John Steinbeck, nhà văn Mỹ đoạt giải Nobel năm 1962, là một tiểu thuyết gia, tác giả truyện ngắn, nhà viết kịch nổi tiếng. Nhưng ông được biết đến nhiều nhất với cuốn tiểu thuyết “Chùm nho nổi giận” – một tác phẩm kinh điển của văn học nhân loại thế kỷ 20, có tầm ảnh hưởng sánh ngang với “Túp lều bác Tom” của Harriet Beecher Stowe.
Hà Linh –
![]() |
Nhà văn John Steinbeck. (britannica) |
John Steinbeck sinh ngày 27/2/1902 tại Salinas, California. Mảnh đất chôn rau cắt rốn này về sau đã trở thành bối cảnh trong rất nhiều tác phẩm của ông. Bố của Steinbeck là một thủ quỹ, nhà văn thừa hưởng tình yêu sách vở từ người mẹ là một giáo viên. Ngay từ ngày còn trẻ, Steinbeck đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ những tác phẩm nhưTội ác và hình phạt (Crime and Punishment –Dostoevsky) hay Thiên đường đã mất (Paradise Lost – John Milton).
Cuộc sống thời trẻ của Steinbeck khá vất vả. Ngày còn là học sinh trung học, ông phải tranh thủ làm thêm tại các nông trại trong những kỳ nghỉ. Từ 1920 đến 1926, Steinbeck học ngành sinh vật biển tại Đại học Stanford nhưng không tốt nghiệp. Chàng sinh viên trẻ lúc này chỉ chăm chắm vào những kế hoạch trở thành nhà văn. Rất nhiều bài thơ và truyện ngắn thời kỳ đầu của ông được xuất bản tại trường đại học.
Sau một thời gian lên New York vừa lao động chân tay vừa làm phóng viên cho tờ American, Steinbeck trở về California. Tại đây, ông vừa viết sách, vừa làm tất cả những công việc nặng nhọc để kiếm sống như thợ nề, công nhân nông nghiệp… Trong thời gian làm bảo vệ cho một tòa nhà ở High Sierra, Steinbeck đã viết cuốn tiểu thuyết đầu tay Cup of Gold (Chiếc cúp vàng – 1929). Trái với tên gọi của nó, Chiếc cúp vàng không mang lại vinh quang cho nhà văn, thậm chí NXB còn không thu hồi nổi khoản tiền 250 USD đầu tư để phát hành cuốn sách.
Đầu những năm 1930, Steinbeck gặp Edward Ricketts – một nhà sinh vật biển nổi tiếng. Steinbeck chịu ảnh hưởng lớn từ những quan niệm của Ricketts về sự tương trợ lẫn nhau giữa các loài sinh vật sống. Biển Cortez – cuốn tiểu thuyết viết năm 1941 – là kết quả của chuyến thám hiểm vùng vịnh California của ông và Ricketts.
![]() |
Một cảnh trong phim “Chùm nho nổi giận”. (starpulse) |
Năm 1933, Steinbeck xuất bản To a god unknown (Gửi vị Thượng đế không quen biết) – một tác phẩm mà ông biết trước là sẽ không mấy thu hút được sự quan tâm của dư luận.
2 cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Steinbeck ra đời và chìm dần vào im lặng. Phải đến năm 1935, khi xuất bản Tortilla Flat (Mẹt bánh mỳ ngô), nhà văn mới được biết đến trên văn đàn. Cùng với sự khởi sắc trong sự nghiệp, tình hình tài chính của ông cũng được cải thiện đáng kể. Nếu như trước đây, nhà văn chỉ kiếm được 35 USD mỗi tuần thì nay, với hợp đồng chuyển thể Tortilla Flat thành phim, Steinbeck có tới hàng nghìn USD.
Năm 1936, Steinbeck hoàn thành cuốn tiểu thuyết In Dubious Battle (Trong trận chiến giằng co) kể về cuộc bãi công của 900 công nhân nông nghiệp dưới sự dẫn dắt của Jim Nolan. Cuộc sống căng thẳng, khốn khó của những người công nhân đã được nhân vật Jim Nolan giãi bày trước giây phút lìa đời như sau: “Mac, tôi không bao giờ có thời gian dành cho những điều nhỏ nhặt khác, không bao giờ. Tôi không bao giờ đủ thư thả để ngắm những chiếc lá rơi hay quan sát xem mọi thứ xung quanh mình đã diễn ra như thế nào”.
