến nay cũng đã hai ngàn năm rồi.
Người giới thiệu Lâu Lan đến với thế nhân là nhà thám hiểm Trương Khiên. Vào thời Hán Vũ Đế, ông đi sứ Tây vực, sau được phong làm Bác Vọng Hầu. Ngày nay phần lớn khu vực Tây vực nằm trong khu tự trị Duy Ngô Nhĩ, Tân Cương, Trung Quốc, lúc bấy giờ là vùng sa mạc hoang vu phía bắc Trung Quốc. Cái nơi được gọi là Hồ địa – đất mà người Hồ tập trung sinh sống, thuộc vùng đất ngoại tộc, nơi trở thành hành lang giao lưu văn hóa Đông Tây, hình thành con đường tơ lụa, ấy là chuyện rất lâu về sau này.
Thời Hán Vũ Đế, còn chưa có ai dám bước vào vùng hoang mạc ấy. Mọi người không biết sa mạc rộng đến đâu, cũng không biết nơi đó có dân tộc nào đang sinh sống, hay có quốc gia nào.
Hán Vũ Đế phái Trương Khiên đi sứ Tây vực hoàn toàn không phải vì sự hiếu kỳ đối với một vùng đất chưa ai biết tới, mà vì vượt qua vùng hoang mạc xa lạ kia sẽ đến được một quốc gia lớn tên là Đại Nguyệt Chi. Hán Vũ Đế muốn liên minh với quốc gia này để chinh phạt Hung Nô – thế lực vẫn luôn ỷ vào sức mạnh của mình đến nỗi dám uy hiếp triều đình nhà Hán. Nhà Hán từ thời Hán Cao Tổ đến Hán Vũ Đế, trong suốt hơn năm mươi năm đã không ngừng hạ mình gả công chúa cho Hung Nô, tặng không biết bao nhiêu lễ vật của cải, lại cho phép thông thương, nhưng Hung Nô chưa từng nguôi dã tâm xâm lược.
Thời ấy, các đời thiên tử Hán triều đều bó tay trước sự xâm lấn cướp bóc của Hung Nô. Hung Nô là dân tộc du mục, hoành hành khắp từ Siberia đến khu vực Trung Á, tính tình ngang tàng hung bạo, hết lần này đến lần khác tìm cớ tràn xuống phía nam xâm phạm biên cương nhà Hán. Những năm mất mùa đói kém, không năm nào là không phải đối phó với Hung Nô. Có thể nói, nhà Hán bấy giờ vì chiến đấu với Hung Nô mà tổn thất không biết bao nhiêu binh mã, sức cùng lực kiệt. Hán Vũ Đế lần đầu thảo phạt Hung Nô, có một người Hồ trong đám tù binh nói: “Hung Nô đánh Nguyệt Chi, lấy sọ của vua Nguyệt Chi làm đồ đựng rượu, Nguyệt Chi hận Hung Nô thấu xương, nhưng không ai hợp lực cùng họ để đánh Hung Nô, không biết phải làm sao cho đặng.”
Nghe được lời này, Hán Vũ Đế muốn phái sứ giả tới Đại Nguyệt Chi, thương thảo việc cùng nhau thảo phạt Hung Nô. Vũ Đế chiêu mộ sứ giả tới Đại Nguyệt Chi, Trương Khiên bèn xung phong đứng ra nhận lãnh trách nhiệm. Năm 139 trước Công Nguyên, Trương Khiên dẫn đầu một toán hơn trăm người từng là nô lệ của Hung Nô từ quận Lũng Tây đi vào Hồ địa, lúc quay lại lãnh thổ nhà Hán đã là mười ba năm sau, hơn một trăm người từng cùng ông ra đi chỉ còn một người quay lại được cố hương. Trên đường đi, Trương Khiên bị Hung Nô bắt làm tù binh, sau hơn mười năm mới có cơ hội trốn thoát, vượt qua sa mạc, cuối cùng đến được Đại Nguyệt Chi, hoàn thành sứ mệnh. Song trên đường quay về nước, ông lại bị Hung Nô bắt, rồi ông nhân có nội loạn mà trốn được ra ngoài, cuối cùng về đến cố quốc.
Năm thứ năm Nguyên Sóc (năm 124 trước Công Nguyên), Trương Khiên vào đô thành Trường An, dâng tấu lên Vũ Đế tường trình những việc đã trải qua, kể về tình hình phong thổ, sản vật… của các nước Tây vực trên đường đi sứ.
Lúc bấy giờ Lâu Lan cùng với các quốc gia vùng sa mạc như Thả Mạt, Vu Điền, Sa Chê, Yên Kỳ, Luân Đài, Quy Từ, Sơ Lặc v.v… mới lần đầu tiên xuất hiện trên sách lịch sử Trung Quốc. Tây vực truyện trong sách Hán Thư lần đầu tiên mô tả về Tây vực: Tây vực vốn có ba mươi sáu nước, sau đó phân tách ra, lúc nhiều nhất có đến hơn năm mươi nước, đều nằm phía Tây của Hung Nô, phía Nam của Ô Tôn. Nam Bắc có Thiên sơn, Côn Lôn sơn che chắn, giữa có sông Tháp Lý Mộc (sông Tamir) chảy qua, từ Đông sang Tây khoảng hơn sáu ngàn dặm, từ Nam đến Bắc hơn ngàn dặm, phía Đông giáp Ngọc Môn quan, Dương quan thông với phần đất của nhà Hán, phía Tây tới cao nguyên Pamir.
Tóm lại, xung quanh Tây vực là Thiên sơn, Côn Lôn sơn, cao nguyên Pamir, giữa hình thành sa mạc Taklamakan. Xung quanh sa mạc rải rác vài quốc gia nhỏ, các dân tộc không cùng màu da, tiếng nói, ngôn ngữ… sống đan xen với nhau. Trước thời Vũ Đế, Tây vực và Trung Nguyên cũng có liên hệ, nhưng đều là người dân tự đi lại với nhau, còn sự giao lưu giữa các quốc gia thì bắt đầu từ thời Vũ Đế.
Vừa ra khỏi Ngọc Môn quan, Dương quan là đến sa mạc mênh mông. Giữa sa mạc có hồ La Bố. Đương thời, người Hán gọi đó là biển Bồ Xương hoặc đầm muối. Bấy giờ hồ La Bố lớn hơn ngày nay gấp mấy lần, gọi nó là “biển” thì thích hợp hơn “hồ”, hàm lượng muối trong nước rất cao, sóng hồ rất mạnh. Hồ La Bố cách Ngọc Môn quan, Dương quan khoảng hơn ba trăm dặm. Dòng sông Tháp Lý Mộc lớn nhất giữa sa mạc Taklamakan đổ vào đây.
Quốc gia nằm bên bờ tây bắc của hồ La Bố, gần với Hán nhất chính là Lâu Lan. Đường từ Hán đến Tây vực qua Lâu Lan chia làm hai ngả: một ngả hướng nam, men theo triền núi phía bắc Côn Lôn sơn đi dần về phía tây; một ngả hướng bắc, men theo triền núi phía nam rặng Thiên sơn đi về phía tây. Từ Lâu Lan về phía nam có các quốc gia như Thả Mạt, Vu Điền, Sa Chê, Sơ Lặc, v.v… Từ Nguyệt Chi về phía bắc đi qua các nước Cô Sư, Yên Kỳ, Luân Đài, Quy Từ… có thể đến Ô Tôn, Đại Uyển, v.v… Cho nên, dù chọn con đường hướng nam hay hướng bắc, Lâu Lan đều là nơi bắt buộc phải qua trên hành trình từ Trung Nguyên đến các quốc gia Tây vực.
Trong Tây vực truyện, sách Hán thư, có đoạn viết về nước Thiện Thiện, chính là Lâu Lan về sau này: “Hộ thiên ngũ bách thất thập, khẩu vạn tứ thiên nhất bách, thắng binh nhị thiên cửu bách thập nhị giáp.” (nghĩa là “Một ngàn năm trăm bảy mươi hộ, một vạn bốn ngàn một trăm người, hai ngàn chín trăm hai mươi binh sĩ.”)
Theo đó có thể tưởng tượng ra phần nào quy mô của Lâu Lan – một nước nhỏ khoảng hơn một vạn bốn ngàn dân ven bờ tây bắc hồ La Bố. Người Lâu Lan thuộc nhánh người Iran của chủng Yalian, da ngăm đen, mắt sâu, mũi cao, đường nét trên gương mặt rất rõ ràng, góc cạnh, sống nhờ vào việc canh tác, du mục và bắt cá, làm muối từ hồ La Bố.
Trước khi Trương Khiên giới thiệu Lâu Lan đến với người đời (Hán), thì dân tộc này đã ở đó khoảng vài trăm năm. Trước khi thiết lập mối bang giao với nhà Hán, Lâu Lan luôn bị Hung Nô uy hiếp, thường xuyên chịu cảnh bị cướp bóc, chỉ có thể thần phục Hung Nô. Bên bờ hồ La Bố tươi đẹp, người Lâu Lan nương tựa vào nhau, nhờ vậy mà dân tộc nhỏ bé với chỉ hơn mười bốn ngàn người này mới có thể sinh tồn. Tuy sức lực mỏng manh của họ không thể phản kháng lại Hung Nô, nhưng chỉ cần cầm lấy binh khí, người Lâu Lan ai cũng dũng mãnh thiện chiến. Kỹ thuật cưỡi ngựa điêu luyện, bản lĩnh vừa cưỡi ngựa vừa bắn cung của họ đủ khiến cho các dân tộc khác phải kiêng dè.
Vũ Đế phái Trương Khiên đến vùng đất xa xôi này để mưu cầu việc liên kết tác chiến chống Hung Nô, nhưng nước nắm vai trò then chốt là Đại Nguyệt Chi lại tỏ thái độ ỡm ờ. Như vậy, Vũ Đế chưa nhận được kết quả mong đợi về sự hợp tác ngoại giao quân sự, nhưng lại thu hoạch lớn lao ngoài dự kiến, đó là nhận thức mới mẻ về các nước Tây vực.
Trong chiến lược đối phó với Hung Nô, các nước Tây vực đều có ý nghĩa và giá trị vô cùng to lớn. Nếu chi phối được Tây vực, có thể tạo thế uy hiếp từ nhiều cánh đối với Hung Nô, cũng có thể mượn binh lực của các nước để đánh Hung Nô. Ngoài ra, các nước nhỏ giữa sa mạc này đều sản xuất đồ kỳ trân dị bảo, như ngọc thạch, hổ phách, vàng, bạc, đồng, muối, hồ tiêu, rượu nho, lại còn có cả ngựa, trâu, voi, khổng tước, hà mã, sư tử, v.v… Sản vật phong phú, ngũ cốc dồi dào. Nếu mở rộng giao dịch buôn bán với họ, ít nhiều có thể bù đắp cho ngân khố trống rỗng sau những cuộc chiến với Hung Nô. Đối với Vũ Đế lúc nào cũng lo lắng về việc thiếu ngựa, thì những con tuấn mã của Đại Uyển lại càng có sức hấp dẫn đặc biệt.
Vũ Đế còn biết thêm tên của vài nước lớn xa xôi hơn cả các nước Tây vực, tuy không rõ Khang Cư, An Tức, Thân Độc (Ấn Độ) rốt cuộc ở vị trí nào, nhưng dường như các nước này đều rộng lớn giàu mạnh. Vũ Đế đặc biệt hứng thú với Thân Độc, một nước nóng như thiêu như đốt cách Đại Hạ hàng ngàn dặm về phía đông nam. Nghe đâu đường đến Thân Độc không bị Hung Nô quấy nhiễu, hơn nữa Thân Độc cũng mong muốn trao đổi buôn bán sản vật với nhà Hán. Đất nước này tạo được một ấn tượng sâu sắc trong lòng Vũ Đế.
Năm 122 trước Công nguyên, Trương Khiên phụng mệnh Vũ Đế đi sứ Tây vực lần thứ hai. Sứ mệnh lần này là đến Thân Độc cầu mối thông giao, nhưng giữa đường bị man tộc tây nam gây trở ngại, đành tay trắng trở về.
Năm tiếp theo, Trương Khiên đi sứ Tây vực lần thứ ba. Lần này, quân nhà Hán đã đánh lui Hung Nô, khống chế được vùng Đôn Hoàng vốn thuộc phạm vi thế lực của Hung Nô trước đây, đảm bảo cho con đường thông với Tây vực được rộng mở. Để không mất thời cơ thiết lập mối quan hệ hữu hảo với các nước Tây vực, Vũ Đế một lần nữa phái Trương Khiên tiến vào đất Hồ. Đó là năm 121 trước Công nguyên.
Người Lâu Lan lần đầu tiên nhìn thấy quân nhà Hán là vào lần thứ ba Trương Khiên đi sứ Tây vực. Ngày hôm đó, giữa những bức tường thành vây quanh nước Lâu Lan ven hồ La Bố, tin người Hán xâm phạm lãnh thổ truyền tới, trong chốc lát khiến trên dưới đều hỗn loạn. Ngoài thành, hàng ngàn con ngựa và lạc đà đều bị đuổi vào thành. Cánh cửa thành bảy cánh bị đóng chặt, tất cả đàn ông đều giáp trụ khí giới sẵn sàng, dàn trận ở những góc hiểm yếu trong thành.
