XEM PHIM ĐÈN LỒNG ĐỎ TREO CAO
by Lê Thị Hồng Hạnh
“Bạn làm việc trong điện ảnh, vậy thì bạn là con người của hình ảnh”. Chúng ta thường xuyên nghe thấy câu nói này, thường xuyện đến mức nó như đã thành một định đề được mặc nhiên thừa nhận. Thực chất điện ảnh không chỉ có hình ảnh. “Ngôn ngữ điện ảnh và truyền hình là một thứ cocktail đặc biệt của các hình thức nghê thuật khác nhau: hội họa, văn học, sân khấu, âm nhạc… được pha trộn hết sức khéo léo để cùng thể hiện một đề tài, kể một câu chuyện” (Bruno Toussaint).
Trong bài viết này, người viết tập trung vào một trong các yếu tố làm nên món cocktail đặc biệt ấy, đó là âm thanh. Có thể nói, bên cạnh hình ảnh, âm thanh là một thành tố không thể thiếu, góp phần tạo nên hồn cốt của các bộ phim. 1. Sơ lược về các yếu tố trong băng âm thanh Có thể chia âm thanh trong phim làm 4 thành tố cơ bản: tiếng thoại, âm thanh không gian, âm thanh hiệu quả và âm nhạc. 4 yếu tố này hòa trộn với nhau làm nên băng âm thanh của bộ phim. Chúng không phải được gắn lên hình ảnh một cách giản đơn mà cần được sử dụng trong sự hài hòa với dựng hình, tham gia vào cốt truyện phim, chuyển tải những thông điệp mà hình ảnh không thể biểu đạt hết.
Giọng nói, hay tiếng thoại trong phim truyện, lời bình trong phim tài liệu, tiếng trả lời phỏng vấn trong phóng sự tài liệu, trong một thời gian dài đã được xem như phần quan trọng nhất trong băng âm thanh. Người ta có xu hướng tập trung hết tầm quan trọng của một băng âm thanh vào giọng nói, giống như trong hình ảnh, người ta thường chú tâm vào diễn viên. Hệ quả là “trong quá trình thiết kế âm thanh, giọng nói thường được xử lí trước, và đến phần hòa âm cuối cùng, những yếu tố còn lại của băng âm thanh sẽ được xây dựng xung quanh giọng nói” (Bruno Toussaint). “Tuy nhiên, thực tế và sự diễn đạt lời nói trong phim truyện đã chứng tỏ với chúng ta hàng ngàn lần rằng giọng nói cũng chỉ là một trong những yếu tố, chứ chắc chắn không phải là yếu tố duy nhất, của môi trường âm thanh” (Bruno Toussaint).
Yếu tố thứ hai, cũng rất quan trọng trong băng âm thanh, là âm nhạc, nói đúng hơn là nhạc nền. Trước 1927, năm phim nói đầu tiên The jazz singer ra mắt ở Mĩ, hầu hết các nhạc trong phim là nhạc ứng tác. Ở thời kì đầu, một trong những nguyên nhân khiến các ông chủ rạp thuê các nghệ sĩ dương cầm đến chơi nhạc đêm cho phim chính là vì mục đích thực tiễn hơn là dụng ý nghệ thuật: họ muốn át đi tiếng ồn ào của máy chiếu, tiếng chạy ro ro của các cuốn phim và muốn tránh các cuộc bàn tán có thể xảy ra khi các khán giả xem phim. Về sau, ở những phim có ngân sách lớn, nhạc được soạn riêng và do một dàn nhạc chơi, chính từ đây mà truyền thống sáng tác nhạc phim được khơi dòng. Vì hầu hết được sáng tác sau khi phim đã quay xong, nhạc phim có đặc điểm là lúc nào cũng gắn liền với hình ảnh, nó “phải chia xẻ không gian cùng với hình ảnh”. Trong hầu hết các trường hợp, nhạc có chức năng gây cảm xúc, tác động tới tình cảm của người xem. Trong một số trường hợp khác, “nhạc có nhiệm vụ đơn giản là đệm cho hình ảnh, có lúc gần như thừa thãi”. Cũng có khi nhạc “bao trùm khắp không gian nghe nhìn bởi cường độ, bởi sự táo bạo trong cách sáng tác cũng như trong cách thể hiện”. Nhạc có thể sử dụng như những điểm ngắt trong một cảnh phim, cũng có thể như phần nối giữa hai cảnh phim. Đáng lưu ý là trong các tác giả có xu hướng cách tân, chẳng hạn như Godar, Felini, âm nhạc không phải lúc nào cũng chỉ đi bên cạnh hình ảnh, bổ sung cho hình ảnh như một thứ gia vị, mà nó có thể là một đối âm của hình ảnh, tạo ra một phản đề của hình ảnh. Trong một số bộ phim, âm nhạc có thể tự nó kể một câu chuyện riêng của nó.