Năm 1937, The Red Pony – một trong những tác phẩm xuất sắc của nhà văn ra đời. Bối cảnh câu chuyện diễn ra tại nông trại Tiflin ở thung lũng Salinas. Hai phần đầu của cuốn tiểu thuyết – The Giftvà The Great Mountains – được đăng rải rác trên North American Review từ 1933. Đến năm 1937, tác giả mới hoàn thành 2 phần cuối của cuốn sách – The Promise và The Leader of the People. Tác phẩm được chuyển thể thành phim năm 1949.
Cùng với The Red Pony, truyện vừa Của chuột và người (Of Mice and Men) được xuất bản và mang lại cho Steinbeck những thành công vang dội. Của chuột và người là câu chuyện về George Milton và Lennia Small, hai chàng trai làm công cho một nông trại nhưng luôn nuôi khát vọng một ngày được sở hữu một nông trại riêng. George Milton nhỏ bé nhưng khôn ngoan và vô cùng trải đời, trong khi Lennia Small to khỏe nhưng hơi thiểu năng về trí tuệ. Anh yêu thích những gì nhẹ nhàng, mềm mại. Họ sống bên nhau, yêu thương và bênh vực nhau trước sự khắc nghiệt của cuộc sống và con người. Nhưng rồi, Lenny bị cô con dâu lẳng lơ của ông chủ trại ve vãn. Anh dần dần ứng xử vượt ra ngoài tầm kiểm soát của George chỉ vì muốn được mân mê gấu váy và mái tóc mềm mại của người phụ nữ. Một lần, không ý thức được hành động của mình, Lenny lỡ tay bẻ gãy cổ cô con dâu và bỏ trốn. George đã đuổi theo và bắn chết Lenny trước khi đoàn người đuổi bắt anh tìm đến. Cùng với việc giải thoát cho người bạn đồng hành khỏi cuộc sống đày đọa và khổ ải, giấc mơ giản dị trong George cũng tiêu tan. Nhưng trước khi chết, Lenny vẫn trăng trối: “Hãy cố lên anh, chúng ta phải đến được nơi mình mơ ước”. Tác phẩm được Steinbeck chuyển thể thành vở kịch 3 hồi năm 1937.
Kiệt tác Chùm nho nổi giận (The Grapes of Wrath) của Steinbeck xuất bản năm 1939. Tác phẩm gồm 30 chương, miêu tả những biến đổi mạnh mẽ trong đời sống nông thôn nước Mỹ những năm đầu thế kỷ 20 dưới sự ảnh hưởng của nền công nghiệp hóa. Cuốn sách là câu chuyện về hành trình đi tìm việc và kiếm sống đầy tai ương và bất trắc của gia đình người nông dân Joad từ miền Đông đến miền Tây nước Mỹ. Khi mới ra đời, Chùm nho nổi giận đã khiến cho ngài nghị sĩ Mỹ Lyle Boren “nổi giận”, ông đánh giá đây là một tác phẩm “dối trá, đen tối và đáng ghê tởm xuất phát từ sự nhận thức méo mó, thiên lệch”. Sau đó, khi trao giải Nobel Văn học cho nhà văn, Viện Hàn lâm gọi nó đơn giản là “một thiên anh hùng ca”.
Sau Chùm nho nổi giận, Steinbeck còn gặt hái được khá nhiều thành công trong sự nghiệp, song cuộc sống riêng tư của ông không mấy hạnh phúc. Cuộc hôn nhân đầu tiên kéo dài 12 năm giữa ông và Carol Henning chấm dứt năm 1942. Năm sau, ông cưới ca sĩ Gwyndolyn Conger. Họ có hai người con Thomas và John. Cuộc sống với người vợ thứ hai này cũng không mấy suôn sẻ, hai người ly dị năm 1949. Năm 1950, Steinbeck kết hôn với Elaine Scott. Con trai ông, John thường xuyên phải nhập viện vì nghiện codeine. Vào những năm cuối đời, anh này còn nhiễm phải rượu và ma túy. Anh qua đời năm 1991. Trong cuốn The Other Side of Eden (Mặt trái của Thiên đường), anh đã viết về ông bố nổi tiếng của mình như sau: “Những nghệ sĩ bẩm năng thiên tài lại không phải là những ông bố, bà mẹ giỏi giang. Họ coi mình là trung tâm của vũ trụ và đối xử khắc nghiệt, khác thường với con cái. Con cái của những thiên tài thường phải tự mình chăm sóc lấy bản thân”.
Những năm về già, nhà văn dành nhiều thời gian để đi du lịch nước ngoài. Trong đó có chuyến đi đến Việt Nam để viết về chiến tranh. Khoảng 10 năm cuối đời, ông viết ít và hầu như không có thêm được tác phẩm nào có giá trị.
(Nguồn: Tổng hợp)