Đứng trên thành lâu, mặt hồ La Bố phẳng lặng tựa một tấm lụa màu xanh lam. Nước hồ chứa nhiều thành phần muối, chỉ một cơn gió nhẹ thổi qua cũng khiến mặt hồ gợn sóng. Ngày hôm đó bình lặng quá, khiến người ta hoang mang không yên. Mặt hồ gần bờ có màu xanh lục trong như ngọc, phía xa xa loang dần ra thành màu lam thẫm. Từ trên bờ tường thành nhìn ra, phía bờ bắc của hồ có rừng cây trải dài vô tận tạo thành những đường uốn lượn mềm mại phía chân trời, với những hàng bạch dương điểm xuyết sanh liễu và các đám cây bụi lúp xúp, giống như một tấm lụa do tạo hóa dệt thành, với những sắc màu xen lẫn vào nhau một cách tự nhiên. Bờ nam của hồ mọc đầy lau sậy, che khuất cả bờ hồ, nếu không đến gần thì không thể nhìn thấy được mấy nhánh sông chảy đổ vào hồ.
Xung quanh thành quách có rất nhiều kênh đào, trên mặt đất phía ngoài rừng ở bờ bắc hồ, các kênh đào dệt thành hình lưới nhện, giăng mắc vào nhau uốn lượn suốt mấy dặm liền, giữa các kênh đào là khoảnh đất canh tác rộng lớn. Kênh do người đào, nhưng đa phần lợi dụng những dòng chảy của sông ngòi kênh rạch đã cạn khô từ xa xưa để dẫn nước sông Tháp Lý Mộc cách thành một dặm vào trong vùng canh tác. Quả thực, Lâu Lan tuy là quốc gia trên sa mạc, nhưng lại thuộc khu vực tam giác phì nhiêu được tạo nên bởi hồ La Bố và sông Tháp Lý Mộc.
Từ sông Tháp Lý Mộc về phương bắc có một con đường. Trên tường thành nhìn ra, phần lớn dòng sông bị khuất sau rừng cây ở hai bờ, chỉ lộ ra một chút màu lam thẫm. Mấy năm trước, sông này đổi dòng chảy ở một khúc nào đó, hai bên dòng sông mới không có rừng cây, gió thổi nắng thiêu, con đường song song với bờ sông cũng lộ ra dưới ánh nắng mặt trời.
Người Lâu Lan đứng trên tường thành nhìn dải đường phía xa xa, nơi những con người bé bằng hạt đậu nối nhau thành một hàng dài từ trong rừng bước ra, rồi sau đó rất lâu mới xuyên lại vào rừng cây. Ba người có nhãn lực tốt nhất phóng mắt quan sát, đếm số lượng người trong hàng ngũ vừa xuất hiện, mỗi người tiếp nhau lớn tiếng thông báo số lượng vừa đếm được. Từ tường thành lần lượt truyền đi thanh âm báo về tình hình quân Hán.
Có một ông già gầy guộc đã bảy mươi tám tuổi biệt hiệu “Lâu Lan thiên lý nhãn”. Ông nhìn rõ đội quân có ba trăm người, sáu trăm con ngựa, với số cừu và bò lên đến hàng vạn. Khi ông thấy một nửa số ngựa thồ các rương hành lý, vẻ mặt căng thẳng của ông dần giãn ra. Ông biết đoàn quân Hán không phải đến đây để gây chiến.
Không khí trong thành phút chốc thay đổi. Dầu vậy, không ai dám khinh suất. Hai ngày sau, trạng thái thời chiến trong thành mới được giải tỏa, mọi người đem tài sản từ trong hầm lên, lại thả lạc đà và ngựa ra phía ngoài thành. Mấy ngày sau đó, người Lâu Lan đều bàn tán suốt, vì sao đại quân nhà Hán vào Tây vực lại không phái sứ giả đến Lâu Lan mà đi thẳng một mạch về phía tây.
Nửa năm sau, người Lâu Lan mới nghe nói, quân Hán từ Lâu Lan đã đi theo con đường phía bắc, đến phía bắc sa mạc Taklamakan, thiết lập quan hệ hữu hảo với các nước thế lực hùng mạnh nhất ở phương bắc như Ô Tôn, sau đó toán quân phân thành nhiều ngả, tới Đại Uyển, Khang Cư, Đại Nguyệt Chi, Đại Hạ, An Tức, Thân Độc, Vu Điền, Phủ Di v.v… Hiển nhiên, quân Hán có ý né tránh Lâu Lan là nước nằm trong phạm vi thế lực của Hung Nô, cũng như né tránh luôn cả Cô Sư, cũng nằm tại cửa vào Tây vực như Lâu Lan, và cũng lệ thuộc Hung Nô.
Sau đó bắt đầu từ năm thứ hai, người Lâu Lan phát hiện các toán quân lớn nhỏ của nhà Hán hầu như mỗi tháng đều đi sang phía tây hoặc tiến về phía đông. Không chỉ quân Hán, còn cả mấy mươi người Ô Tôn dắt vài chục ngựa và lạc đà men theo dòng sông Tháp Lý Mộc để tiến vào đất Hán. Đại Hạ cũng có một nhóm nhỏ dắt ngựa và lạc đà, mỗi ngày hoặc cách ngày đều đi về phía đông. Tuy chẳng liên quan gì đến họ, nhưng người Lâu Lan thấy rất rõ mối quan hệ giữa Hán và các nước Tây vực đang ngày càng trở nên khắng khít.
Có lúc, để ra khỏi thành quan sát những kẻ lữ hành này với khoảng cách gần hơn, người Lâu Lan vượt qua đồng ruộng mênh mông, đến bên bờ sông Tháp Lý Mộc. Đây là việc chưa từng xảy ra từ lúc họ đến cư trú tại nơi này.
Người Lâu Lan nghe việc nhà Hán đánh bại Hung Nô, Hỗn Tà Vương của Hung Nô đã bị hàng phục. Họ tin rằng đây là việc không còn gì để bàn, và cho rằng Hung Nô từ đây sẽ không hung hăng xâm lấn nữa. Nghe những người lữ hành nói, Hán đã lập quận huyện ở căn cứ địa của Hung Nô trước đây như Tửu Tuyền, Đôn Hoàng; Vạn lý trường thành đã được tu sửa đến tận Tửu Tuyền; Ngọc Môn quan, Dương quan về phía tây của Đôn Hoàng đều đã dựng phong hỏa đài và trạm gác; hành lang kết nối giữa nhà Hán và Tây vực đã được tu sửa xong xuôi.
Việc chưa từng có trong lịch sử đã xảy ra: người Lâu Lan trong hai năm liền thoát được nạn cướp bóc của Hung Nô.
Người Lâu Lan lần đầu tiên tiếp đón sứ thần nhà Hán là vào năm thứ ba sau năm đầu tiên nhìn thấy quân Hán. Sứ giả lệnh cho nước Lâu Lan phải phái người tiếp tế lương thực và nước cho người Hán trong sa mạc sau khi qua khỏi Ngọc Môn quan và Dương quan để vào Tây vực. Cô Sư cũng nhận được mệnh lệnh tương tự.
Vì vậy, Lâu Lan gần như ngày nào cũng phải phái nhân lực đi vào sa mạc. Họ gánh trên vai rất nhiều lương thực và nước để nghênh tiếp người Hán, khổ không kể đâu cho hết. Người Lâu Lan bao năm qua đã nếm đủ mùi bị Hung Nô chèn ép bắt nạt, nay đến nhà Hán dựa vào uy lực nước lớn để ra lệnh sai bảo người Lâu Lan, khiến họ khó mà chịu đựng nổi.
Sau đó khoảng một tháng, đêm nọ, người Lâu Lan bị tiếng vó ngựa Hung Nô đã lâu không nghe thấy làm cho tỉnh giấc. Mười mấy kỵ binh Hung Nô xông thẳng vào cổng thành, hung hãn ngang dọc trong hành, báo cho người Lâu Lan biết rằng Hung Nô vẫn đang tồn tại. Trên mũi giáo dài của binh sĩ Hung Nô ngồi trên mình ngựa treo thủ cấp của quân Hán bị họ giết chết. Chiếc đầu còn đang nhỏ máu, ánh lên màu biêng biếc dưới ánh trăng.
Ngày hôm sau, các thanh niên Lâu Lan được phái vào sa mạc như thường lệ đã giết chết ba người Hán, cướp đồ đạc mà họ mang theo, chập tối mới về đến thành. Toàn thành đón họ trở về trong tiếng hoan hô vang dội. Người Lâu Lan cho rằng, dù sao cũng phải thần phục một phía, so với việc thần phục nhà Hán mà họ chẳng hiểu rõ ngọn ngành, chi bằng quy thuận Hung Nô vốn đã có quan hệ mật thiết nhiều năm.
Ngày tiếp theo lại có người Hán bị giết trong sa mạc, sau đó người Lâu Lan không còn vào sa mạc để cung cấp lương thực và nước cho người Hán nữa. Không lâu sau, một cánh quân Hung Nô tới đóng tại hai nước Cô Sư và Lâu Lan. Người Lâu Lan cũng vì vậy mà hết lần này đến lần khác tập kích người Hán.
Đầu mùa đông năm 108 trước Công nguyên, quân Hán lần đầu tiên mở cuộc chiến ác liệt giữa vùng sa mạc với quân đội Hung Nô xâm phạm Ngọc Môn quan và Dương quan. Tướng nhà Hán là Triệu Phá Nô soái lĩnh mấy vạn đại quân tiến vào Tây vực. Quân Hung Nô thua to, chạy về phía bắc. Quân Hán thừa thắng xông lên, chém giết đến tận ven bờ hồ La Bố, chuẩn bị tấn công Cô Sư và Lâu Lan.
Lâu Lan trong chớp mắt bị quân Hán bao vây. Quân Hán tấn công bất thình lình, Lâu Lan hoàn toàn không kịp trở tay. Tướng nhà Hán là Vương Khôi dẫn đầu bảy trăm thân binh tiến vào cổng thành, người Lâu Lan đành xin hàng. Quân Hán xông vào cung điện giữa thành, quốc vương bó tay chịu trói.
Vua Lâu Lan bị giải tới doanh trại của Triệu Phá Nô, bị bắt thề quy thuận triều đình nhà Hán, ngay trong đêm đó phải giao nộp thái tử cho quân Hán để làm con tin.
Sau khi quân Hán thu phục Lâu Lan, bèn tấn công tiếp đến Cô Sư, trấn áp Ô Tôn, Đại Uyển. Mùa xuân năm tiếp theo, quân Hán rút lui.
Quân Hán vừa rời Tây vực, Hung Nô nhân cơ hội lại hung hăng nổi dậy. Vua Lâu Lan cũng giống như lúc quy thuận nhà Hán trước đây, bị buộc phải thề trung thành với Hung Nô, đưa thái tử đi làm con tin.
Sau lần động binh đầu tiên với các nước Tây vực, Vũ Đế bắt đầu chính sách dùng vũ lực để đối phó. Đại Uyển cự tuyệt yêu cầu của Đại Hán lấy ngàn vàng đổi tuấn mã, chém sứ giả. Vũ Đế nổi giận, khởi binh thảo phạt Đại Uyển. Năm thứ hai Thái Sơ (năm 103 trước Công nguyên), Lý Quảng Lợi dẫn sáu ngàn kỵ binh và vài vạn sĩ tốt vào Tây vực đánh Đại Uyển. Do lúc bấy giờ các nước Tây vực từ chối cung cấp lương thực cho quân Hán, nên khi đội quân viễn chinh đến được Đại Uyển, đa phần binh sĩ đã vô cùng mệt mỏi đói khát. Quân Hán thua trận. Lý Quảng Lợi dẫn tàn binh quay lại Ngọc Môn quan. Vũ Đế nghe nói Lý Quảng Lợi chiến bại, vô cùng giận dữ, ra sắc lệnh “trong quân có ai dám vào cửa ải thì chém”, không cho quân bại trận quay về. Lý Quảng Lợi vì vậy mà phải ở lại Đôn Hoàng.
Năm tiếp theo, Lý Quảng Lợi lại dẫn sáu vạn quân ra khỏi Đôn Hoàng, lần này đem theo mười vạn con trâu, ba vạn con ngựa, còn vài vạn lừa và lạc đà; vũ khí lương thực đều trang bị đầy đủ.
Đại quân của Lý Quảng Lợi vừa qua bờ hồ La Bố, Lâu Lan đã nhận lệnh của Hung Nô xuất binh quấy nhiễu phía đằng sau. Quân Hán lập tức phát giác, cánh quân trấn thủ Ngọc Môn quan liền bao vây Lâu Lan. Bấy giờ tuy có kỵ binh Hung Nô chi viện, nhưng Lâu Lan vẫn không thể giải vây. Vua Lâu Lan một lần nữa bị quân Hán bắt làm tù binh.
Quân viễn chinh đánh phạt Đại Uyển báo tin thắng trận, vua Lâu Lan bị dẫn về kinh đô Trường An của nhà Hán. Quân viễn chinh bao vây, thu phục Đại Uyển, lấy đi mấy chục con ngựa tốt và hơn ba ngàn ngựa bậc trung của Đại Uyển.
Vua Lâu Lan khi bị thẩm vấn đã nói: “Lâu Lan là nước nhỏ kẹp giữa hai nước lớn Hán và Hung Nô, đắc tội với bên nào cũng đều khó mà sống nổi, bách tính khốn khổ lầm than. Hán muốn thống trị Lâu Lan thì chỉ có một cách, xin cho phép toàn bộ dân Lâu Lan chuyển vào cư trú trên đất Hán.”