Yếu tố thứ ba trong băng âm thanh là âm thanh không gian. Đó là tất cả những yếu tố âm thanh ngoại trừ giọng nói, nhạc và các yếu tố âm thanh hiệu quả, tạo nên bối cảnh âm thanh cho một bộ phim. Trong một thời gian dài, phần lớn các nhà điện ảnh đã coi nó như yếu tố dàn đầy không gian, nghĩa là nó chỉ có tác dụng củng cố thêm cho hình ảnh, tháp tùng hình ảnh, làm cho cảnh phim có vẻ thực hơn. Trên thực tế, âm thanh không gian “có thể được xử lí để trở thành một khúc giao hưởng thực sự, trong đó âm thanh được tạo ra và phối hợp với nhau, như trong phim của Jacques Tati hay David Lynch” (Bruno Toussaint)..
Yếu tố thứ tư trong băng âm thanh là âm thanh hiệu quả. Đó là âm thanh nhân taọ, được thực hiện trong khâu hậu kì, không có thật ‘nhưng đủ độ tin cậy trong khuôn khổ kịch tính”, tạo nên những hiệu quả đặc biệt cho phim.
Để hiểu hơn giá trị của các yếu tố trong băng âm thanh, chúng tôi xin đi sâu vào âm thanh trong “Đèn lồng đỏ treo cao” của đạo diễn Trương Nghệ Mưu, một bộ phim hấp dẫn không chỉ bởi hệ thống hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng mà còn bởi cách xử lí âm thanh độc đaó.
Trước hết hãy bàn về giọng nói. Trong “Đèn lồng đỏ treo cao”, mỗi lời thoại đều hết sức phù hợp với tâm lí, cá tính nhân vật, với câu chuyện và được thể hiện với tông giọng, chất liệu giọng thích hợp. Tiếng lão gia bao giờ cũng là giọng quyền uy sang sảng. Lão gia không trò chuyện với những người vợ theo cái kiểu tâm tình của một người chồng mà thường xuyên ra lệnh hoặc gắt gỏng và quát nạt. Phút đầu gặp Songlian trong đêm động phòng, lão không hỏi xem Songlian đi đường thế nào, sức khỏe ra sao mà chỉ tập trung vào việc ân ái. Lão gia mở đầu câu chuyện với việc giới thiệu công dụng của cái búa massage chân “bàn chân rất quan trọng với người phụ nữ. Massage chân sẽ giúp cho người phụ nữ cảm thấy khỏe và có đủ sức để phục vụ tốt cho người đàn ông của họ”. Thực chất cái mà người đàn ông này quan tâm không phải là sức khỏe của người vợ mà chính ở chỗ họ có thể thỏa mãn cho thú vui xác thịt của ông ta hay không. Tiếp theo những lời trò chuyện có vẻ ân cần này là một lọat những mệnh lệnh. “Cầm đèn lên. Đưa lên gần mặt. Cao hơn. Ngước mặt lên. Tốt lắm. Con nhà có học trông có khác. Cởi quần áo và lên giường đi”. Toàn những câu cộc lốc. Ta không hề thấy cái nâng niu của một tân lang với một tân nương mà chỉ thấy thái độ sỗ sàng, lạnh lùng, giọng của diễn viên ở đây