Vũ Đế nghe xong, không nỡ giết, bèn đưa vua Lâu Lan trở về lại Lâu Lan.
Thu phục Đại Uyển xong, Hán cho xây dựng và tu sửa vọng lâu tại những điểm trọng yếu trên sa mạc gần hồ La Bố và Ngọc Môn quan, bảo đảm cho con đường từ Hán đến Tây vực được thông suốt; ngoài ra, còn đặt các đồn vài trăm binh sĩ tại Luân Đài và ven bờ sông Tháp Lý Mộc. Từ đó về sau, Lâu Lan dù muốn dù không, cũng phải chịu sự quản lý của nhà Hán. Năm Chinh Hòa thứ tư (năm 89 trước Công nguyên), Hán đánh Cô Sư, Lâu Lan nhận lệnh nhà Hán xuất binh tham chiến, giao tranh cùng quân Hung Nô chi viện cho Cô Sư, kết quả thương vong không biết bao nhiêu mà kể.
Lâu Lan bị kẹp giữa Hán và Hung Nô, vua Lâu Lan vì thế đêm ngày lo nghĩ không yên, lâu dần thành bệnh mà qua đời, ngôi vị không người thừa kế. Hai con trai của vua, một người làm con tin ở Hung Nô, một người làm con tin cho nhà Hán. Người con trưởng làm con tin trên đất Hán phạm hình luật, bị khép vào tử tội, còn người con thứ đưa đi Hung Nô thì bặt vô âm tín. Người Lâu Lan chẳng có cách nào khác, chọn ra một vị thân vương kế thừa ngôi báu. Tuy nhiên, vua mới vừa kế vị, Hán và Hung Nô lại đòi con tin. Vua mới đành phải đưa con trưởng An Quy đến Hung Nô, con thứ Úy Đồ Kỳ vào Hán.
Hán Vũ Đế vốn rất tích cực trong việc quản lý cai trị Tây vực, song đến khi về già, mệt mỏi vì tình hình ngân khố quẫn bách, lòng người rời rạc, cùng chiến sự liên miên, đã dần mất đi nhiệt tình từng có. Hung Nô lại nghênh ngang ra vào các nước Tây vực, thế lực càng lúc càng lớn mạnh. Các quốc gia từng một thời thần phục nhà Hán dần quay lưng. Lâu Lan cũng thuận thế theo thời mà xa Hán, thân Hung Nô.
Vua mới của Lâu Lan cũng vì việc bị kẹp giữa hai nước lớn mà tâm lực đều hư tổn, kế vị được vài năm cũng lìa đời. Hung Nô đưa người con trưởng An Quy đang làm con tin tại Hung Nô về Lâu Lan kế vị. An Quy lúc ấy hai mươi tám tuổi, sau khi kế vị thì theo chính sách thân Hung Nô phản Hán. Vị vua trẻ biết rõ cha mình và quốc vương trước đó đã khổ sở như thế nào khi phải đứng giữa hai nước lớn, mà bản thân vua lại sống trên đất Hung Nô nhiều năm khiến vua dễ gần với Hung Nô hơn, ở Hung Nô cũng còn rất nhiều bằng hữu.
Chính sách thân Hung Nô phản Hán của vị vua trẻ nước Lâu Lan rất nhanh được thể hiện ra bằng hành động cụ thể. Kế vị không lâu, Hán phái sứ giả khuyên tân vương vào triều bái kiến thiên tử, An Quy từ chối. Không chỉ vậy, là thành viên trong chiến lược liên minh của Hung Nô, An Quy còn gây trở ngại cho giao lưu giữa Hán và các nước Tây vực. Sứ giả nhà Hán đi sứ Tây vực và sứ giả các nước Tây vực đến Hán triều kiến, lúc đi qua địa phận gần hồ La Bố thường hết lần này đến lần khác bị người Lâu Lan tập kích.
Mấy năm sau khi An Quy kế vị, quân đội Hung Nô nghiễm nhiên ra vào thành Lâu Lan. Trong ngoài cổng thành lúc nào cũng có thể thấy hàng bầy ngựa trắng của Hung Nô. Đây cũng là thời điểm Hán Vũ Đế mất, Chiêu Đế kế vị.
Trong các quốc gia Tây vực, ngoài Lâu Lan công khai quy thuận Hung Nô còn có Quy Từ. Quy Từ thuộc đất tranh chấp giữa Hán và Hung Nô, cũng là quốc gia kẹp giữa hai nước lớn như Cô Sư và Lâu Lan. Thời điểm ấy, hai quốc gia nhỏ đối diện nhau qua sa mạc cuối cùng cũng đã từ bỏ chính sách làm hài lòng cả hai nước lớn, quyết tâm quy thuận Hung Nô để giữ nước, yên dân.
Thế nhưng, thái độ này của Lâu Lan và Quy Từ không sớm thì muộn cũng bị nhà Hán trả đũa. Vua An Quy biết điều này, chỉ là cái ngày ấy đến sớm hơn vua dự đoán.
Mùa thu năm 77 trước Công nguyên, Lâu Lan tiếp rước sứ thần Phó Giới Tử của nhà Hán. Đây là lần thứ hai Phó Giới Tử đi sứ Lâu Lan, lần trước là để khiển trách thái độ thân Hung Nô của Lâu Lan. An Quy ngoài mặt nhận tội, nhưng Phó Giới Tử đi rồi, chính sách quốc gia của Lâu Lan vẫn không hề có chút gì thay đổi. Lần này sứ thần vẫn là Phó Giới Tử, An Quy khó tránh cảm giác nặng nề. Quân đội Hung Nô ngày thường vẫn đóng ở gần đó vừa khéo lại mới giải tán. An Quy tuy rất không sẵn lòng, nhưng lại chẳng thể không chiêu đãi sứ thần nhà Hán trong cung điện.
An Quy bày tiệc nơi đại sảnh, Phó Giới Tử mang theo hai tùy tùng đến dự. Hoàng tộc và các trọng thần của Lâu Lan đều ngồi quanh sứ thần nhà Hán.
Tiệc rượu đến quá nửa, Phó Giới Tử bảo có lời muốn thưa riêng cùng vua An Quy. An Quy muốn nghe, bèn ngả người về phía Phó Giới Tử. Hai thanh niên người Hán ngồi phía góc phải của An Quy trong nháy mắt rút dao đâm vào lưng vua. Tất cả người ngồi quanh đều kinh hãi. Phó Giới Tử bật dậy, trợn mắt, hét to lên một tiếng. Chỉ thấy mắt sứ thần trông như Kim Cang hộ pháp, sát khí đằng đằng, giọng như sấm dậy: “Vương phản Hán bị thiên tử diệt, lập Úy Đồ Kỳ đang làm con tin nhiều năm tại Hán làm tân vương, theo quân Hán trở lại Lâu Lan. Các ngươi chớ phản loạn mà mất nước!”
Nhân lúc mọi người xung quanh đang hoảng hốt, Phó Giới Tử nhào tới rút đao chặt đầu An Quy.
2.
Sứ giả thông báo cho Úy Đồ Kỳ đang làm con tin tại Trường An sự việc hoàng huynh của chàng đã chết, lệnh cho chàng lập tức về nước nhận ngôi vua Lâu Lan.
Úy Đồ Kỳ dâng tấu thỉnh cầu lưu lại Trường An vài ngày rồi mới rời đi: “Tôi nay về Lâu Lan, tất lập tức sẽ bị Hung Nô giết chết. Phía nam Lâu Lan có thành Y Tuần đất đai màu mỡ, cây cối tốt tươi, khẩn thỉnh phái quân Hán đồn trú tại nơi đó. Uy thế của quân Hán có thể khiến Lâu Lan thoát khỏi gông cùng kìm kẹp của Hung Nô. Nếu không được như vậy, tôi không đủ lòng tin có thể cai trị Lâu Lan.”
Không lâu sau, triều đình chuẩn tấu, phái một quan Tư mã và bốn mươi binh sĩ đến Y Tuần đồn trú.
Hai tháng sau khi vua Lâu Lan là An Quy bị Phó Giới Tử hành thích, Úy Đồ Kỳ được quân Hán hộ tống rời khỏi Trường An, qua Tửu Tuyền, Ngọc Môn quan, qua sa mạc Bạch Long Đôi[2] “trên không có chim bay, dưới không có thú chạy”, từ xa xa nhìn ra đã thấy được những cánh rừng ven bờ hồ La Bố sau nhiều năm ly biệt.
Được biết Úy Đồ Kỳ quay về, người Lâu Lan tụ tập tại cửa thành, nhìn tân vương một cách lạnh lùng nghi ngại. Lúc Úy Đồ Kỳ đang vào cổng chính của thành, một đứa trẻ chưa đầy mười tuổi hét lên: “Không được bán đứng Hà Long!”
Hà Long là thần được người Lâu Lan sùng bái.
Úy Đồ Kỳ bước thêm vài bước, một bà già vừa giơ nắm đấm lên như muốn đánh tân vương, vừa hét: “Rời khỏi Lâu Lan là sẽ chết!”
Úy Đồ Kỳ không thể lý giải lời của đứa trẻ và bà già. Vương cung do quân Hán canh giữ gắt gao, những thành viên hoàng tộc quen thuộc tuy đều ra nghênh tiếp, nhưng thái độ với tân vương rất lạnh lùng xa cách.
Úy Đồ Kỳ diện kiến tướng Hán được lệnh lưu lại giữ Lâu Lan để phòng nội loạn và Hung Nô. Tướng nhà Hán nói: “Quân Hán sẽ đến Y Tuần rất nhanh thôi, xin tân vương nhanh chóng rời khỏi nơi này, đưa người Lâu Lan dời đến Y Tuần.”
Câu nói này như sét đánh giữa trời quang, khiến Úy Đồ Kỳ sửng sốt.
Nước Lâu Lan ven hồ La Bố không cách nào thoát khỏi sự ức hiếp của Hung Nô. Nếu muốn thoát khỏi vòng kìm kẹp của Hung Nô, quy thuận Hán triều, Lâu Lan tất phải dời về phía Nam, nếu không thì bao nhiêu quân binh Hán được phái đi cũng sẽ chẳng tác dụng gì. Đây là sự sắp đặt của triều đình nhà Hán dành cho Lâu Lan.
Úy Đồ Kỳ yêu cầu quân Hán đóng tại Y Tuần, nhưng chưa từng nghĩ đến việc toàn quốc phải thiên di. Đối với người Lâu Lan, hồ La Bố chính là thần, là tổ tiên, là gốc rễ của sự sống và cái chết. Người Lâu Lan không thể tưởng tượng nổi không có hồ La Bố, không có sông Tháp Lý Mộc rót vào hồ La Bố, không có đầm nước rừng cây ven hồ, không có gió vờn nắng chiếu trong những đám cỏ lau, nước Lâu Lan và người Lâu Lan rồi sẽ ra sao.
Úy Đồ Kỳ ban bố mệnh lệnh đầu tiên sau khi trở thành vua, triệu tập thành viên hoàng tộc từ mười tuổi trở lên và tất cả trọng thần nguyên lão, giải thích rõ với họ sự việc khẩn cấp mà nước Lâu Lan phải đối mặt. Nhưng mọi người đã biết tin từ tướng nhà Hán, và tưởng rằng đây là âm mưu mà Úy Đồ Kỳ cùng người Hán lập ra. Úy Đồ Kỳ giải thích mãi mới giải trừ được những hiểu lầm và thù hận trong lòng mọi người.
Thành viên hoàng tộc, các trọng thần và nguyên lão mỗi ngày đều tranh luận không ngừng. Chẳng ai tán thành việc dời cả quốc gia khỏi ven bờ hồ La Bố, nhưng hiện giờ, đây là mệnh lệnh không cho phép kháng cự. Trước mắt chỉ có hai con đường: hoặc mạo hiểm tính mệnh của quốc gia để phản kháng, hoặc tạm thời khuất phục, chọn địa điểm gần Y Tuần để lập một thành đô tạm thời.
Cuối cùng mọi người quyết định: tạm thời khuất phục Hán, từ bỏ thành ấp Lâu Lan, đi về phía nam kiến lập quốc gia mới, cố gắng làm cho dân giàu nước mạnh dưới sự bảo hộ của nhà Hán, rồi dần tìm cơ hội quay trở lại ven hồ La Bố.
Một tháng cuối cùng, thành Lâu Lan đêm đêm đèn đuốc sáng trưng, bàn tế lễ bày ra khắp nơi, mọi người đều chộn rộn không sao ngủ được, nam phụ lão ấu đi lại khắp trên những nẻo đường thắp đuốc sáng rực rỡ.
Sau đó, Lâu Lan chọn địa điểm mới cho quốc đô, là một khoảng bình nguyên cách thành Y Tuần không xa, ven bờ nam của một hồ nhỏ hơn hồ La Bố rất nhiều. Địa điểm của thành đô mới quyết định việc sau này mọi người không hẹn mà đều gọi nó là “Thiện Thiện”, trong ngôn ngữ của họ nghĩa là “dòng nước mới”. Họ không mảy may có ý giữ tên nơi mới này là “Lâu Lan”. Rời khỏi hồ La Bố thì không còn Lâu Lan, cũng không còn người Lâu Lan nữa.