cũng như đã tẩy trắng mọi xúc cảm, khiến ta liên tưởng đến lời của một chủ nô với một nô lệ. Khi bị bà ba Mai San nhõng nhẽo cho người gọi lúc đang ân ái với Songlian, bị Songlian kích, cách hành xử cuả ông cũng là gắt gỏng “Rồi ta sẽ trị cho mụ ấy một bài học. Ta chiều chuộng quá khiến mụ sinh hư”. Câu thoại này cho thấy với ông chủ này, những người vợ thực sự chỉ là những món đồ chơi, giữa ông ta và họ không thể nói đến cái gọi là tình yêu được.Khi Songlian giận dỗi vì bắt gặp lão gia đang cợt nhả với con hầu, ông ta cũng không hề nhọc sức dỗ dành mà bỏ đi ngay với câu nói cao ngạo đầy khinh bạc: “Nàng không muốn ta ở đây nhưng còn rất nhiều người đang mong được gõ chân đấy”. Có thể nói, với lão gia, tất cả những người vợ chỉ là những nô lệ, họ không có quyền phán xét hành vi của lão. Nhiệm vụ của họ là phải mua vui cho lão. Khi cần, lão đến, khi chán, lão đi. Giọng của lão gia luôn là giọng quyền uy, kẻ cả. Những trường đoạn sau này, lão gia tiếp tục xuất hiện với những mệnh lệnh: treo đèn lên, tắt đèn đi, bọc đèn lại. Ngay cả khi ông ân cần nhất, khi ngồi nghe bà ba hát và vỗ tay tán thưởng, giọng của ông vẫn là giọng cao ngạo của một kẻ bề trên.
Điều đáng lưu ý là trong suốt bộ phim này, Trần lão gia không bao giờ được quay rõ mặt. Tiếng thoại của ông phần lớn là tiếng thoại ngoài hình, nếu có tiếng thoại trong hình thì cũng là khi nhân vật xoay lưng lại máy quay hoặc chếch nghiêng so với máy quay, khiến khán giả không khi nào được nhìn rõ mặt. Tại sao như vậy? Có phải ở đây nhà quay phim cố ý để đại lão gia xuất hiện như một vị hoàng đế mà kẻ bề tôi không thể dễ dàng được chiêm ngưỡng long nhan, hay bởi đại lão gia là hiện thân của một thế lực vô hình đen tối, hiện thân của số phận, của định mệnh và vô vàn luật tục hà khắc trói buộc cuộc đời những người phụ nữ, trong đó có Songlian và những người phụ nữ khác trong Trần phủ?
Một nhân vật khác cũng xuất hiện với tiếng thoại ngoài hình là người mẹ kế của Songlian. Mở đầu phim chúng ta được nghe cuộc trò chuyện giữa Songlian và kế mẫu, nhưng chỉ có Songlian xuất hiện trong khuôn hình. Điều này cộng với cách nói, dáng vẻ của Songlian khiến chúng ta cảm thấy không phải cô đang đối thoại cùng kế mẫu mà đang đối thoại cùng số phận, hoặc đang độc thoại với chính mình. “Mẹ đừng nói nữa. Con đã nghĩ thông rồi. Con sẽ lấy một người giàu và trở thành thê thiếp của ông ấy. Đó chẳng phaỉ là phận số của phụ nữ hay sao?”
Nhân vật thứ ba được thể hiện xuất sắc là bà ba Mai San. Bà ba Mai San vốn là một cô đào được lão gia lấy về làm hầu thiếp. Vì vậy, ngay từ cách trang điểm đến giọng nói của cô đều toát lên khí chất của một đào nương. Tông giọng được lựa chọn để thể hiện tiếng thoại của cô là giọng cao lanh lảnh, có phần chói tai, bộc lộ một tính cách vừa đanh đá, vừa bộc trực. Bà ba trực tiếp xuất hiện lần đầu tiên trong phim qua cử chỉ khinh khỉnh không thèm đáp lại lời chào của Songlian, cách thoại không tiếng này công khai châm ngòi nổ đầu tiên cho cuộc chiến giữa hai người.Tiếng thoại thứ hai rất ấn tượng của tam phu nhân là tiếng hát lanh lảnh vào buổi sáng sớm, đánh thức Song lian và lão gia sau đêm đầu tiên họ thực sự ở bên nhau. Sở dĩ chúng tôi không xếp tiếng hát này vào phần âm nhạc của phim vì chúng tôi cho rằng tiếng hát này giống như một tiếng thoại nhiều hơn, nó là tiếng lòng Mai San. Tiếng hát ấy có âm cao chói tai, luyến láy của điệu kinh kịch truyền thống, bộc lộ rõ nỗi khổ đau, hờn ghen, xót xa của Mai San khi bị đức lang quân bỏ rơi, đồng thời như một hành động khiêu khích Songlian, phá hoại giấc mộng của Songlian. Tiếng hát văng vẳng như len vào tận căn buồng của Songlian, than trách, kể lể, khiến cho Songlian không thể nào ngon giấc. Khi Songlian ra và hỏi: “Sao chị hát sớm thế?” Mai San thản nhiên đáp lại: “Để cô không ngủ được nữa, nếu không cô sẽ lú lẫn”, lời thoaị này cho thấy cái tức tối, thái độ thách thức của Mai San và tính cách đanh đá của cô. Khi Songlian nói kiểu khiêu khích: “Tôi muốn nghe chị hát. Chị hát nữa đi”, Mai San tiếp tục kiêu kì đáp lại: “Cô muốn nghe à? Nhưng tôi không thích hát nữa”. Một tiếng thoại gây ấn tượng nữa của Mai San là tiếng nguyền rủa của cô khi bị bà hai cho người lôi về sau khi phát giác tội ngoại tình và tiếng thét đau đớn khi bị lôi lên căn phòng chết.
Gần như trái ngược với bà ba là bà Hai. Nếu bà ba là người bộc trực, đanh đá thì bà Hai lại là kẻ “khẩu Phật tâm xà”. Giọng nói của bà, vì vậy, cũng gần như đối lập với giọng nói của bà ba. Nếu giọng bà ba mang âm cao, chói tai, lanh lảnh thì bà Hai lại có giọng thẽ thọt, ân cần, giọng thẽ thọt ấy chứa đựng cái giả dối, hiểm ác của một con người “miệng nam mô bụng một bồ dao găm”. Bà Hai xuất hiện lần đầu tiên với tiếng chào đon đả “tứ muội, tứ muội” khi Songlian đến chào, mang lại cho Songlian cảm giác ấm áp, tin cậy, traí ngược với giọng lạnh lung bề trên của bà cả mà Songlian vừa tiếp xúc. Gắn liền với giọng ân cần ấy, bà mang miếng vải lụa Hàng Châu ra tặng Songlian. Nếu chỉ có những cử chỉ này, khán giả dễ lầm tưởng đây thực sự là một con người nhân hậu. Nhưng những lời nói tiếp theo đầy ẩn ý đã khiến chúng ta mơ hồ cảm thấy có cái gì không ổn trong tính cách của bà: “Nhìn miếng vải này, tôi nghĩ ngay đến cô. Nếu là cái người ở phòng bên (tức bà ba- LTHH chú) thì có trả tiền tôi cũng không cho đâu” . Câu nói này cho thấy bà ta thực sự không hiền lành một chút nào và nó cố ý để cho Songlian biết rằng bà ta cũng đồng cảm với Songlian, cũng căm ghét bà ba. Người xem phần nào đoán được Songlian đang bị bà ta lôi kéo để về chung một chiến tuyến chống lại Mai San. Trước mặt lão gia, con người này luôn tỏ vẻ dịu dàng, phục tùng. Trong bữa cơm, bà ân cần gắp đồ ăn cho Songlian, tỏ ra cam chịu khi Songlian đòi ăn ở phòng, thủ thỉ với lão gia khi xoa bóp cho ông: “Em muốn sinh cho lão gia một đứa con trai”. Kể cả khi bị Songlian cắt tai, mặc dù về khóc lóc, kể tội Songlian với lão gia nhưng khi Songlian sang xin lỗi, bà hai vẫn tỏ ra như mình là người rất bao dung, độ lượng: ‘Em đâu có cố ý. Chị hiểu mà” và còn cảm ơn Songlian vì nhờ có việc bị Songlian cắt tai mà bà ta được thắp đèn lồng suốt mấy đêm. Dù căm giận Songlian, khi Songlian có bầu, bị lão gia sai sang massage cho Songlian, bà vẫn im lặng phục tùng. Muốn lật tẩy việc Songlian giả vờ có bầu, bà hai cũng vẫn dùng giọng ngọt ngào ân cần như thể rất quan tâm, lo lắng cho Songlian: “thiếp thấy tứ muội dạo này không khỏe, lão gia hãy cho mời bác sĩ kiểm tra cho cô ấy”.