Đô thành Thiện Thiện và lịch dời nước đã định xong, người Lâu Lan bận rộn suốt hơn hai mươi ngày. Họ chưa từng nghĩ đến, đồng thời cũng không muốn tin rằng vĩnh viễn phải từ bỏ vùng đất dày công tạo dựng suốt bao năm qua. Điều thay đổi có thể chấp nhận được là: giờ đây họ không dựa vào Hung Nô nữa mà chuyển sang sống dưới sự bảo hộ của nhà Hán, giống như bao lần thế cuộc đổi dời trước đây. Họ tin tưởng rằng trước khi Hung Nô hoàn toàn bị Hán đánh đuổi khỏi Tây vực, việc tránh Hung Nô mà di dời về phía nam có thể giúp họ sống yên ổn dưới sự bảo hộ của Hán.
Người Lâu Lan trốn khỏi tầm quan sát của binh lính Hán đang giữ thành, tìm kiếm khắp nơi ven hồ La Bố một chỗ để giấu tài sản. Có người thậm chí còn chạy ra ngoài đến vài dặm. Trong số tài sản có ngọc Vu Điền tìm được vào đêm trăng sáng, có ngọc quý vớt dưới đáy sông lúc dòng Tháp Lý Mộc cạn khô, có ngọc bội, có túi đeo được dệt thủ công, có tơ lụa mềm mại lấp lánh, có giày vải được làm một cách tinh xảo, còn có cả sừng động vật quý hiếm và các đồ mỹ nghệ được làm từ sừng. Người Lâu Lan phải mang những thứ này cất giấu vào chỗ tuyệt đối không ai phát hiện ra, đợi khi quay về đô thành cũ sẽ tìm lại báu vật. Có người còn không ngại những tiếng kêu quái dị của loài chim được gọi là “bò yak của hồ” để tiến vào giữa rừng sâu, có người trèo lên cây cổ thụ đã chết khô bên hồ. Mọi người không kể ngày đêm tìm chỗ cất giấu của báu.
Sau khi tài sản đã được giấu kỹ, người Lâu Lan phân thành từng toán rời khỏi thành, đến ven hồ La Bố, bên các nhánh sông Tháp Lý Mộc, bên những đầm nước mọc đầy cỏ lau, những kênh đào khô cạn nhìn thấy tận đáy trắng xóa và những nơi liên quan đến nước để lập đàn tế, đốt lửa tế lễ trước thần bảo hộ Hà Long của họ.
Chính trong lúc người Lâu Lan sắp từ bỏ thành ấp ven hồ La Bố mà họ đã cư trú từ đời này sang đời khác, dời đến đô thành Thiện Thiện cách đó hơn tám trăm dặm, thì có hai sự việc xảy ra.
Sự việc thứ nhất là cái chết của một vương phi già. Bà góa bụa từ khi còn trẻ, người con trai duy nhất bị đưa đến Hung Nô làm con tin, thực là một phụ nữ bất hạnh. Mấy năm gần đây bà ốm liệt giường, rồi chết trong nhà đúng vào sáng sớm hôm nước Lâu Lan chuẩn bị dời đô. Vì bà là thành viên hoàng tộc, tang lễ phải được tổ chức long trọng, nên việc dời đô của Lâu Lan đành hoãn lại một ngày. Trên đầu vương phi già đội một chiếc mũ dải hồng mà thường ngày bà vẫn đội, người mặc áo liệm, bên trong lót vải đen.
Những người đưa tang lần lượt bước ra khỏi kinh thành đã sắp biến thành phế tích, khiêng quan tài lên núi, bỏ xuống mộ huyệt sâu hun hút, lấp đất phủ đầy, rồi mang vài phiến đá lớn đặt lên trên. Mọi người cứ đứng mãi chẳng muốn rời, vừa tiếc thương cho người quá cố, vừa như để nói lời từ biệt cùng hồ La Bố dưới chân núi.
Sự việc thứ hai là trong đêm mà vương phi già qua đời, vương phi của tiên vương An Quy tự tận tại phòng riêng. Người phát hiện ra nàng đã chết là một thị nữ, chỉ thấy nàng trang điểm vô cùng lộng lẫy, mặc y phục tuyệt đẹp, miệng ngậm cỏ độc, đã tắt hơi trên giường ngủ, gương mặt không hề có nét đau đớn nào.
Người đau đớn nhất trước cái chết của vương phi An Quy là Úy Đồ Kỳ. Chàng đã đem lòng yêu vương phi trẻ trung xinh đẹp của người anh đã mất, thầm tính sẽ lấy nàng làm vợ. Đây không chỉ là suy nghĩ riêng của Úy Đồ Kỳ, mà còn là hy vọng của tất cả vương tộc và toàn thể người dân Lâu Lan. Người Lâu Lan vô cùng yêu quý vị vương phi này của họ. Tất nhiên, Úy Đồ Kỳ chưa từng thổ lộ suy nghĩ của mình ra với bất kỳ ai. Mỗi ngày chàng đều bận rộn với việc dời đô cấp bách ngay trước mắt, cũng như bao việc vụn vặt dồn dập khác. Chàng định sau khi dời đô về Thiện Thiện sẽ thương lượng cùng với mọi người việc lập phi, tranh thủ sự đồng tình của tất cả để xe duyên cùng người chàng thương mến.
Vậy mà vương phi của tiên vương lại đột nhiên tự tận. Người Lâu Lan không ngừng bàn tán, có người bảo vận mệnh bi thảm của tiên vương khiến nàng quá bi thương, có người đoán nàng không muốn rời khỏi mảnh đất đã an táng tiên vương, cũng có người nói nàng tuẫn táng cùng thành Lâu Lan đang sắp bị biến thành phế tích. Không ai thật sự hiểu rõ nguyên nhân cái chết của nàng. Nhưng điều khó tin là mọi người đều bình thản tiếp nhận cái chết của nàng, chẳng chút ngạc nhiên, dường như đó là việc sớm muộn gì cũng phải xảy ra cuối cùng đã xảy ra. Mọi người chỉ cảm thấy kỳ lạ rằng sao mình không phát giác sớm hơn một chút.
Sự việc xảy ra rồi, người ta mới bừng tỉnh ngộ, vương phi không thể sống được ở bất cứ nơi đâu ngoài Lâu Lan. Giống như rời khỏi hồ La Bố là không còn Lâu Lan, rời khỏi hồ La Bố cũng không còn vương phi trẻ đẹp này nữa.
Do cái chết của vương phi già, Úy Đồ Kỳ đã hoãn việc dời đô Lâu Lan lại một ngày, giờ vì cái chết của vương phi tiên vương, lại phải lùi thêm một ngày nữa. Tang lễ được tổ chức long trọng vào ngày thứ ba. Hai thị nữ dùng vải lụa đẹp nhất khâm liệm cho vương phi, đội mũ lên đầu nàng. Úy Đồ Kỳ tự tay đặt vương phi vào quan tài, phủ lên người nàng tấm vải lụa dệt tinh xảo đem về từ nước Hán.
Vương phi của tiên vương được an táng trên sườn núi cách mộ của vương phi già không xa. Huyệt mộ được đào rất sâu, chôn cùng quan tài gỗ còn có mấy thùng đồ dùng thường ngày của vương phi và một con dê làm vật tùy táng. Buổi hoàng hôn, ráng chiều loang lổ vẽ lên nền trời những vệt đỏ hồng, tím thẫm và xanh biếc, điểm trang thêm cho phần mộ của nàng.
Người ta chặt một cây sanh liễu lớn bên hồ La Bố, cắm lên ngôi mộ để làm bia, rồi lại đặt trước mộ một bồn đá lớn đầy hoa tươi. Úy Đồ Kỳ và những người tham dự tang lễ đều tin tưởng một cách chắc chắn rằng trong tương lai không xa, họ sẽ quay lại đây cúng tế.
Ngày dời đô về phía nam, người Lâu Lan tập trung tại quảng trường trước cổng thành, mấy ngàn con ngựa và lạc đà chất đầy hành lý. Khi mặt trời sớm mai vươn lên từ phía bờ hồ La Bố, khiến mặt hồ nhuộm thành một phiến đỏ rực, họ lại lần nữa, mà có thể cũng là lần cuối cùng, cầu nguyện và lễ bái trước Hà Long. Đội quân đầu tiên bắt đầu xuất phát.
Một đội ngũ người cùng gia súc xen lẫn nhau kéo dài như một con rồng, từ từ trườn khỏi thành ấp. Đội ngũ bắt đầu qua khỏi đầm lầy và tiến lên hướng bắc, tiếp đó theo những dòng chảy đã cạn khô của sông để xuôi về phương nam. Khi đầu rồng tiến vào trong sa mạc, đuôi của nó vẫn còn ở cổng thành.
Khoảng nửa giờ sau khi nhóm cuối cùng rời khỏi thành, có ba người đàn ông tách đoàn quay lại nơi mà họ vừa xuất phát ban sáng. Một người về thành, cưỡi ngựa đến trước cổng nhà mình, vào nhà lấy ra một thanh đao bỏ quên trên giá trong kho, giắt đao vào lưng, rồi cưỡi ngựa đi. Một người khác thúc ngựa xuyên qua thành ấp đến khu rừng ven hồ, khuân phiến đá lấp miệng cửa hang giấu bảo vật, cất thêm một chiếc bình nhỏ của phương tây đem theo vào trong đó, rồi lấp miệng hang, đổ đất lên trên, dùng gỗ đè thêm cho chắc chắn, lại phủ thêm một lớp lá cây, ngụy trang để người ta nhìn vào không thể biết được bên dưới có một hang chứa bảo vật, sau đó lên ngựa. Người cuối cùng quay trở về thành không để làm việc gì cả, chỉ quất ngựa tới lui trên các đường ngang ngõ dọc trong thành, sau khi ra khỏi cổng thành còn ngước lên nhìn những bức tường thành lần nữa mới quay đầu ngựa, vút đi như một cơn gió, đuổi theo đoàn người phía trước.
Chỉ trong hai ngày, Lâu Lan đã biến thành một ngôi thành bỏ không, già cỗi và hoang phế chỉ trong chốc lát. Gió cuồn cuộn bốn bề, những bức tường đắp bằng bùn bắt đầu rệu rã. Khắp nơi đầy cát, cả tòa thành trông như một đống hoang tàn, tối tăm nhợt nhạt.
Chập tối ngày thứ ba, gió lớn đã tạm ngừng thổi, vài trăm lính người Hán xuyên qua sa mạc đến đây đồn trú. Thành ấp không một bóng người chốc lát dậy tiếng ngựa hí người kêu. Ngày hôm đó, nước hồ La Bố đục ngầu, mặt hồ gợn lên những đợt sóng lăn tăn.
3.
Trong suốt tám mươi lăm năm từ khi người Lâu Lan dời đến Thiện Thiện (năm 77 trước Công nguyên) cho đến loạn Vương Mãng đời Hán (năm thứ 8 Công nguyên), địa vị của Hán tại Tây vực đã áp đảo Hung Nô, thiết lập chế độ quản lý Tây vực và đặt ra chức Tây vực Đô hộ, đóng quân khắp nơi, đại thể đã thống trị được các nước Tây vực. Nhằm tranh đoạt Ô Tôn và Xa Sư, Hán và Hung Nô đã đánh nhau kịch liệt, dần dần Hán đuổi được Hung Nô khỏi Tây vực.
Người Lâu Lan dời đến Thiện Thiện, bắt đầu khai khẩn trồng trọt bên bờ hồ nước ngọt không có chút muối nào và xây dựng thành ấp của mình. Từ lúc dời về phương nam, Lâu Lan không còn bị Hung Nô quấy nhiễu. Nếu dựa vào ý nghĩa thoát khỏi xiềng xích của Hung Nô, thì việc dời đô đến Thiện Thiện đối với người Lâu Lan quả là một quyết định hay.
Năm thứ mười từ khi người Lâu Lan rời khỏi Lâu Lan, tức năm Địa Tiết thứ ba dưới thời Tuyên Đế (năm 67 trước Công nguyên), một nhóm chừng trăm người mang theo hơn trăm con lạc đà từ Thiện Thiện tiến đến Lâu Lan. Họ muốn quay lại đào những bảo vật năm nào chôn vùi gần thành Lâu Lan để mang về.
Trong số người này có quá nửa thuộc độ tuổi ngoài ba mươi, từ khi dời đô đến Thiện Thiện, họ không lúc nào nguôi nỗi nhớ Lâu Lan và hồ La Bố. Còn lại là các thiếu niên, có người lúc dời đô là một đứa bé còn chưa biết nhớ, có người dời đô rồi mới được sinh ra. Sau khi họ ra đời, ngày nào cũng nghe thấy trong lời cầu nguyện với Hà Long của những người xung quanh nhắc tới cái tên Lâu Lan và hồ La Bố, song không biết đó là nơi như thế nào. Họ rất khó tưởng tượng ra việc thực sự có nước chứa muối và cát chứa muối, chỉ biết rằng rồi sẽ có một ngày quay về nơi ấy, sống trong tòa thành nguy nga đẹp đẽ. Họ tin tưởng chắc chắn đó là vận mệnh mà thần của dân tộc đã an bài.
Thế nhưng, cuộc hành trình về lại Lâu Lan của nhóm người này kết thúc một cách bi thảm. Họ bị quân Hung Nô tập kích trong sa mạc, tổn thất mười mấy người và nửa số lạc đà. Sau bao gian khổ cuối cùng cũng tới được Lâu Lan, họ phát hiện ra Lâu Lan đã biến thành một căn cứ quân sự, trong thành đâu đâu cũng là binh lính nhà Hán. Để tập kích Hung Nô đang chiếm đóng Xa Sư, từng đoàn quân Hán kéo đến Lâu Lan, rồi lại từng đoàn kéo đi. Người Lâu Lan đừng nói đến việc vào thành, đến lại gần thành cũng không thể được, làm sao có thể tìm kiếm nơi chôn bảo vật của mình.
Đám người Lâu Lan này đứng trên gò cát phóng mắt nhìn nơi đã từng là đô thành Lâu Lan. Trong mắt họ, thành Lâu Lan cùng phong cảnh xung quanh đã hoàn toàn không còn giống như lúc họ còn ở đó. Nhìn dưới chân, gió miết từng hồi trên mặt đất, quyện thành những miệng cát hình phễu xoáy động. Mười năm trước tuyệt nhiên không phải thế này. Đường nét uốn lượn của các dãy đồi núi xung quanh thành ấp cũng đã thay đổi. Chẳng còn gì như xưa nữa. Nước hồ từng trong vắt như pha lê giờ đây đục ngầu, lau sậy ít đi nhiều, có thể thấy được sóng đánh vào bờ.
“Hà Long nổi giận rồi.” – Những người Thiện Thiện bây giờ, cũng là người Lâu Lan mười năm trước, nghĩ thầm. Họ chẳng đào lên được một bảo vật nào, trở về tay không.
Lại mười năm sau, một ông lão quản lý thủy lợi bảy mươi tuổi tự mình cưỡi lạc đà từ Thiện Thiện về Lâu Lan. Ông lão không nói với bất kỳ ai về việc này, khiến người xung quanh hoảng hốt tìm kiếm khắp nơi khi phát hiện ông đột nhiên biến mất. Ông chậm rãi băng qua sa mạc, ngày thứ mười cuối cùng cũng đến được thành Lâu Lan mà ông ngày nhớ đêm trông. Ông xuống lạc đà, bước vào trong thành. Một vùng hoang vu cỏ áy bóng tà.
Ông lão vào từ cửa thành phía đông, đi được khoảng hơn mười trượng thì gặp một thi thể quân Hán, xem ra chết chưa lâu. Thêm đoạn nữa, ông thấy ba thi thể quân Hung Nô lưng còn cắm mũi tên đang nằm dưới đất. Đi tiếp một đoạn nữa, lại phát hiện xác quân Hán. Lúc này, từ xa có tiếng ngựa hí vang vọng lại, ông lão dừng bước.
Ông quay lại cổng thành, cưỡi lên con lạc đà lúc nãy buộc gần đó, lập tức rời khỏi ngôi thành âm khí nặng nề. Lắc lư trên lưng lạc đà cả ngày trời, khi nhận thấy đã đến vùng lau sậy mọc đầy gần bờ nam của hồ La Bố, ông mới xuống khỏi lưng lạc đà. Ông biết mình chẳng thu được gì, những mục tiêu khi trở lại Lâu Lan đều chẳng đạt được. Ông muốn đào bảo vật, muốn cúng bái mộ tổ tiên, muốn nhìn cho thỏa lòng mong nhớ cảnh đẹp của bờ hồ La Bố mà ông từng sinh sống, nhưng những xác người trong thành Lâu Lan khiến ông quên hết tất cả những điều này.
Đoán mình đã cách bờ hồ La Bố không xa, nên ông trèo lên lưng lạc đà đi tiếp. Một giờ sau, ông đến được nơi giống như bên bờ hồ La Bố, bèn tuột xuống. Ông nhìn ra mặt hồ phía xa xa, thấy mấy ngọn tháp màu đỏ lọt vào tầm mắt, trong đó có một ngọn cao chót vót, ngọn tháp nhọn bốn mặt đều ánh đỏ. Đăm đắm hồi lâu, mấy ngọn tháp này sao trông có vẻ gì đó khiến người ta cảm giác không thật, giống như một trang hình cắt giấy được dựng đứng lên trên mặt hồ đang gợn sóng lăn tăn.
Ông lão lập tức lại trèo lên lưng lạc đà, rời khỏi, cho rằng cảnh tượng dị thường mà mình nhìn thấy vừa nãy trong thành Lâu Lan và cả hiện tại trên mặt hồ sở dĩ xuất hiện đều là do Hà Long đã nổi giận.
Sau khi về lại Thiện Thiện, ông không hé môi nửa lời về việc mình đã đi đâu, thấy những gì. Ông nghĩ, để làm nguôi cơn thịnh nộ của Hà Long, người Thiện Thiện tất phải nhanh chóng quay về cố đô Lâu Lan.
Cảnh tượng chết chóc mà ông lão nhìn thấy tại Lâu Lan chính vào thời đại mà thế lực của Tuyên Đế tại Tây vực hùng mạnh nhất. Năm Thần Tước thứ hai thời Tuyên Đế (năm 60 trước Công nguyên), Trịnh Cát nhận nhiệm vụ bảo hộ Tây vực, đóng quân tại thành Ô Lỗi của Quy Từ. Từ đó, đa số các nước Tây vực đều quy thuận Hán triều. Nhà Hán giao thương thường xuyên với Tây vực, các nhà buôn phương Tây hầu như ngày nào cũng phải đi qua Lâu Lan về hướng đông bắc.
Năm thứ 8 Công nguyên, Hán sinh nội loạn, Vương Mãng soán vị, thi hành chính sách coi thường Tây vực. Tây vực lại rơi vào cảnh loạn lạc, Hung Nô thừa cơ tiến vào hoành hành, không ít quốc gia bắt đầu quan hệ với Hung Nô mà quay lưng lại với Tây vực Đô hộ.
Thế nhưng, thái độ của Thiện Thiện từ đầu đến cuối lại thể hiện rất rõ ràng việc quy thuận triều Hán. Từng vì nương tựa Hán mà phải từ bỏ cố đô Lâu Lan, nơi đã cư trú đời này sang đời khác, song Thiện Thiện dù thế nào chăng nữa cũng không thể lại thay đổi thái độ ban đầu. Nếu giờ đây quay sang nép bóng Hung Nô, thì việc dời đô năm nào còn ý nghĩa gì nữa. Tuy những người Thiện Thiện biết về thời đại Lâu Lan đã chẳng còn được bao nhiêu người, nhưng trong lòng tất cả mọi người Thiện Thiện đều nhận định rằng việc từ bỏ Lâu Lan tự nó đã mang ý nghĩa cắt đứt hoàn toàn quan hệ với Hung Nô. Dù chuyện gì xảy ra, Thiện Thiện cũng phải dựa vào sức mạnh của nhà Hán, rồi sẽ có một ngày quay trở lại được cố đô Lâu Lan. Trong lòng người Thiện Thiện giờ đây, “Lâu Lan” chính là từ đồng nghĩa với “trở về đất cũ”.
Sau khi loạn Vương Mãng đã được dẹp yên, Quang Vũ Đế kế vị, nhưng thế lực nhà Hán không còn được như xưa nữa, thật khó mà cai trị một Tây vực hỗn loạn. Sự cướp đoạt hà hiếp của Hung Nô ngày một dữ dội hơn.
Năm 38 Công nguyên, vua Thiện Thiện đời thứ ba thương nghị với quốc vương Sa Chê lúc bấy giờ đang ngày càng lớn mạnh về việc phái sứ giả đến Hán tiến cống tài vật, thỉnh cầu Hán tích cực xuất binh vào Tây vực, khôi phục chức Tây vực Đô hộ vì loạn lạc mà đã phế bỏ. Bấy giờ, không chỉ hai nước này, mà các nước Tây vực khác đều không thể chịu đựng nổi sự bạo liệt ngang ngược của Hung Nô nữa, hy vọng được quy thuận Hán.
Năm 41 Công nguyên, quốc vương Sa Chê đơn độc phái sứ giả vào Hán, một lần nữa thỉnh cầu việc khôi phục chế độ Tây vực Đô hộ. Quang Vũ Đế không muốn đối đầu với Hung Nô, không chấp thuận lời thỉnh cầu của Sa Chê, nhưng lại mang ấn Tây vực Đô hộ ban cho Hiền vương của Sa Chê. Khi ấy Thái thú Đôn Hoàng là Bùi Tuân dâng tấu, cho rằng không thể mang ấn Đô hộ giao cho người Hồ, dẫn đến việc Hán thu hồi ấn. Vua Sa Chê vì thế mà trong lòng hận nhà Hán. Ông biết Hán không có lòng quản lý Tây vực, nên rắp tâm thống nhất các nước Tây vực. Hiền vương đầy dã tâm muốn vươn lên làm minh chủ, bèn bắt đầu từng bước xâm lược các quốc gia khác.
Các nước Tây vực mệt mỏi với sự xâm lược của Sa Chê, liên hợp dâng thư xin nhà Hán thảo phạt Sa Chê. Vua Thiện Thiện và mười tám nước Quy Từ, Sa Chê tiền quốc, Yên Kỳ v.v… cùng nhau bàn bạc, phái sứ giả đi sứ nhà Hán. Mỗi nước đều dâng tặng người hầu và các loại kỳ trân dị bảo, trình bày rõ tình hình Tây vực, thúc giục Quang Vũ Đế có thái độ tích cực hơn đối với Tây vực. Mười tám sứ giả các nước Tây vực thay phiên nhau khẩn cầu Hán thống trị Tây vực, nhưng Quang Vũ Đế vẫn giữ thái độ ỡm ờ, do dự không dứt khoát. Ngài ban thưởng cho sứ giả các nước Tây vực, nhưng không để người hầu mà họ tặng ở lại trong cung điện nhà Hán.
Sa Chê xâm lược Thiện Thiện, người Thiện Thiện ứng chiến. Đó là lần đầu tiên sau khi dời đô, họ phải cầm vũ khí bảo vệ thành ấp của mình. Thế nhưng, Thiện Thiện không phải đối thủ của Sa Chê. Thiện Thiện từng ba lần phái sứ giả đến Hán báo tình hình khẩn cấp để xin cứu giúp, song Quang Vũ Đế vẫn chẳng thèm bận tâm. Thiện Thiện đành xin cứu viện từ nơi khác, cuối cùng quyết tâm cùng với Xa Sư nhập vào đội ngũ của Hung Nô. Người Thiện Thiện quá giận dữ trước thái độ của nhà Hán nên đã lựa chọn nghiêng hẳn về phía Hung Nô. Lúc này đã là một trăm hai mươi năm sau khi cha ông họ từ bỏ Lâu Lan.
4.
Sau thời Quang Vũ Đế, Minh Đế nối ngôi. Minh Đế cũng bận rộn chăm lo nội chính, không hơi sức đâu mà nghĩ đến sự vụ của các ngoại tộc. Giống như thời Quang Vũ Đế, các cửa ngõ thông với Tây vực như Ngọc Môn quan, Dương quan đều đóng kín. Thời gian này, Hung Nô ngang nhiên hoành hành tại các nước Tây vực, không chỉ Thiện Thiện, mà các nước Tây vực khác đều quy thuận Hung Nô, cắn răng chịu áp bức.
Nhà Hán suốt một thời gian dài không ngó ngàng gì đến Tây vực, mãi cho đến những năm cuối đời Minh Đế, vì Hung Nô xâm phạm hành lang Hà Tây[3], mới bắt đầu xem xét lại vấn đề Tây vực. Hán muốn giữ được hành lang Hà Tây, tất phải thông Tây vực; muốn thông Tây vực, tất phải trục xuất thế lực Hung Nô.
Năm Vĩnh Bình thứ mười sáu (năm 73 Công nguyên), nhà Hán quyết tâm thảo phạt Hung Nô. Hai viên đại tướng Đậu Cố, Cảnh Bỉnh xuất binh từ Tửu Tuyền, tiến về phương bắc vào sa mạc đánh đuổi Hung Nô, chiếm lĩnh căn cứ địa Y Ngô Lô của địch. Cuộc chiến kết thúc, Đậu Cố lập tức phái sứ giả Ban Siêu đi sứ Tây vực, mở quan hệ ngoại giao với các nước. Ban Siêu dẫn đầu đoàn tùy tùng ba mươi sáu người ra khỏi Ngọc Môn quan, vượt qua sa mạc, mười sáu ngày sau đến được nước Thiện Thiện.
Từ sau loạn Vương Mãng, nước Thiện Thiện hơn sáu mươi năm rồi mới lại được tiếp đón sứ thần nhà Hán. Người Thiện Thiện chưa từng nhìn thấy nhiều người Hán như thế. Quốc vương Thiện Thiện là Quảng mở tiệc linh đình khoản đãi Ban Siêu, lưu ông lại mấy ngày. Nhưng lúc bấy giờ quân Hung Nô đã đến một nơi cách Thiện Thiện ba mươi dặm. Quảng sợ làm Hung Nô nổi giận, bất đắc dĩ phải thay đổi thái độ đối với sứ thần nhà Hán. Sự thay đổi đột ngột trong thái độ của người Thiện Thiện khiến Ban Siêu biết rằng Hung Nô đang ở gần đó. Ông xin vua Thiện Thiện thăm dò xem Hung Nô đóng nơi nào, ngay trong đêm ấy thình lình tập kích doanh trại Hung Nô, chém đầu sứ giả Hung Nô.