Nhân vật bà cả xuất hiện không nhiều nhưng các câu thoại của bà cũng đủ để ta phác nên một chân dung với nhiều góc cạnh. Bà xuất hiện lần đầu tiên với cảnh ngồi lần tràng hạt. Dường như do đã ý thức được sự già nua, kém cỏi của mình trong cuộc cạnh tranh sự sủng ái của lão gia, người phụ nữ này cố dập tắt ngọn lửa phiền bằng cách vùi mình vào cõi Phật. Nhưng Bà ta có thực sự quên lãng những ganh đua ở chốn nhân gian không? Tiếng tràng hạt rơi khô khốc trên sàn lúc Songlian đến chào đã cho thấy sự bối rối, bất an trong con người bà. Câu trả lời khô khan lạnh lùng của bà có lẽ không phải do bà không muốn gián đoạn sự nhập tâm khi niệm Phật mà ẩn chứa trong đó sự khó chịu âm thầm của một người đã bất lực trước một đối thủ nhiều ưu thế. Tiếng thoại thứ hai cho thấy bản chất của bà là khi bà ba và và bà hai tranh cãi nhau trong bữa cơm, bà nói một câu gọn lỏn: “bao nhiêu thức ăn này không đủ làm hai người câm đi hay sao”. Câu thoại này cho thấy người phụ nữ này cũng không hề có tâm Phật chút nào. Bà ta tụng kinh chỉ là một cách để giết thời gian và tạo vẻ uy nghiêm cho mình trước những thê thiếp của lão gia và các gia nhân.
Lời thoại của nhân vật chính Songlian không thật nhiều nhưng đầy sức nặng. Xuất hiện với tiếng trò chuyện với người mẹ kế nhưng gần như độc thoại, tiếng của Songlian mang vẻ trầm trầm u uất, nó vừa có cái sắc sảo vừa có vẻ bất cần, phù hợp với tính cách thông minh, đầy cá tính của cô. Cô luôn hiện diện với phong thái tự tin, quyết liệt. Cô tự mình lựa chọn lấy ông chủ Trần giàu có, tự mình đi đến nhà chồng không cần ai đón, và khi quản gia tỏ ý muốn xách hành lí giúp, cô điềm nhiên đáp lại: “Tôi đã tự mình đến đây. Để tôi tự xách nó”. Songlian cũng tỏ ra là người rất ý thức được vị thế của mình và muốn khẳng định vị thế của mình khi trả lời thái độ hiếu kì của Nhạn Nhi: “rồi cô sẽ biết ta là ai”. Lời thoại của Songlian thể hiện cô cũng là người tỉnh táo nhất trong những người phụ nữ ở đây, người đầu tiên ý thức được thân phận bi kịch, cuộc sống vô nghĩa lí của những người đàn bà trong Trần phủ. Khi bác sĩ Cao hỏi cô: “Sao cô không học nữa?”, Songlian trả lời cay đắng: “Học nữa thì ích gì? Tôi chỉ là một cái áo của lão gia, thích thì mặc, không thích thì cởi ra”. Ở đoạn cuối phim, khi trò chuyện với bà ba, câu thoại của Songlian cho thấy cô đã hiểu thấu sự tăm tối vô nghĩa lí của những kiếp đàn bà trong Trần phủ: “Treo đèn, thắp đèn, bọc đèn. Con người là gì trong căn nhà này? Người là ma, ma là người. Con người như mèo, như chuột, như thỏ, như tất cả những cái gì khác, chỉ không phaỉ như con người”.
Đặc biệt gây ấn tượng trong bộ phim này là cách xử lí âm thanh không gian. Người xem thực sự bị tác động mạnh trước hết bởi tiếng mở cổng nặng trịch khi Songlian bước vào Trần phủ. Âm thanh nặng nề này gợi liên tưởng đến một chiếc khóa vô hình sẽ khóa kín cuộc đời của Songlian, giết chết tuổi xuân tự do của Songlian, đồng thời cũng cầm tù tâm hồn non nớt trong sáng của cô. Âm thanh thứ hai đầy ám ảnh là tiếng đều đều đầy ma lực của chiếc búa massage chân. Tiếng búa này giống như một thứ thuốc phiện khiến những phu nhân ở đây nghiện đến quay cuồng. Lần đầu tiên tiếng búa xuất hiện là khi Songlian được chăm sóc để chuẩn bị cho tối tân hôn. Khi bị thất sủng, cái mà Songlian nhớ đến mê muội, quay quắt cũng chính là âm thanh của nó. Trường đoạn Songlian bị lão gia bỏ rơi và ngồi nhắm mắt nghe văng vẳng tiếng búa gõ chân thật ấn tượng. Trường đoạn này gần như được lặp lại qua hình ảnh con hầu Nhạn nhi ngồi một mình trong căn phòng nhỏ tự treo đèn lồng và đê mê tưởng tượng đến tiếng búa gõ chân. Có phải tiếng búa này đã đánh thức bản năng khát sống, khát yêu của những người phụ nữ? Việc nhận được massage chân đồng nghĩa với nhận được quyền lực và một đêm hoan lạc. Vì vậy, nó như là biểu tượng của đam mê xác thịt và đam mê quyền lực. Tiếng búa, do đó, không chỉ có sức hút với Songlian mà còn không ngứng ám ảnh các nhân vật khác như bà ba, bà hai và con hầu Nhạn nhi. Khi bộ phim khép lại, cái làm khán giả nhớ nhất cũng chính là âm thanh đầy ma lực của nó, bên cạnh màu đỏ nhức nhối của những chiếc đèn lồng.
Một yếu tố hết sức hiệu quả nữa trong hệ thống âm thanh không gian của phim này chính là tiếng treo đèn, hạ đèn và các mệnh lệnh về treo đèn và hạ đèn. Chúng luôn được thu ở cỡ cảnh âm thanh gần, và dường như còn được phóng to hơn so với thông thường, khiến khán giả có cảm giác như đây chính là những âm thanh trung tâm của cuộc sống trong Trần phủ. Có thể dẫn ra một trường đoạn làm ví dụ. Đó là đoạn ngày đầu tiên Songlian đến Trần phủ. Máy quay xử lí cận cảnh những người châm đèn và cận cảnh dãy đèn lồng. Âm thanh khô khốc của tiếng treo đèn được thu ở cỡ cảnh gần trở nên nổi bật trong sự im lặng tuyệt đối của những gia nhân. Vang vọng rất lớn trong không gian Trần phủ không phải như một câu thoại thông thường mà như một phần của không gian là tiếng rao của người quản gia về việc treo đèn: “Treo đèn ở chố bà tư” “Treo đèn ở chỗ bà ba” “Treo đèn ở chỗ bà hai”. Dường như tiếng rao này trở thành âm thanh được mong đợi nhất, được quan tâm nhất của tất cả mọi người trong Trần phủ và nó như một phần không thể thiếu làm nên cuộc sống của gia đình ấy. Trong khung cảnh tiếng khô khốc của hành động treo đèn và hạ đèn, các gia nhân luôn im lặng, không ai nói một lời. Dường như với họ, việc treo đèn, hạ đèn đã trở thành một thao tác quá quen thuộc, quá thuần thục, không có gì cần bàn cãi. Họ sống trong Trần phủ như những chiếc bóng biết đi. Bên cạnh tiếng treo đèn, bọc đèn, tiếng kéo cắt lách cách cũng được thu với cỡ cảnh gần, cho thấy tâm trạng đầy giông bão của Songlian khi cắt tóc cho bà hai. Tiếng khóa khô khốc khi bà ba bị nhốt vaò căn phòng trên gác cũng tạo nên một ám ảnh với Songlian nói riêng và khán giả nói chung, trở thành âm thanh ghê rợn của tiếng búa tử thần.