Vua Thiện Thiện khiếp đảm trước uy dũng của Ban Siêu, tỏ ý muốn quy thuận nhà Hán. Sau đó, Ban Siêu viếng thăm khắp lượt các nước Tây vực. Nhờ nỗ lực của ông, quan hệ ngoại giao bị cắt đứt suốt hơn năm mươi năm giữa nhà Hán và các nước Tây vực được phục hồi. Các nước Tây vực như Thiện Thiện, Vu Điền, Sơ Lặc, Xa Sư tiền quốc, Xa Sư hậu quốc v.v… đã nếm đủ mùi cay đắng từ sự bạo ngược của Hung Nô đều vui vẻ quy thuận Hán. Sau đó, Hán khôi phục chức Tây vực Đô hộ, chính thức bắt tay vào quản lý Tây vực.
Nhưng đến năm thứ ba, tức năm Vĩnh Bình thứ mười tám, Hung Nô mang hai vạn đại quân tiến vào với ý đồ đoạt lại Tây vực. Cuộc chiến định mệnh trường kỳ giữa Hán và Hung Nô được mở ra, Ban Siêu vì thế mà hao tổn sức lực tâm huyết của cả đời người.
Vua Quảng của Thiện Thiện nhân lúc đại quân Hung Nô đi về phía nam quyết một trận sống mái với quân nhà Hán đã soái lĩnh hai ngàn binh sĩ tấn công cố đô Lâu Lan. Lúc bấy giờ, Ban Siêu cầm đầu ba vạn đại quân đóng tại Sơ Lặc, lấy đây làm cứ điểm để thống trị Tây vực. Biết được tin này, một ý nghĩ vụt qua trong đầu vua Thiện Thiện vốn đang đầy nhiệt huyết, đó chính là đoạt lại Lâu Lan bị chiếm giữ nhiều năm từ tay Hung Nô. Mối thù của người Thiện Thiện đối với Hung Nô mãnh liệt hơn những quốc gia Tây vực khác. Hung Nô vừa tới, họ đã đóng chặt cửa, trốn xuống hầm, mặc quân địch muốn cướp bóc thế nào cũng được. Mỗi năm Thiện Thiện đều bị cướp bóc vài lần như vậy, không chỉ vẫn phải cống nộp rất nhiều tài vật cho Hung Nô, mà còn phải nuốt hận vào lòng, không ngừng nhịn nhục.
Đối với người Thiện Thiện giờ đây, Lâu Lan đã không còn là “đất cũ để trở về” – mảnh đất cha ông họ ngày nhớ đêm trông nữa, mà là nơi phục thù. Sớm muộn họ cũng phải quyết một trận tử chiến với Hung Nô. Hai ngàn binh sĩ Thiện Thiện được trang bị giáp trụ khí giới sẵn sàng cưỡi trên lưng ngựa và lạc đà, hướng về phía bờ hồ La Bố mà họ chưa từng đặt chân tới bao giờ, bắt đầu xuất phát.
Ba ngày đầu, đoàn quân gặp gió bão, hành quân vô cùng khó khăn gian khổ, nhưng không một ai bỏ cuộc. Khi còn cách Lâu Lan ba mươi dặm, người Thiện Thiện để lạc đà lại, tất cả lên ngựa, ngay trong đêm ập tới trước thành Lâu Lan. Họ vốn muốn vượt tường thành để bất thình lình tập kích nơi đóng quân của Hung Nô, chẳng thể ngờ trận kịch chiến diễn ra ngay ngoài thành. Hóa ra quân Hung Nô đã phát giác việc người Thiện Thiện muốn tập kích ban đêm, nên đợi họ tới gần tường thành mới nhất tề phóng tên độc. Trong phút chốc, tên bay như mưa trên dưới tường thành, binh sĩ Thiện Thiện trúng tên ngã xuống hàng loạt, thương vong vô số kể. Quân Hung Nô thấy vậy, bao vây đánh từ hai phía. Vua Thiện Thiện biết mình đã mất thời cơ, đành hạ lệnh rút quân.
Binh sĩ Thiện Thiện tan tác, nhân đêm tối chạy rút về hướng Thiện Thiện, lớp bị Hung Nô truy sát, lớp bị lạc đường trong sa mạc, cuối cùng còn không đầy ba trăm người về lại được Thiện Thiện. Chính trong lúc mọi người nghĩ rằng quốc vương đã tử trận thì thấy vua trở về, mình đầy thương tích.
Lần tập kích Lâu Lan này kết thúc thảm bại, người Thiện Thiện hiểu rằng họ chỉ có thể nương nhờ vào Hán. Minh Đế cảm thấy khó nắm bắt thái độ nay lúc này mai lúc khác của người Hồ, vì thế Ban Siêu phải lưu lại Tây vực, sống trọn đời giữa những cuộc chiến với các dân ngoại tộc. Trong tình hình Tây vực rối ren như thế, chỉ có Thiện Thiện trước sau chưa từng rời bỏ nhà Hán, hay nói khác đi là không thể rời bỏ nhà Hán.
Năm Vĩnh Nguyên thứ mười bốn (năm 102 Công nguyên), Ban Siêu sau nửa đời trên lưng ngựa chốn sa trường Tây vực đã cáo lão hồi hương, quay về Lạc Dương. Nhiệm Thượng tiếp nhận chức Tây vực Đô hộ, nhưng không có năng lực cai trị, khiến cho các nước Tây vực lại tiếp tục xa rời nhà Hán, Hung Nô ngày càng ngang ngược. Năm Vĩnh Sơ thứ nhất đời An Đế (năm 107 Công nguyên), Hán cuối cùng cũng lấy ba lý do là đường vào Tây vực xa xôi hiểm trở, các dân tộc Hồ biến hóa khôn lường, và phí tổn binh lực quá lớn để từ bỏ Tây vực, chiêu hồi quan lại và binh sĩ đồn trú tại Tây vực, một lần nữa đóng cửa Ngọc Môn quan và Dương quan. Hung Nô phương Bắc lập tức thế chân nhà Hán, trở thành kẻ thống trị Tây vực. Lâu Lan lại một lần nữa trở thành doanh trại của Hung Nô.
An Đế năm Nguyên Sơ thứ sáu (năm 119 Công nguyên), Bắc Hung Nô chinh phục các nước phía nam Tây vực, liên hợp lại hết lần này đến lần khác xâm phạm địa phận Hà Tây của nhà Hán. Thái thú Đôn Hoàng lúc đó là Tào Tông sợ Hung Nô sẽ dồn lực xâm lăng, bèn dâng tấu kiến nghị phải lôi kéo mua chuộc các nước Tây vực. An Đế bèn phái quan Trưởng sử Tác Ban làm tướng, dẫn hơn ngàn binh sĩ đên Y Ngô Lô, xoa dịu các nước Tây vực. Lúc bấy giờ, nước quy thuận Hán trước tiên chính là nước chịu sự cướp đoạt ức hiếp của Hung Nô nhiều nhất: Xa Sư tiền quốc và Thiện Thiện.
Để trả đũa, năm tiếp theo, Hung Nô chỉ huy binh sĩ của Xa Sư hậu quốc đến tập kích, công phá Xa Sư tiền quốc, giết Trưởng sử Tác Ban. Vua Thiện Thiện từng đem quân tới chi viện cho Tác Ban, nhưng bị Hung Nô đánh bại.
Vua Thiện Thiện xin Tào Tông cứu viện. Tào Tông dâng tấu thỉnh cầu triều đình xuất năm ngàn binh thảo phạt Hung Nô, song không được chấp thuận. Sau đó, triều đình triệu kiến Ban Dũng là con của Ban Siêu, người có công lao hiển hách trong việc trị lý Tây vực, để hỏi ý kiến về vấn đề này. Ban Dũng kiến nghị khôi phục ba trăm doanh trại vốn có tại Đôn Hoàng, đồng thời cho Trưởng sử Tây vực dẫn năm trăm binh sĩ đóng tại Lâu Lan, nhưng kiến nghị này cũng không được thực hiện.
Năm 124 Công nguyên, Ban Dũng nhận lệnh của An Đế nhậm chức Trưởng sử Tây vực, soái lĩnh năm trăm binh sĩ đến đóng tại Tây vực. Lúc này, Thiện Thiện cũng là nước đầu tiên quy thuận nhà Hán.
Với sự nỗ lực của Ban Dũng, thế lực nhà Hán từng vài lần được khuếch trương đến các nước Tây vực, song mỗi lần đều không được bao lâu. Thế lực của Hán vừa lơi lỏng một chút, Hung Nô đã lập tức thừa cơ nhảy vào. Nước Thiện Thiện bị kẹp giữa Hán và Hung Nô, thường bị Hung Nô ức hiếp. Chỉ cần quân Hán vừa vào Tây vực, thì Thiện Thiện luôn là nước đầu tiên quy thuận, nhưng rất nhanh sau đó sẽ bị Hán từ bỏ. Đây dường như đã trở thành số mệnh an bài cho Thiện Thiện, chẳng thể nào thay đổi được.
—
Thời Hán Vũ Đế, vùng xung quanh sông Tháp Lý Mộc có hơn ba mươi quốc gia nhỏ, bị kẹp giữa Hán và Hung Nô, lúc thân Hán, lúc thân Hung Nô, lại còn tranh đấu lẫn nhau. Đến hết thời Tam Quốc năm 280 Công nguyên, các nước nhỏ này dần sáp nhập lại thành vài nước lớn.
Thiện Thiện thôn tính các nước Thả Mạt, Tiểu Uyển, Tinh Sắc,…; Vu Điền nhập lại cùng Nhung Lư, Phù Di, Cừ Lặc, Bỉ Sơn v.v… Ngoài ra, Yên Kỳ, Quy Từ, Sơ Lặc, Xa Sư hậu quốc cũng từng bước ghép lại với các nước nhỏ lân cận. So với thời Hán Vũ Đế, lãnh thổ của sáu quốc gia này đã mở rộng rất nhiều.
Tuy nhiên, dù lãnh thổ được mở mang, các quốc gia này vẫn buộc phải quy thuận Tiên Ti cùng các ngoại tộc khác là thế lực thống trị phương bắc nổi lên thay thế Hung Nô giống như lúc trước quy thuận Hung Nô, lại còn phải tỏ ra biết điều với thế lực thống trị Trung Nguyên luôn đối chọi với Tiên Ti.
Năm Thái Ninh thứ hai đời Minh Đế nhà Đông Tấn (năm 324 Công nguyên), Tiên Lương vương uy chấn một cõi Đôn Hoàng là Trương Tuấn lệnh cho thuộc tướng Dương Nghi vượt qua sa mạc đi chinh phạt Thiện Thiện và Quy Từ. Hai nước hàng phục Trương Tuấn, vua Thiện Thiện là Nguyên Mạnh tặng mỹ nữ cho Trương Tuấn.
Năm Thái Bình thứ bảy đời Hiếu Vũ Đế nhà Đông Tấn (năm 382 Công nguyên), vua Xa Sư tiền quốc và vua Thiện Thiện gặp mặt Tiên Tần vương Phù Kiên. Hai vị quốc vương Tây vực mặc triều phục vua ban, đến Tây đường bái kiến Phù Kiên, bị cung điện hoa lệ và lễ nghi trang nghiêm làm cho choáng ngợp, bèn thỉnh cầu về sau năm nào cũng triều cống. Phù Kiên lấy lý do đường xá Tây vực xa xôi để cự tuyệt, sau lại quyết định ban cho chế độ ba năm triều cống một lần, chín năm triều bái một lần. Hai nước này còn nhận lệnh của Phù Kiên, dẫn đường cho Trưởng sử Tây vực Lữ Quang soái lĩnh bảy vạn năm ngàn binh đi đánh các quốc gia Tây vực khác.
Nhưng không lâu sau, Tiền Tần bại về tay Đông Tấn, mọi thứ đều sụp đổ. Tây vực cũng chịu ảnh hưởng lớn, trở nên vô cùng hỗn loạn.
Lúc ấy, một viên tướng trẻ nước Thiện Thiện quyết tâm đánh chiếm Lâu Lan vốn đã bị kẻ thống trị Trung Nguyên chiếm cứ trong một thời gian dài. Lâu Lan là thành ấp của tổ tiên, lý ra phải thuộc về Thiện Thiện. Chàng quyết định nhân thế cuộc hỗn loạn, đoạt lại Lâu Lan từ tay tướng lĩnh đã vong quốc của Tiền Tần.
Vị tướng trẻ nhận lệnh mang năm trăm thân binh tiến về Đôn Hoàng, nhưng giữa đường lại đổi hướng sang Lâu Lan. Trừ người chỉ huy, năm trăm bộ hạ không ai biết Lâu Lan có quan hệ với mình như thế nào.
Đoàn quân đi liên tục cả ngày lẫn đêm trong sa mạc, đến cách Lâu Lan còn hơn nửa ngày đường nữa, tối đó mới dừng lại nghỉ ngơi, chỉnh đốn quân ngũ. Sáng sớm hôm sau trước khi tiến binh vào Lâu Lan, vị tướng cho thuộc hạ biết nhiệm vụ của họ là đoạt lại Lâu Lan từ tay quân giữ thành giờ đã trở nên yếu thế, đồng thời giải thích quan hệ mật thiết giữa Lâu Lan và Thiện Thiện. Binh sĩ Thiện Thiện thường ngày rất tôn kính nhân phẩm và khâm phục uy dũng của người chỉ huy, nên không ai phản kháng. Họ cảm thấy phấn chấn vì mình có cơ hội tự tay giành lại thành ấp của tổ tiên, đồng thời tin chắc rằng nguyện vọng này sẽ trở thành hiện thực dưới sự dẫn dắt của vị tướng tài ba.