Âm nhạc trong phim cũng được sử dụng rất đắc địa. Có thể chia âm nhạc ở đây ra làm hai nhóm: âm nhạc trong ranh giới truyện kể và âm nhạc ngoài ranh giới truyện kể. Âm nhạc trong ranh giới truyện kể gồm tiếng hát của bà ba, tiếng kèn trống đám cưới (đám cưới mà Songlian gặp khi đang trên đường một mình về Trần phủ và đám cưới bà năm), tiếng sáo của cậu cả Feipu. Âm nhạc ngoài ranh giới truyện kể gồm tiếng trống chiêng binh khí mở đầu phim hoặc mở đầu mỗi phân đoạn chia tương ứng với ranh giới các mùa, tiếng hát văng vẳng âm u khi Songlian phát hiện ra sự thâm độc, giả dối của bà hai, tiếng nhạc rợn khi Songlian bước đến căn phòng nơi bà ba bị bức tử. Có thể thấy âm nhạc ở phim này không xuất hiện nhiều lần nhưng mỗi lần đều đắc dụng trong việc lột tả tâm trạng nhân vật hoặc tạo không khí cho câu chuyện. Trước hết hãy nói về âm nhạc trong ranh giới truyện kể. Tiếng hát của bà ba xuất hiện bốn lần. Lần thứ nhất giống như một tiếng thoại (đã được phân tích ở trên). Lần thứ hai, tiếng hát hiện diện (kèm với tiếng tán thưởng của ông chủ) như trêu ngươi, như khiêu khích, đối lập với sự cô đơn, buồn tủi của Songlian. Lần thứ ba và thứ tư nó không còn là tiếng hát trực tiếp mà là tiếng hát được thu trong đĩa mà bác sĩ Cao và Songlian mở lại. Tiếng hát do Songlian mở được bố trí trong một khung cảnh tạo sự ma quái để hù dọa những người trong Trần phủ bởi nó vang lên khi bà ba đã chết. Tiếng hát đó vang lên như sự phản kháng của Songlian với cái khắc nghiệt của Trần gia. Tiếng kèn trống đám cưới cũng rộn ràng trong sự đối lập với Songlian, lần thứ nhất là đối lập với cảnh nàng lấy chồng mà không một người đón rước, lần thứ hai, ở cuối phim, nó đối lập với hình ảnh Songlian như một cái bóng héo hon, đờ đẫn đi lại trong nhà. Đặc biệt mang sức nặng là tiếng sáo da diết của cậu cả Feipu. Tiếng sáo này lần đầu tiên vẳng đến khi Songlian ngồi một mình trong căn phòng đỏ rực. Tiếng sáo trở nên gần hơn khi Songlian đi lên dãy lầu cao và nhìn thấy Feipu đang say sưa thổi sáo ở phía xa xa.