Ngày hôm đó, khi đội quân xuất phát, gió rất lớn, lúc tới gần tường thành cổ, gió càng dữ dội. Dưới hiệu lệnh của tướng quân trẻ tuổi, binh sĩ Thiện Thiện tiến từng bước một cách khó khăn giữa cát bụi ngập trời dậy đất, người ngựa cùng xuyên qua cuồng phong để tiến về phía trước, cuối cùng cũng nhìn thấy được vọng lâu và tường thành màu khói hùng vĩ ẩn hiện giữa màn cát bụi.
Vị tướng trẻ dẫn đầu đoàn quân, chém chết ba lính canh gác trước cổng thành. Toàn quân thừa thế xông thẳng vào thành, mở cuộc chém giết. Họ không biết có bao nhiêu lính giữ thành, nhưng quân địch đông hơn rất nhiều so với dự tính. Quân tiến vào chia thành mấy ngả, mỗi ngả đều giữ cho không được phân tán. Hai bên triển khai những trận đánh ác liệt trên pháo đài, đài bắn tên và các con đường trong thành ấp.
Màn đêm rơi xuống, những binh sĩ đang chiến đấu ác liệt phát hiện ra trời tối quá sớm. Gió ngừng thổi. Một phần ba binh sĩ Thiện Thiện đã ngã xuống, còn số binh sĩ thương vong trong thành gấp đôi quân binh Thiện Thiện.
Đến khi mờ sáng, cuộc chiến cuối cùng đã phân thắng bại. Tàn dư của đội quân giữ thành nhân lúc trời còn tối đã tháo chạy. Khi trời sáng hẳn, trong thành không còn bóng địch. Binh sĩ Thiện Thiện đi tuần tra trong tòa thành đầy thi thể, giống như những kẻ xâm phạm kia đã đánh chiếm nhà cửa đất đai của họ, đồng thời cũng là để rảo khắp các nhà, tìm tài sản.
Vị tướng trẻ tuổi cùng thuộc hạ bước lên vọng lâu, mảnh đất mà tổ tiên họ đã sống cách đây sáu trăm năm mở ra trước mắt, một vùng hoang vu lạnh lẽo. Ngoài thành là biển cát trải dài vô tận, vô số đồi cát nhỏ nối tiếp nhau, giống như những ngọn sóng bạc đầu nhấp nhô trên biển. Gió dịu hơn ngày hôm trước, nhưng vẫn cuốn theo cát trắng từ đồi cát bay thẳng lên không trung, tựa một tấm vải mỏng phất phơ theo gió hướng từ bắc về nam.
Vị tướng trẻ tuổi thầm nghĩ, không có sông hồ, tổ tiên mình sao có thể sống ở đây được! Khi nhìn thấy hướng đông bắc phía xa xa có một rừng cây, chàng thầm nghĩ, biết đâu phía ấy có một hồ nhỏ.
Thuộc hạ của chàng mang thi thể trong thành ném vào sa mạc, một người quay lại bẩm báo rằng trong rừng cây phát hiện một hồ nhỏ và dài như lưỡi dao, nước hồ xuất hiện dòng chảy, giống như đang đổ vào hồ lớn. Vị tướng gọi các binh sĩ cùng đi xem sao, chàng chắc mẩm quân địch sẽ không gọi thêm quân cứu viện đến tập kích, nên rất thong thả. Mặt hồ nhỏ, dài, nước trong vắt nhìn thấy đáy. Dòng nước như từ rừng sâu chảy về, không sâu lắm, từ từ vươn ra phía trước. Mặt hồ càng lúc càng rộng, có thể thấy chim chóc tụ tập thành đàn.
Binh lính Thiện Thiện quay trở lại thành, bày những ly rượu vừa tìm được ra để uống mừng thắng lợi. Mặt trời nhanh chóng ngả về tây, người Thiện Thiện chưa từng thấy cảnh mặt trời lặn đẹp đến như thế, ráng chiều rực rỡ đầy những sắc màu.
Một binh sĩ nói thấy mặt trời lặn thế này là điềm không tốt, chủ trương lập tức thu binh. Vị tướng trẻ cũng có cảm giác không bình thường, nhưng vẫn nán lại một đêm trong thành.
Sáng sớm hôm sau, binh sĩ Thiện Thiện nghe thấy âm thanh kỳ quái chưa bao giờ nghe, cuộn trong tiếng gió gào, nhưng hiển nhiên không phải là tiếng gió.
Vị tướng trẻ lệnh cho một binh sĩ lên vọng lâu xem thử. Đúng lúc ấy, một mũi tên bay tới, cắm vào tường, rồi rơi xuống lớp đá trên mặt đất. Là một mũi tên rất dài. Tiếp đó, vô số mũi tên từ xa không rõ hướng nào phóng đến tòa thành, bị gió thổi bạt đi, rơi đầy trên mặt đất.
Binh sĩ trên vọng lâu báo cáo, cát bụi che lấp cả mặt trời, trời đất mù mịt, không thấy gì cả. Vị tướng đích thân lên xem. Bên ngoài thành quả nhiên đúng như thế.
Lúc này, trời đất như bỗng có màn đêm ập xuống, gió gào thét liên hồi, trong gió truyền đến một thứ thanh âm, đó chính là tiếng sóng giận dữ của hồ La Bố. Ban ngày nếu họ tiếp tục tiến tới thêm chút nữa thì chắc đã có thể thấy hồ La Bố.
Vị tướng bước xuống vọng lâu. Mặt đất đầy tên, tiếng kêu gào kỳ quái mỗi lúc một gần. Chàng gọi quân lính tụ tập lại với nhau, xông thẳng về phía cổng thành, vì nếu số lượng quân địch quá đông đảo, thì việc khai chiến trong thành sẽ rất bất lợi. Quân Thiện Thiện ồ ạt đổ ra cổng thành, đụng phải một đội quân trang phục kỳ lạ từ ngoài thành đánh vào. Kẻ địch tay cầm đại đao bổ tới, binh sĩ Thiện Thiện dùng giáo dài nghênh chiến, hai bên nhảy vào tàn sát nhau.
Lúc này, cát đổ như thác từ trời xuống, chui vào khe quần áo, khiến người ta không mở mắt ra được. Hai bên không thể không tạm ngừng cuộc chiến.
Tiếng gió mỗi lúc một lớn hơn, mưa bão cát mỗi lúc một khốc liệt. Chỉ thấy trời đất tối sầm, hai bên giao tranh không phân biệt nổi đâu là quân ta, đâu là quân địch.
Vị tướng trẻ dẫn đầu mấy thuộc hạ xông ra khỏi thành, mưa cát bên ngoài còn mãnh liệt hơn bên trong, mỗi bước đều cực kỳ khó khăn. Binh sĩ Thiện Thiện từng người một ra khỏi cổng, nép vào chân tường thành, nơi đó cũng là chỗ náu mình của vô số quân địch đang tiến thoái lưỡng nan. Bấy giờ, cuồng phong kêu gào, ba đào gầm thét, mấy trăm chiến mã và lạc đà rống lên những tiếng kêu thảm thiết.
Bão cát thổi liền ba ngày ba đêm. Người, ngựa, lạc đà đều bị vùi trong cát. Tường thành cũng bị cát bụi vùi lấp mất một nửa.
Cuộc chiến bắt đầu một cách li kỳ, kết thúc một cách kỳ quái. Người Thiện Thiện và kẻ xâm phạm lạ lùng suốt ba ngày cuối vẫn tiếp tục đánh nhau trong cát.
Chiều ngày thứ tư, cuồng phong dần yếu đi, vị tướng trẻ bỏ lại mấy mươi binh sĩ bị vùi trong cát, rời khỏi thành Lâu Lan. Kẻ ngoại tộc xâm phạm kia cũng bị bão cát đoạt mất vài phần binh lực, cuối cùng rút khỏi toà thành nhỏ trên sa mạc.
Người Thiện Thiện mất ngựa, đành phải đi bộ quay về. Lúc họ rời tòa thành, giữa sa mạc vẫn đang cuộn lên mấy trăm vòi rồng bằng cát cao chót vót như những cây cổ thụ, đến xế chiều mới dần bớt đi.
Sau đó vài ngày, người Thiện Thiện lại tiếp tục gặp phải những hiện tượng quái dị trên sa mạc. Họ lúc thì nghe thấy tiếng người nói huyên náo, lúc lại nghe thấy tiếng hí vang của vô vàn con ngựa, trước mắt nhiều lần xuất hiện cánh rừng nhỏ nước chảy róc rách, nhưng đi thế nào cũng không tới được, cảnh tượng trước mắt cứ thế hiện ra rồi mất đi.
Một tháng sau, vị tướng trẻ dẫn theo một phần ba số quân ban đầu quay về Thiện Thiện. Họ không biết kẻ địch kỳ quái đến từ đâu, cho nên họ cho rằng đó là yêu ma sa mạc tác oai tác quái. Vị tướng trẻ đến chết cũng không biết rằng, những kẻ xâm phạm kia thực ra là quân đội của tộc Nhu Nhiên xưng hùng xưng bá ở phương bắc.
Hai năm sau, vị tướng trẻ này của Thiện Thiện lại cùng thuộc hạ đến Lâu Lan lần nữa. Thành Lâu Lan lúc này đã hoàn toàn bị vùi trong cát, chỉ lộ ra một chút vọng lâu. Họ lại đi vào rừng tìm cái hồ dài và hẹp như một thanh đao, nhưng không thấy đâu nữa, chỉ có một con đường cát trắng dài vươn mãi ra như một dải thắt lưng. Hồ La Bố không còn tung tích, Lâu Lan hoàn toàn chìm khuất trong sa mạc.
Khoảng sáu mươi năm sau đó, năm Nguyên Gia thứ hai mươi hai (năm 445 Công nguyên), Thiện Thiện và thế lực thống trị Trung Nguyên lúc bấy giờ là Thái Vũ Đế của nhà Ngụy đối chọi nhau. Thiện Thiện bị binh Lương Châu của Thái Vũ đế đánh bại, vua Thiện Thiện đầu hàng. Từ đó Thiện Thiện trở thành quận huyện của nhà Ngụy, không còn là một quốc gia nữa. Đến đây, hồ La Bố, Lâu Lan, Thiện Thiện đều lần lượt biến mất trong lịch sử.
5.
Năm Long An thứ ba (năm 399 Công nguyên), cao tăng Pháp Hiển và mấy chục tăng nhân từ Trường An xuất phát đi tới Ấn Độ để học tiếng Phạn. Trong bút ký du hành lúc bấy giờ có ghi chép rằng:
“Ra khỏi Ngọc Môn quan, vượt qua dòng sông cát, trong Sa hà có nhiều ác quỷ ác phong. Người gặp phải những thứ đó đều chết cả, không ai toàn mạng quay về. Trên không có chim bay, dưới không có thú chạy, nhìn khắp nơi hút tầm mắt để tìm một chỗ đi qua nhưng không biết nơi đâu. Chỉ có những đầu lâu người chết khô làm mốc chỉ dẫn mà thôi.”
Tuy không thể phán đoán chuẩn xác rằng nơi Pháp Hiển đi qua chính là sa mạc đã chôn vùi thành Lâu Lan, hay nơi trước kia đã từng là bờ hồ La Bố, nhưng có thể khẳng định rằng, ông đã đi qua vùng có thành Lâu Lan thuở trước.
Đến đời Đường, Huyền Trang (Tam Tạng) phụng mệnh Thái Tông vượt qua muôn vàn gian khổ đến Ấn Độ thỉnh kinh quay về được Trường An, giữa đường từng qua Lâu Lan. Trong Đại Đường Tây vực ký có ghi lại một đoạn ngắn như sau:
“Đi hơn bốn trăm dặm đến nơi trước kia từng là nước Đỗ La. Nước đã bỏ không, thành trì hoang vu. Từ đây đi về phía đông hơn sáu trăm dặm đến nơi trước kia từng là nước Chiết Ma Đà Na, tức đất Niết Mạt. Thành quách còn đây, nhưng chẳng có bóng người. Lại từ đây đi hơn ngàn dặm về phía đông bắc đến nơi trước kia là nước Nạp Phó Ba, tức đất Lâu Lan.”
Huyền Trang nhìn thấy trong sa mạc có hai tòa thành bỏ không, nhưng không có bất cứ ghi chép nào về Lâu Lan. Có lẽ thành Lâu Lan đã bị vùi sâu trong cát, bốn bề chỉ có sa mạc hoang vu trải dài vô tận. Lúc bấy giờ là năm 645 Công nguyên, cách nay đã hơn một ngàn năm lịch sử.
—
Mãi đến thế kỷ XX, Lâu Lan mới tỉnh lại từ trong một giấc ngủ dài, một lần nữa bước lên vũ đài lịch sử thế giới.
Trong thời kỳ ấy, màu sắc của khu vực này trên bản đồ thế giới đã nhiều lần biến đổi, chỉ có vùng đất nhỏ Lâu Lan say ngủ không ai biết tới, cũng chẳng ai dám bước vào đại mạc hoang vu rộng lớn không hề có dấu vết của sự sống.
Thế kỷ XX, nhà thám hiểm người Thụy Điển Sven Hedin khiến cho cổ thành ngàn năm Lâu Lan bị vùi lấp trong hoang mạc lại thấy được ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, các học giả đã phải trải qua rất nhiều cuộc tranh luận mới xác định được vị trí di tích Lâu Lan. Họ buộc phải đồng thời giải quyết vấn đề bí mật hồ La Bố, mặt hồ từng lăn tăn gợn những ngọn sóng xanh như ngọc bích, giờ lại không hề tìm ra tung tích.
Chính như người Lâu Lan cho rằng không có hồ La Bố thì không có thành Lâu Lan, các học giả thế kỷ XX cũng không thể tách rời hai vấn đề này để khảo chứng. Nếu di tích mà nhà thám hiểm Thụy Điển Sven Hedin phát hiện ra đích thực là Lâu Lan, thì ở gần đó phải có hồ La Bố. Hồ La Bố rốt cuộc đã đi đâu? Các học giả buộc phải tìm cho ra hồ La Bố trong số rất nhiều hồ giữa sa mạc, cho dù chỉ là một vết tích nhỏ. Ngoài ra, còn phải giải được bí mật vì sao hồ La Bố lại thay đổi vị trí của mình.
Cuối cùng, giới học thuật nhận định, nơi mà Sven Hedin phát hiện ra chính là di tích Lâu Lan, còn hồ La Bố dịch chuyển theo hướng nam bắc theo chu kỳ một ngàn năm trăm năm – dưới tác động của bùn cát tích lũy trong quá trình sông Tháp Lý Mộc chảy vào hồ La Bố cũng như dưới tác động của gió lớn khiến dòng chảy của sông thay đổi, hồ La Bố cứ một ngàn năm trăm năm một lần sẽ di chuyển từ bắc xuống nam, rồi một ngàn năm trăm năm sau lại di chuyển từ nam lên bắc.
Năm 1927 Công nguyên, Sven Hedin năm sáu mươi hai tuổi tổ chức một đội thám hiểm với sự tham gia của nhiều chuyên gia, thực hiện cuộc thám hiểm khảo sát Tây vực quy mô lớn lần thứ tư. Tên chính thức của đội thám hiểm này là Đoàn nghiên cứu khoa học Tây Bắc, thành phần chủ yếu có mười tám người Đức và người Thụy Điển, mười người Trung Quốc, còn thêm lái xe, đầu bếp thuê tại địa phương và nhân viên tùy tùng.
Sven Hedin quay lại thăm di tích Lâu Lan lần nữa trong lần thám hiểm lần thứ tư này. Một hôm, ông đi men theo một con sông trong sa mạc, đó là một trong những nhánh của dòng sông mà bốn thế kỷ trước đã từng chảy. Khi người Lâu Lan còn sống ở đây, con sông từng cung cấp lượng nước dồi dào, sau đó một thời gian dài dòng chảy trở nên cạn khô. Hiện tại, nhà thám hiểm phát hiện ra dòng sông đã lại bắt đầu có nước. Hồ La Bố dịch chuyển, Lâu Lan trở thành kinh đô bỏ hoang giữa sa mạc và bị lãng quên, cuối cùng bị chôn vùi trong cát. Ngày nay, dòng chảy của sông lại xuất hiện trên di tích Lâu Lan, mấy nhánh khô cạn từ bao đời lại bắt đầu có nước, thực vật cũng theo đó mà hồi sinh. Có thể tưởng tượng, mấy mươi dòng sông cát đã cạn khô rồi cũng sẽ chảy trở lại, và vô số sinh mệnh cũng sẽ quay trở lại cùng với nước.
Ngày hôm đó, Sven Hedin phát hiện hai cỗ quan tài trong sa mạc, một ở trên núi, một ở chân núi cách đó một quãng. Sven Hedin đã miêu tả một cách hết sức tường tận về một trong hai cỗ quan tài này trong trước tác của ông:
“Hai thuyền phu có đôi mắt như mắt chim ưng đã phát hiện ra trên đỉnh cao (vùng nền đất do vật trầm tích sau khi bị xâm thực bồi đắp vào mà hình thành) có một ngôi mộ, nằm tại góc phía đông trên phần nền đất nhỏ cạnh nền đất lớn.
Chúng tôi đi ngang qua phần mộ bị gió cát xâm thực, tới nơi hoang vắng có thể dừng lại nghỉ chân. Thấy thuyền đã không còn có thể tiến thêm được nữa, tôi bèn bảo mọi người dựng lều ở phía tây nam ngôi mộ số hai, nhưng tất cả đều muốn đi xem xét cùng tôi, nên không thể từ chối được.
Nền đất nhỏ trải dọc theo chiều từ đông bắc đến tây nam, dài bốn mươi mốt foot[4], rộng hai mươi foot, phần đỉnh cách mặt nước hai mươi chín foot, cách vùng đất xung quanh hai mươi bốn foot. Từ trên nền đất lớn nhìn ra là thấy ngay nơi đây có một phần mộ, vì những nơi khác đều trống trơn, chỉ chỗ này có một cây sanh liễu khô, càng nhìn càng thấy không giống với bất kỳ cái gì khác.
Cây sanh liễu khô này dường như đang mời gọi chúng tôi đào xuống phía dưới. Mọi người lập tức bắt tay vào việc. Tuy nhiên, phần đất kết lại thành nền cứng như đá, đang hình thành bàn thạch. Thế là có người quay về bên bờ tìm rìu, bổ được chỗ cứng rắn nhất ra. Mộ huyệt hình chữ nhật, nằm ở bờ nghiêng hướng tây bắc của nền đất, phía trên cách tầng đất bồi của bờ nghiêng một foot, đào xuống dưới khoảng hai foot. Đào đến hai foot ba inch[5] thì đụng phải nắp quan tài. Mọi người dùng rìu trước, sau đó dùng cuốc để cuốc những khối đất lên. Nắp quan tài được làm từ một phiến gỗ dài năm foot mười một inch, bảo tồn hoàn hảo. Phiến gỗ phần đầu rộng một foot tám inch, phiến gỗ chân rộng một foot năm inch rưỡi, gỗ dày một inch rưỡi. Phần đầu hướng về phía đông bắc.
Tuy phần nắp đã hoàn toàn lộ ra, nhưng quan tài và đất sét vẫn dính chặt lại với nhau không tách ra được, chúng tôi phải đào cho phần mộ huyệt rộng ra mới có thể mang quan tài lên khỏi mặt đất, thế là mọi người quyết định đào toàn bộ phần vách đất phía tây bắc. Đây là một công việc rất tốn thời gian và công sức, mọi người rồi cũng vượt qua được chướng ngại cuối cùng, cẩn thận từng chút một để nhấc quan tài lên đặt trên nền đất.
Quan tài có hình dạng đặc trưng của khu vực nhiều nước, giống như một con thuyền độc mộc thường thấy, được đóng từ một khối gỗ thẳng, bị cưa đi phần đầu thuyền và những mái chèo.
Hai tấm gỗ làm thành nắp quan tài đã bị gỡ ra ngay khi còn chưa san hết bùn đất. Chúng tôi không thể chờ thêm phút nào, muốn lập tức nhìn thấy người đã khuất trong giấc ngủ dài, nhưng thứ chúng tôi nhìn thấy đầu tiên không phải thi thể, mà là một tấm khăn trùm bọc từ đầu đến chân. Tấm khăn trùm vô cùng mỏng manh yếu ớt, tay vừa chạm vào lập tức tan ngay thành bụi. Chúng tôi mở phần khăn quấn đầu ra, và nhìn thấy người thống trị sa mạc xinh đẹp tuyệt trần: nữ vương của Lâu Lan và hồ La Bố.
Năm ấy, vị vương phi trẻ tuổi này đột nhiên tạ thế, những người yêu mến nàng đã mặc cho nàng tấm áo đặc biệt dành cho người quá cố, rồi chôn nàng trên ngọn núi yên tĩnh này. Nàng đã lặng lẽ an nghỉ được gần hai ngàn năm, mãi đến khi những kẻ hậu thế từ phương xa đến làm nàng tỉnh giấc.
Lớp da trên mặt nàng cứng lại giống như giấy da dê, ngũ quan và những đường nét trên gương mặt hoàn toàn không bị biến đổi trong chừng ấy thời gian. Nàng nhắm mắt, hốc mắt dường như không bị trũng xuống. Trên môi nàng vẫn giữ nguyên nụ cười mỉm chưa từng mất đi qua nhiều thế kỷ. Những điều thần bí này khiến cho nàng làm người ta vô cùng xúc động.
Thế nhưng, nàng không thổ lộ cho chúng tôi biết bí mật quá khứ: cuộc sống đầy màu sắc của Lâu Lan, vẻ đẹp mơn mởn ven hồ La Bố, những ký ức trên hành trình của những con thuyền nhỏ và những chiếc thuyền độc mộc.
Nàng nhất định đã từng thấy quân đội Lâu Lan ra khỏi thành nghênh chiến cùng Hung Nô và các man tộc khác, đã từng thấy những chiến xa chất đầy cung tên và vũ khí, từng thấy những toán thương buôn Lâu Lan hoặc những toán thương buôn dừng chân lại tại Lâu Lan, từng thấy vô số lạc đà chất đầy vải vóc tơ lụa quý giá của Trung nguyên đi về phía tây theo “con đường tơ lụa”. Nàng nhất định đã từng yêu, và từng được yêu, cũng có thể chính vì bi kịch tình yêu mà phải chết. Tuy nhiên, tất cả đều không thể nào biết được nữa. Phía cạnh trong quan tài dài năm foot bảy inch. Nữ vương xinh đẹp mà người đời không biết tới này là một người con gái có thân hình nhỏ nhắn, cao khoảng năm foot hai inch.
Dưới ánh mặt trời chiều, chúng tôi bắt đầu khảo sát y phục an táng của nàng. Đầu nàng đội một chiếc mũ vải, được thắt lại bằng một dải khăn đơn giản. Tấm vải đắp trên người nàng hình như là vải bố. Nàng mặc hai lớp lụa vàng, ngực đắp một mảnh lụa hình vuông thêu hoa đỏ, bên trong là một chiếc áo lót bằng sợi gai. Phần dưới thân thể nàng được bao bọc bằng tơ lụa, phía dưới là vải lụa vàng và vải gai, bên trong là váy ngắn màu trắng, trong cùng là váy mỏng và quần dài. Chân nàng đi hài lụa. Thắt lưng của nàng được thắt sát vào da thịt.
Chúng tôi lấy từ mỗi lớp trang phục của nàng một miếng nhỏ để làm vật mẫu, riêng mũ và giày thì lấy đi, còn lấy cả một bao đựng tiền có hoa văn tinh xảo. Ở góc phía ngoài quan tài phần sát với đầu, chúng tôi phát hiện một chiếc bàn nhỏ hình vuông và một chiếc bát gỗ màu đỏ, còn có một bộ hài cốt dê hoàn chỉnh. Đây chắc là những gì người ta chuẩn bị cho nàng để sang thế giới bên kia.”
Chúng ta không thể nào khảo chứng được, trong quan tài gỗ mà Sven Hedin khai quật lên kia có phải là vị hoàng phi trẻ tuổi đã tự tận vào ngày người Lâu Lan chuẩn bị bỏ thành để dời đi hay không. Cái chết của nàng vốn là một bí mật, chúng ta không cần phải quá đi sâu nghiên cứu làm gì. Suốt một ngàn năm trăm năm vùi chôn trong sa mạc, Lâu Lan và hồ La Bố cùng biến mất, không ai biết đang ở đâu. Hiện tại, sau những nỗ lực của các học giả, hai câu đố lớn này cuối cùng cũng được giải, vậy đã quá đủ rồi.
Ngày nay, hồ La Bố đang dần quay trở lại đất cũ Lâu Lan. Từ khi di tích Lâu Lan do Sven Hedin phát hiện ra tới nay đã quá nửa thế kỷ. Trong thời gian này, hồ La Bố không ngừng di chuyển về phía Lâu Lan. Ngay bây giờ, nó cũng đang dịch chuyển. Để hồ La Bố cuối cùng quay về được với Lâu Lan, chắc còn phải thêm vài mươi năm nữa, nhưng việc nó đang quay về là sự thực. Thần linh Hà Long của người Lâu Lan chắc cũng đang trên đường trở về. Mà không, có lẽ Hà Long đã về tới Lâu Lan.
(Phần trích dẫn Sven Hedin trong truyện này lấy từ tác phẩm The Wandering Lake )
[1]
(日)井上靖 著,赵峻 译. (2013). 楼兰.北京十月文艺出版.
(Nhật), Inoue Yasushi, Triệu Tuấn dịch. (2013). Lâu Lan. Nxb Văn nghệ tháng 10 Bắc Kinh.
[2] Bạch Long Đôi: vùng sa mạc địa chất với những đồi cát nhỏ bị gió xâm thực, là một trong những cảnh quan nổi tiếng thuộc vùng hồ La Bố.
[3] Hành lang Hà Tây (The Hexi Corridor) : khu vực từ Hoàng hà về phía tây, cũng là con đường từ Trung nguyên vào Tây vực, thuộc tỉnh Cam Túc của Trung Quốc ngày nay.
[4] Đơn vị foot quốc tế được định nghĩa là bằng với 0,3048 mét (tương đương với 304,8 milimét).
[5] Đơn vị inch quốc tế được định nghĩa chính xác bằng 25,4 milimét.