Tuy nhiên, tiếng sáo này không hoàn toàn chỉ nằm trong ranh giới truyện kể. Thật vậy, khi tiếng sáo tha thiết trong không gian vẳng đến tai Songlian, nó nằm ở trong ranh giới truyện kể. Nhưng những lần sau xuất hiện, nó có thể được coi là trong ranh giới truyện kể, tức là tồn tại trong sự hồi tưởng, tưởng tượng của Songlian, cũng có thể là phần âm thanh ngoài truyện kể do đạo diễn đưa vào để thể hiện tiếng lòng nhân vật. Có hai lần như vậy. Lần một là khi Songlian sau khi nghe Feipu thổi sáo trở về phòng tìm cây sáo của mình không thấy và hỏi ông chủ Trần thì ông ta nói đã đốt rồi, Songlian giận dỗi vùng đứng dậy và lúc đó tiếng sáo da diết vang lên. Tiếng sáo này có thể là sự hồi tưởng trong nuối tiếc của Songlian, cũng có thể là một âm thanh do người làm phim đưa vào thể hiện tiếng lòng nhân vật, như biểu trưng cho niềm hy vọng vừa trở về đã bị dập tắt của Songlian. Lần ba tiếng sáo xuất hiện là ở trường đoạn Songlian rủ Feipu uống rượu để kỉ niệm sinh nhật lần thứ 19 của cô. Tiếng sáo vang lên khi Songlian đứng lên nhìn Feipu trân trối. Tiếng sáo có thể coi như chính là hiện thân cho niềm khát khao hạnh phúc, khát khao được chia sẻ của Songlian. Tiếng sáo có thể được coi là một hình ảnh giàu giá trị biểu trưng, nó như một đối trọng với biểu tượng chiếc đèn lồng đỏ và tiếng búa gõ chân. Nếu đèn lồng đỏ và tiếng búa gõ chân là biểu trưng của đam mê quyền lực và đam mê xác thịt thì tiếng sáo chính là biểu trưng cho phần thiên lương trong sáng của Songlian, mối đồng cảm hiếm hoi mà Songlian tìm được ở Feipu. Tiếng sáo khi gần khi xa cũng là biểu trưng cho hạnh phúc mà con người luôn tìm kiếm nhưng không thể nào với tới. Trong truyền thuyết Trung Hoa, tiếng sáo đưa đôi trai gái chung tình Tiêu Sử- Lộng Ngọc lên thiên đường của những người bất tử. Nó trở thành biểu trưng cho khát vọng trở về miền cực lạc, chốn bình yên không lo âu của loài người. Cùng yêu tiếng sáo, Songlian và Feipu có niềm đồng cảm với nhau và cùng khao khát tự do. Truyền thuyết của người Ả rập cũng nhắc lời của một nhà tiên tri rằng: Nếu một người trong sáng mà mất đi sự trong sáng thì người đó sẽ không thể hiểu được những điều bí mật trong gia điệu của cây sáo. Tiếng sáo, vì vậy, chính là thể hiện tâm hồn trong sáng của Songlian và Feipu. Phần âm nhạc ngoài ranh giới truyện kể được sử dụng có chọn lọc và đầy dụng ý. Mở đầu phim và mở đầu mỗi hồi (ứng với các mùa hạ, thu) là tiếng trống chiêng binh khí chạm nhau như trong các vở kinh kịch truyền thống. Âm thanh đó khơi gợi ở người đọc nhiều liên tưởng. Phải chăng đạo diễn muốn thể hiện cuộc đời ở đây như một sân khấu kinh kịch, hay ông muốn ám chỉ rằng cuộc sống trong Trần phủ luôn là những cuộc chiến đấu cam go? Tiếng trống và tiếng binh khí hối thúc cũng được lồng vào các cảnh khi những người vợ đứng đợi lệnh ban xem hôm nay sẽ thắp đèn lồng đỏ ở đâu. Phải chăng tiếng trống hối thúc ấy cũng chính là tiếng trống ngực hồi hộp của những người vợ? Một nét đặc sắc nữa ở phim này là việc sử dụng tiếng hát với sắc điệu âm u thê thảm như tiếng khóc. Đó chính là tiếng hát cay đắng như tiếng khóc than lồng cảnh Songlian đau đớn khi phát hiện ra bà hai chính là kẻ chủ mưu xúi Nhạn nhi ám hại mình. Có thể nói, các yếu tố âm thanh trong Đèn lồng đỏ treo cao đã phối hợp với nhau để tạo nên một băng âm thanh đầy hiệu quả, góp phần thể hiện tính cách nhân vật và chủ đề, tư tưởng của bộ phim cũng như tạo nên hồn cốt của bộ phim.
Tài liệu tham khảo:
1. Bruno Toussaint, Ngôn ngữ điện ảnh và truyền hình, NXB Dixit và Hội điện ảnh Việt Nam đồng xuất bản, tháng 12 năm 2007.
http://tinvanonline.org/2008/08/11/truong-nghe-muu/